Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sử dụng tranh biếm họa nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường thpt thác bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.85 KB, 19 trang )

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Sử dụng tranh biếm họa nhằm phát triển tư duy phản biện
cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Thác Bà”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và đào tạo
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Giảng dạy Lịch sử lớp 12
4. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 05 tháng 9 năm 2021 đến ngày 25 tháng 5 năm 2022
5. Tác giả:
Họ và tên: Bùi Thị Minh Thảo
Năm sinh: 1982
Trình độ chun mơn: Cử nhân Lịch sử
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THPT Thác Bà
Địa chỉ liên hệ: Tổ dân phố 2 - thị trấn Thác Bà- huyện Yên Bình- tỉnh Yên Bái.
Điện thoại: 0363543443
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SÁNG KIẾN
1. Tình trạng giải pháp đã biết
Thực hiện Nghị quyết 29/NQ- TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tại Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và
đào tạo, nhấn mạnh chuyển từ giáo dục trang bị chủ yếu kiến thức, kĩ năng sang phát
triển phẩm chất, năng lực người học, nền giáo dục nước ta đã có những chuyển biến
mạnh mẽ và sâu sắc. Trải qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, ngày 25-26/12/2018, Chương
trình giáo dục phổ thơng tổng thể và Chương trình phổ thơng mơn Lịch sử đã chính thức
được ban hành xác nhận mục tiêu, yêu cầu cốt lõi là sự phát triển năng lực và phẩm chất.
Để năng lực và phẩm chất được hình thành và phát triển ở người học thì việc sử
dụng đồ dùng trực quan là cần thiết. Hiểu rõ điều đó, các giáo viên lịch sử đã biết khai
thác tối đa những tiện ích của khoa học cơng nghệ, của hệ thống tranh ảnh, bản đồ để bài
giảng trở nên sinh động hơn. Trong những cơng cụ giảng dạy đó, tranh ảnh chuyên chở
một giá trị đặc biệt của tính trực quan và tính hứng thú. Qua thực tế giảng dạy, có thể

1




đánh giá được ý nghĩa to lớn của hệ thống tranh ảnh trong dạy học lịch sử, đặc biệt là
một hệ thống tranh ảnh khá mới mẻ - tranh biếm họa.
Tranh biếm họa là một công cụ dạy học được sử dụng nhiều ở các quốc gia phát triển
như Anh, Pháp, Đức, Mĩ… và nó đã khẳng định mang lại nhiều giá trị to lớn. Tuy nhiên, ở
nước ta, tranh biếm họa cịn là một cơng cụ đầy mới mẻ trong dạy học nói chung và dạy
học lịch sử nói riêng. Thực tế dạy học lịch sử cho thấy, tranh biếm họa giống như các loại
tranh ảnh khác, nó mang đầy đủ những ưu điểm của đồ dùng trực quan, góp phần khắc sâu
sự kiện lịch sử, nâng cao năng lực tái hiện kiến thức. Ngoài ra, tranh biếm họa còn nâng
cao sự hứng thú, giúp giáo dục tư tưởng, óc thẩm mĩ, đặc biệt là phát triển tư duy phản
biện cho học sinh.
Trong những năm học qua ở trường tôi, chất lượng bộ môn lịch sử là không cao, các
em cịn gặp nhiều khó khăn trong các bài kiểm tra trắc nghiệm. Đặc biệt đối với học sinh
khối 12, các em sẽ lấy điểm môn Lịch sử trong bài thi Tổ hợp khoa học Xã hội làm điểm xét
tốt nghiệp thì điểm trung bình của trường tơi xếp dưới mức trung bình của tồn tỉnh. Đó ln
là điều trăn trở của các giáo viên lịch sử của nhà trường. Tơi thấy cần quyết tâm tìm ra
những khó khăn của học sinh, giúp các em có hứng thú hơn đối với bộ mơn để từ đó nâng
cao chất lượng dạy học, thi tốt nhiệp môn Lịch sử.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi đã chọn nghiên cứu và áp dụng giải pháp “Sử
dụng tranh biếm họa nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học
Lịch sử ở trường THPT Thác Bà”.
2. Nội dung giải pháp đề nghị cơng nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của giải pháp
- Thấy được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng tranh biếm họa để phát triển
tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử trung học phổ thông (THPT).
- Đưa ra cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tranh biếm họa để phát triển tư duy
phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử.
- Nghiên cứu, điều tra những điều kiện cơ bản để tổ chức giờ học lịch sử có sử dụng
tranh biếm họa một cách hiệu quả.

- Đề xuất những phương pháp sử dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử THPT
- Áp dụng vào Chương III. Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lịch sử lớp 12 cơ
bản).

2


2.2. Nội dung giải pháp
2.2.1. Khái niệm về tranh biếm họa
Khái niệm “biếm họa”, tiếng Latinh là Carrus, tiếng Italia là Caricare sử dụng đầu tiên
cuối thế kỉ XVI, nghĩa là “cường điệu”. Ở Đức, thuật ngữ Karrikature, có nghĩa là “tranh biếm
họa” xuất hiện giữa thế kỉ XIX. Theo từ điển tiếng Đức, đó là những bức tranh hài hước,
phóng đại về một người, một vật hay sự kiện thông qua sự hài hước hoặc nhấn mạnh châm
biếm bằng cách chú trọng vào một số tính chất hoặc đặc trưng để chế giễu và đặc biệt là “nhạo
báng”. Ở Việt Nam, người ta thường dùng từ “tranh châm biếm”, tranh đả kích, tranh vui, hí
họa. Nhìn chung, tranh biếm họa có các đặc điểm cơ bản sau :
- Về hình thức, đó là một loại tranh (để phân biệt với ảnh chụp).
- Về nội dung, là loại tranh trong đó có yếu tố được phóng đại chi tiết nào đó của đối
tượng bị châm biếm, đả kích. Cũng chính vì thế, hầu hết tranh biếm họa đều gây cười.
- Về mục đích, nhằm châm biếm, chế giễu những thói hư tật xấu trong xã hội.
- Về chủ đề thì khơng có biên giới, bất kể chủ đề gì liên quan đến con người, quan
hệ giữa con người với con người trong đời sống xã hội.
Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau về tranh biếm họa, có khái niệm vắn tắt
hoặc chi tiết, nhưng gần như đồng nhất về nội hàm, đó là tranh châm biếm, chế giễu
thơng qua yếu tố hài hước, xuất phát từ sự phóng đại yếu tố đặc trưng của đối tượng bị
châm biếm.
2.2.2. Ý nghĩa của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Lịch sử để phát
triển tư duy phản biện cho học sinh
Tư duy phản biện là một kỹ năng được đề cao ở nhà trường cũng như trong đời
sống trong việc phát triển kỹ năng tư duy, đàm phán, phân tích vấn đề. Hiện nay, phần

lớn các định nghĩa giải thích về tư duy phản biện đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
sự rõ ràng và khả năng lập luận. Người có tư duy phản biện tốt có khả năng suy luận ra
những hệ quả từ những gì họ biết và sử dụng thông tin để giải quyết vấn đề, đồng thời
tìm kiếm những nguồn thơng tin liên quan để tăng hiểu biết của mình về vấn đề đó.
Khơng nhầm lẫn tư duy phản biện với việc thích tranh cãi hay chỉ trích người khác, tư
duy phản biện giúp chúng ta thu nạp kiến thức, tăng mức độ thấu hiểu lý thuyết đã biết,
củng cố cách lập luận, nâng cao hiệu quả xử lý công việc và giải quyết vấn đề.
Tư duy phản biện là kĩ năng vận dụng tư duy để hình thành và đưa ra các ý kiến lập
luận của bản thân nhằm giải quyết các vấn đề. Việc rèn luyện các kĩ năng tư duy trong đó

3


có tư duy phản biện cho học sinh là cần thiết, phù hợp với yêu cầu của việc đổi mới giáo
dục theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học. Trong đó, việc sử dụng
tranh biếm họa trong dạy học lịch sử có nhiều ưu thế để phát triển tư duy phản biện cho
học sinh.
Thứ nhất, tranh biếm họa mang đầy đủ những ưu điểm của đồ dùng trực quan.
Tranh biếm họa thực chất cũng là một loại đồ dùng trực quan, có vai trị quan trọng trong
việc mở đầu quá trình nhận thức - “ trực quan sinh động”. Bên cạnh đó, tranh biếm họa
lại có yếu tố cường điệu, sự hài hước, lạ lẫm thu hút học sinh. Vì vậy, với tranh biếm họa,
học sinh không chỉ đơn thuần quan sát tranh và liên hệ đến nội dung kiến thức mà còn
phải lý giải, phân tích, đánh giá những nội dung kiến thức được “cường điệu” trong tranh.
Thứ hai, tranh biếm họa góp phần khắc sâu sự kiện lịch sử, nâng cao năng lực tái
hiện lịch sử. Tranh biếm họa với những chi tiết phóng đại sẽ gây ấn tượng với người
xem, duy trì sự chú ý và làm chỗ dựa cho sự ghi nhớ. Theo quy luật ưu tiên của trí nhớ,
sự ghi nhớ sẽ có chọn lọc với các mức độ khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm thông tin. Sự
ghi nhớ sẽ ưu tiên cho những điều cụ thể, hình ảnh trực quan, sự vật, hiện tượng càng
sinh động, hấp dẫn càng gây hứng thú, càng dễ ghi nhớ. Những đặc điểm đó sẽ góp phần
giúp học sinh tái hiện kiến thức khi cần thiết, khắc sâu sự kiện lịch sử hơn, tạo biểu tượng

lịch sử ở học sinh.
Thứ ba, tranh biếm họa góp phần phát triển óc quan sát và tư duy cho học sinh.
Tranh biếm họa có đặc trưng là tính tính biểu tượng và logic vấn đề cao, ln có một lớp
nghĩa ẩn dưới các hình vẽ, nên để hiểu được tranh biếm họa thì học sinh cần có nền tảng
tốt, cộng thêm tư duy logic và tư duy phản biện cao. Do đó, sử dụng tranh biếm họa trong
dạy học lịch sử còn giúp thúc đẩy tư duy phản biện, chính kiến và sự logic trong nhận
thức của học sinh.
Thứ tư, tranh biếm họa có khả năng kích thích sự thảo luận và tranh luận trong lớp
học cũng như tạo ra một khơng khí học tập sơi nổi. Những cách nhìn khác nhau, những
quan điểm trái chiều…. là những vấn đề mà chúng ta phải đối mặt khi sử dụng tranh
biếm họa. Điều đó lại thúc đẩy học sinh phải tranh luận cũng như đưa ra những lập luận
chặt chẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Sự phản biện và những tiếng cười của học sinh
là những nhân tố quan trọng để tạo ra một bầu không khí học tập sơi nổi. Đó là nền tảng

4


của việc tiếp thu kiến thức một cách tích cực, là biểu hiện của sự hứng thú trong học tập
và là tín hiệu của những hành động đúng.
2.2.3. Nguyên tắc lựa chọn tranh biếm họa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
Thứ nhất, cần đảm bảo phù hợp với nội dung lịch sử. Tranh biếm họa giúp khắc sâu
kiến thức, do đó, chỉ nên dùng khi kết hợp với các nội dung quan trọng, trọng tâm bài
học, tránh phân tán sự chú ý của học sinh.
Thứ hai, khi lựa chọn tranh biếm họa dùng trong dạy học lịch sử cần đảm bảo tính
vừa sức. Ban đầu, khi mới tiếp cận thì nên lựa chọn những tranh biếm họa đơn giản và kết
hợp lời dẫn. Sử dụng một bức tranh biếm họa quá trừu tượng, phức tạp có thể quá sức với
học sinh, từ đó dẫn đến việc khơng đạt được mục tiêu dạy học như dự kiến.
Thứ ba, tranh biếm họa phải đảm bảo độ tin cậy. Vì tranh biếm họa mang trong nó
tính chủ quan của người vẽ nên khi đưa vào bài học cần chú ghi cụ thể các thông tin liên
quan đến người vẽ, năm ra đời, được in ấn ở đâu, xuất bản trên tạp chí hay tờ báo nào. Từ

những thơng tin đó, kết hợp với thông tin kênh chữ trong bài học, học sinh sẽ có cái nhìn
tồn diện hơn, chính xác hơn về nhân vật và sự kiện trong sự đánh giá của mình.
Thứ tư, khi đưa tranh biếm họa vào dạy học cần đảm bảo nguyên tắc hài hòa với các
loại kênh hình khác như: tranh, ảnh, bản đồ, lược đồ, bảng thống kê. Trong bài học cần có
đầy đủ các loại kênh hình bên cạnh tranh biếm họa để học sinh có thể hiểu thấu đáo nội dung
và phát triển đầy đủ kỹ năng.
Thứ năm, tranh biếm họa sử dụng trong dạy học cần đảm bảo tính rõ ràng về mặt
hình thức, có tính thẩm mĩ cao. Những bức tranh phản cảm về mặt hình thức khơng
những sẽ hạn chế tính giáo dục mà nó cịn có thể gây tác dụng ngược.
2.2.4. Kĩ thuật khai thác tranh biếm họa trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
Có nhiều cách phân tích, giải mã một bức tranh biếm họa và để khai thác và vận dụng
hiệu quả ý nghĩa của các bức tranh biếm họa vào dạy học, yêu cầu người giáo viên phải có
những hiểu biết về các vấn đề mà bức tranh thể hiện và kỹ năng truyền tải tốt. Đồng thời
giáo viên phải có kĩ thuật và phương pháp khai thác tranh thì mới có thể truyền tải hết được
những nội dung lịch sử tích hợp trong đó đến với học sinh. Dưới đây là 5 bước cơ bản để
có thể khai thác hiệu quả nội dung một bức tranh biếm họa:

5


Bước 1: Mơ tả các đối tượng và tình huống trong bức tranh như: không gian, bối
cảnh, tư thế, nét mặt, hình dáng, kích thước, màu sắc, hình khối…
Bước 2: Đưa ra nhận xét, định hướng ban đầu về nội dung được đề cập trong bức
tranh như: Mối liên hệ giữa các đối tượng và bối cảnh trong bức tranh; Xác định nội
dung thể hiện mà bức tranh hướng tới.
Bước 3: Đưa ra các phán đoán về nội dung thể hiện của bức tranh: Nhận biết và
giải mã những biểu tượng được sử dụng trong tranh biếm họa; Tìm hiểu các lời dẫn (nếu
có) và phân tích, tìm ra các khả năng mà bức tranh có thể thể hiện.
Bước 4: Mục đích thể hiện của bức tranh: Xem cá nhân, nhóm người nào hay một
vấn đề nào bị đưa ra phê phán; Suy nghĩ xem có mâu thuẩn nào được đưa ra trong

bức tranh không?
Bước 5: Đánh giá cuối cùng về nội dung thể hiện của bức tranh: đồng ý hay không
đồng ý với ý kiến của tác giả hoặc rút ra thơng điệp mà bức tranh muốn truyền tải.
Ví dụ 1: giáo viên có thể sử dụng bức tranh “Đức tấn công Liên Xô” (Phụ lục 1.
1) trong bài 17. “Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 -1945)” (Lịch sử 11 cơ bản), phần
diễn biến của chiến tranh. Trước hết giáo viên phát phiếu học tập kết hợp cho học sinh
quan sát để xây dựng đoạn miêu tả bức tranh thông qua một số câu hỏi gợi ý về nhân vật,
hành động của nhân vật trong tranh (thời gian làm việc là 3 phút), cụ thể như:
- Nhân vật trong bức tranh là ai ? Hãy miêu tả động tác tay của nhân vật và dự đoán
ý nghĩa của hành động này ?
- Hãy miêu tả hàng lính - hình chữ vạn - bia mộ có ý nghĩa gì ? (hay mối liên hệ
giữa chúng).
- Bức tranh phản ánh âm mưu gì của phát xít Đức trong trận Xtalingrat ? Để đối phó
với âm mưu đó, qn dân Liên Xơ đã làm những gì ?
- Bức tranh gợi cho em điều gì về Hít le và sự giữ gìn hịa bình, chống chiến tranh
phi nghĩa.

6


2.2.5. Kĩ thuật sử dụng tranh biếm họa trong các hoạt động của q trình dạy
học Lịch sử
Muốn có một bài dạy lịch sử hiệu quả cao cũng như để việc sử dụng tranh biếm họa
trong bài học trở nên sinh động, hấp dẫn, chúng ta có thể sử dụng linh hoạt tranh biếm
họa trong tất cả các hoạt động của quá trình dạy học.
Thứ nhất, sử dụng tranh biếm họa trong hoạt động khởi động để tạo động cơ học tập,
thu hút sự chú ý của học sinh. Tính tích cực học tập - động cơ - hứng thú có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Đây chính là ưu thế của tranh biếm họa so với các loại tranh khác. Sử
dụng tranh biếm họa trong dạy học lịch sử cần kích thích, hướng tới việc tạo động cơ bên
trong, sự khao khát, mong mỏi khám phá những điều ẩn chưa đằng sau sự “phóng đại” mà

bức tranh thể hiện.
Ví dụ 2: giáo viên có thể sử dụng bức tranh “Mau lên du hành” (Phụ lục 1.2) của
Nguyễn Ái Quốc trong phần khởi động, tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy bài 12.
Phong trào dân tộc dân chủ 1919-1925 - Lịch sử 12 cơ bản. Giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh khai thác bức tranh thông qua việc trả lời câu hỏi, yêu cầu học sinh nhận diện
các nhân vật và nêu được nội dung phản ánh trong tranh. Sau đó giáo viên dẫn dắt vào
cuộc khai thác thuộc địa và các chính sách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương,
hậu quả của chính sách đó đã dẫn đến các phong trào dân tộc dân chủ diễn ra mạnh mẽ ở
Việt Nam trong những năm 1919 -1930.
Thứ hai, sử dụng tranh biếm họa trong hoạt động hình thành kiến thức mới. Tranh
biếm họa được sử dụng trong trường hợp này sẽ đi kèm với gợi ý của giáo viên, câu hỏi
hoặc phiếu học tập như một định hướng kích thích tư duy và trí tưởng tượng của học
sinh, giúp các em chủ động tham gia vào quá trình lĩnh hội kiến thức, qua đó hiểu rõ nội
dung bài học được phản ánh trong tranh biếm họa.
Ví dụ 3: giáo viên sử dụng bức tranh “Ních xơn- tên giết người” (Phụ lục 1.3) của
họa sĩ Phan Kích khi dạy Bài 22. Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973) - Lịch sử 12
cơ bản, phần tìm hiểu về Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không (12 ngày đêm cuối năm
1972) nhằm lên án hành động của Mĩ khi dùng máy bay B52 đưa miền Bắc về “thời kì đồ
đá”. Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi: Em biết gì về Ních xơn ? Vì sao tác giả vẽ ơng ta
với hình ảnh con quỷ giết người? Mục đích của tác giả khi phác họa bức tranh này là gì?

7


Em có đồng ý với quan điểm của tác giả hay không? Tại sao? Sau khi học sinh trả lời
những câu hỏi nêu trên, giáo viên sẽ làm rõ hơn một số nội dung của trận Điện Biên Phủ
trên không, đồng thời bày tỏ sự đồng tình với tác giả khi phác họa bức tranh biếm họa
này.
Thứ ba, sử dụng tranh biếm họa trong hoạt động luyện tập. Bài giảng dù hay đến đâu

cũng không thể trọn vẹn nếu thiếu phần luyện tập. Việc luyện tập sẽ góp phần giúp học sinh
khắc sâu kiến thức, nắm được kiến thức trọng tâm cũng như hệ thống hóa kiến thức.
Ví dụ 4: giáo viên có thể sử dụng bức tranh “Truyền thống ưa nặng của các ngài
Tổng thống Hoa Kì” (Phụ lục 1.4) của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân để tổ chức cho học sinh
luyện tập củng cố bài 21 và bài 22, Lịch sử 12, so sánh 4 chiến lược chiến tranh từ 1954 -1973
với các câu hỏi định hướng như: Quan sát tranh và miêu tả tư thế của 4 vị tổng thống Mĩ.
Thông qua bức tranh, hãy cho biết 4 chiến lược chiến tranh mà Mĩ đã triển khai ở Việt Nam và
Đông Dương. Hãy cho biết thái độ của tác giả khi phác họa bức tranh và đánh giá giá trị của
bức tranh.
Thứ tư, sử dụng tranh biếm họa trong hoạt động vận dụng và mở rộng. Tranh biếm
họa ln được khái qt hóa, cơ đọng đến mức tối đa nhằm lột tả, nhấn mạnh ý tranh.
Chính vì vậy, nó giúp học sinh ơn tập kiến thức cũ hiệu quả. Giáo viên có thể thiết kế hệ
thống câu hỏi, bài tập, phiếu học tập kết hợp với việc sử dụng tranh biếm họa giúp học
sinh tự ôn tập và chuẩn bị bài mới ở nhà một cách hiệu quả.
Ví dụ 5: sau khi sử dụng bức tranh “Thuyết Domino của Mĩ” (Phụ lục1.5) ở trên
lớp trong Bài 6. Nước Mĩ, lịch sử 12, phần nước Mĩ từ 1945 đến 1973, chính sách đối
ngoại. Giáo viên có thể sử dụng nó để giao bài tập về nhà cho học sinh với yêu cầu: Em
hãy đóng vai là một học sinh Việt Nam trong thời kì 1954 -1975 để gửi đến Tổng thống
Mĩ một bức thư phân tích hậu quả của thuyết Domino mà Mĩ đang áp dụng ở Việt Nam
và yêu cầu Mĩ chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược này.
Thứ năm, sử dụng tranh biếm họa trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh. Sử dụng tranh biếm họa trong kiểm tra đánh giá là biện pháp hữu hiệu giảm bớt sự
căng thẳng, nặng nề cho học sinh vì đề kiểm tra đã trở nên sinh động, hấp dẫn, giảm bớt sự
nhàm chán, đơn điệu. Qua thực tiễn với việc sử dụng tranh biếm họa trong việc đổi mới
kiểm tra đánh giá, tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú và làm bài tốt hơn với kiểu ra đề này.
Từ đó chất lượng bộ môn cũng được nâng cao.

8



Ví dụ 6: sử dụng bức tranh “Truyền thống ưa nặng của các ngài Tổng thống Hoa
Kì” (Phụ lục 1.4). Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập ở nhà và sẽ lấy điểm 15 phút,
học kì 2, với 2 câu hỏi tự luận : Quan sát tranh, kết hợp với kiến thức đã học phần Lịch sử
Việt Nam 1954-1975, em hãy :
1. Phân tích sự sa lầy của Mĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 -1975) gắn với
các đời Tổng thống Mĩ được phản ánh trong tranh. (7 điểm).
2. Hãy cho biết thái độ của tác giả khi phác họa bức tranh và cảm nhận của em khi
quan sát nó. (3 điểm).
2.2.6. Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Chương III. Việt Nam từ 1945 1954 (Lịch sử 12 Cơ bản)
Chương III. Việt Nam từ 1945 -1954 của Lịch sử lớp 12 cơ bản có 4 bài học với hai
nội dung chính về cơng cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 -1946)
và cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược (1946 -1954). Trong đó
nội dung thứ hai chính là điều kiện tốt để tôi khai thác và ứng dụng hệ thống tranh biếm
họa vào dạy học. Sau đây là những đề xuất của tôi về khả năng ứng dụng tranh biếm họa
vào từng nội dung bài học cụ thể:
Bài 18. Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1946 -1950)
Các nội dung kiến thức cần khắc sâu trong bài học:
- Hiểu rõ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã bùng nổ trong bối cảnh lịch sử
thế nào. Ghi nhớ nét chính của đường lối kháng chiến chống Pháp. Trình bày được diễn
biến chính của cuộc chiến đấu ở các đơ thị phía Bắc vĩ tuyến 16.
- Trình bày được nguyên nhân Pháp đánh lên Việt Bắc năm 1947 và diễn biến chính,
kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến dịch.
- Nêu và lí giải được những thuận lợi và khó khăn trước khi ta mở chiến dịch Biên
giới thu đơng năm 1950. Trình bày được chủ trương của Đảng, những nét chính về diễn
biến, kết quả của chiến dịch. Phân tích được ý nghĩa thắng lợi và đánh giá được tác động
của chiến dịch đến cục diện của cuộc chiến tranh.
Bài 18 được bố trí thành 2 tiết với 3 nội dung cần khắc sâu như trên, trong đó:

9



- Tiết 1 gồm mục I. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ và II. Cuộc
chiến đấu ở các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
- Tiết 2 gồm mục III. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 và việc đẩy mạnh
kháng chiến toàn dân, toàn diện và mục IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch Biên giới
thu - đông 1950.
Trong 3 nội dung này, nội dung phù hợp nhất để sử dụng tranh biếm họa là mục IV ở
tiết 2. Chúng ta có thể sử dụng tranh biếm họa để tạo tình huống, khởi động cho tiết học
cũng như khắc sâu kết quả của trận Đông Khê và đánh giá về tác động của chiến dịch đến
cục diện của cuộc chiến tranh. Sau đây là một số bức tranh tơi sử dụng trong q trình dạy
học cho tiết này:
Bức tranh “ Đánh giặc giữ làng”. (Phụ lục 1.6 )
Nội dung bức tranh: Bức tranh tập trung phác họa cảnh thực dân Pháp và tay sai vơ
vét của cải của nhân dân. Ở đây tác giả vẽ 3 tên thực dân, trên vai là những chiếc đòn gánh,
trên đó chúng buộc lợn, chó…. Những tài sản của nhân dân ta. Ở dưới có ghi:
Ngựa quen đường cũ chạy cờ.
Tây quen cướp bóc vét vơ dân làng.
Ra đi hống hách hiên ngang
Bắt heo, xúc lúa ngang tàng lắm thay.
Bên phải của bức tranh phác họa hình ảnh người nơng dân với nét mặt hài hước,
miệng trong tư thế đang nói. Đối diện người nơng dân là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ với
nét mặt tươi sáng, đằng sau họ là ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phía dưới chân họ có ghi
những câu thơ:
Nhân dân căm tức tháng ngày.
Có anh bộ đội đến bày thế ni
“Muốn ngăn giặc khơng khó gì
Hầm chơng, lựu đạn tứ vi khắp bề”.
Cách thức thực hiện: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát bức tranh sau đó và
đưa ra các câu hỏi gợi mở: 1. Quan sát bức tranh, kết hợp với kiến thức đã học, em hãy

cho biết tình hình của ta và Pháp sau chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947. 2. Từ bức

10


tranh, em có nhận xét gì về mục đích của tác giả khi phác họa bức tranh “đánh giặc giữ
làng”? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại: với những nét phác họa hài hước, thông
qua bức tranh, tác giả lên án hành động cướp bóc, vơ vét của thực dân Pháp đối với nhân dân
Việt Nam; đồng thời phản ánh sự gắn kết giữa lực lượng vũ trang và nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến - một nội dung của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Ngoài ra, những nét
phác họa hài hước, vui tươi trên gương mặt của người dân và anh bộ đội cũng phản ánh tinh
thần lạc quan, niềm tin chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ. Đó
chính là nét tương phản giữa ta và địch sau chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947, tạo điều
kiện để ta mở chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
Với việc sử dụng bức tranh “đánh giặc giữ làng” khơng chỉ giúp học sinh nắm được tình
hình ta và Pháp sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 mà cịn tạo ra khơng khí học tập sơi
nổi ngay từ đầu mục IV để tạo ra hứng thú cho các em có tâm thế học tập tích cực, chủ động
trong suốt cả tiết học.
Bức tranh “Lính của Sac - tông (Charton)” của Mai Văn Hiến (Phụ lục1.7)
Nội dung: Trong tranh, tác giả phác họa một số lính Pháp đang tập mặc váy, mặc
yếm, chít khăn mỏ quạ, đội nón mê… phịng khi thua trận thì dễ bề trà trộn, chạy trốn
trong dân chúng. Sau khi thực dân Pháp để mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê bị uy
hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao
Bằng theo đường số 4. Sac - tông chuẩn bị những phương án cuối cùng cho cuộc rút lui,
ra lệnh phá hủy hết các kho trại, các khí giới nặng khơng mang theo được, chỉ mang theo
hai ngày lương thực, băng rừng xuống mạn tây nam để gặp đoàn quân của Lơ Pa giơ, đồng
thời truyền lệnh ai đi chậm không theo kịp thì bỏ lại. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này,
Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đơng Khê và đón cánh qn từ Cao
Bằng rút về. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều
nơi trên đường số 4, khiến hai cánh quân này không gặp được nhau. Hai binh đồn Lơ Pa

giơ và Sac - tơng bị tiêu diệt.
Cách thức thực hiện: Bức tranh được sử dụng để khai thác ở phần diễn biến và kết quả
của chiến dịch Đông Khê. Giáo viên cho học sinh tạo thành cặp đôi để thảo luận về bức tranh
với các câu hỏi sau đây để học sinh khai thác tranh gắn với nội dung bài học:
- Quan sát tranh, em thấy những người lính của Sac - tơng đang làm gì? Tại sao họ
lại thực hiện những hành động như vậy?

11


- Thông qua bức tranh, em hãy cho biết thái độ, mục đích của tác giả khi phác họa
hình ảnh “Lính của Sac - tơng”.
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm được: Phác họa hình ảnh
“Lính của Sac- tơng” với những hình ảnh khác thường nói trên, tác giả đã mang đến cái
nhìn hài hước, tiếng cười mỉa mai, châm biếm đội quân của Sac - tông - vốn là chuyên
nghiệp thế nhưng khi thất trận, đã đánh mất độ chuyên nghiệp của một đội quân dưới
quyền chỉ huy của Sac-tông.
Với việc sử dụng bức tranh, giáo viên sẽ giúp học sinh khắc sâu được kết quả của trận
Đơng Khê có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ chiến dịch Biên giới, từ đó thấy được sự đúng
đắn và tài tình của Đảng và Bác Hồ khi lựa chọn đánh trận mở màn ở Đơng Khê.
Bài 20. Cuộc kháng chiến tồn quốc chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi
(1953 -1954).
Các nội dung kiến thức cần khắc sâu:
- Trình bày và phân tích được bối cảnh lịch sử, âm mưu, thủ đoạn mới của Pháp Mĩ thể hiện trong kế hoạch Nava.
- Nêu được những nét chính về diễn biến và tác dụng của cuộc Tổng tiến công chiến
lược Đông – Xuân 1953 – 1954 đối với cuộc kháng chiến.
- Trình bày được diễn biến chính, kết quả của chiến dịch Điện Biên Phủ từ đó phân
tích được ý nghĩa lịch sử của chiến dịch..
- Phân tích được mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự và ngoại giao trong việc kết
thúc cuộc kháng chiến và nêu được nét chính về nội dung của hiệp định Giơnevơ.

- Hiểu được ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp (1945 – 1954).
Bài 20 được bố trí thành 4 nội dung tương ứng với 4 mục lớn trong bài gồm:
- Mục I. Âm mưu mới của Pháp – Mĩ ở Đông Dương: kế hoạch Na – va.
- Mục II. Cuộc tiến công chiến lược Đông- Xuân 1953 -1954 và chiến dịch Điện
Biên Phủ năm 1954.
- Mục III. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở
Đông Dương.

12


- Mục IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 -1954).
Trong bài này, giáo viên có thể sử dụng tranh biếm họa để khởi động bài học, tìm
hiểu kiến thức mới ở mục I và mục 2 của phần II (Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ)
đồng thời có thể dùng tranh biếm họa để kiểm tra, đánh giá học sinh. Sau đây là những
bức tranh biếm họa được tôi chọn lọc sử dụng ở bài này:
Bức tranh “How about sending them a flag ?” của họa sĩ người Mĩ Herblock.
(Phụ lục 1.8)
Nội dung bức tranh: Tranh được đăng trên tờ Washington Post (Mĩ) năm 1954.
Trong tranh, tác giả phác họa hình ảnh bốn người đàn ơng, trong đó có 3 người đàn ơng ở
phía bên trái bức tranh cùng cầm tấm biển có dịng chữ “Aid to Indochina” (viện trợ cho
Đơng Dương); ở phía dưới quần của họ có ghi chữ France (Pháp) và US (Mĩ) - họ là
những đại diện cho giới chính khách Pháp, Mĩ đang bàn về vấn đề viện trợ của Mĩ cho
cuộc chiến của Pháp ở Đông Dương. Bên phải bức tranh là người đàn ông tay cầm lá cờ
với chữ “Independence” (Độc lập), ra ý kiến: “hay là gửi cho họ lá cờ này?”. Thông qua
bức tranh cho thấy thái độ châm biếm sự phụ thuộc của chính quyền Pháp vào Mĩ trong
cuộc chiến tranh Đơng Dương; phê phán, đả kích sự can thiệp của Mĩ và cuộc chiến đồng
thời tác giả cũng bày tỏ thái độ ủng hộ cho nền độc lập của các dân tộc Đông Dương.

Cách thức thực hiện: Bức tranh này giáo viên có thể sử dụng ở cả 3 khâu: khởi
động, hình thành kiến thức mới, kiểm tra, đánh giá khi dạy Bài 20.
Đầu tiên, giáo viên có thể sử dụng bức tranh để khởi động, tạo khơng khí học tập
cho học sinh. Giáo viên giới thiệu tranh, yêu cầu học sinh quan sát và miêu tả các nhân
vật từ đó nêu lên nội dung bức tranh. Sau khi 2-3 học sinh trả lời, giáo viên chốt về nội
dung bức tranh và nêu vấn đề định hướng những nhiệm vụ mà học sinh cần giải quyết
trong bài học: Đó là tình hình nước Pháp sau 8 năm chiến tranh; hi vọng của Pháp – Mĩ
với kế hoạch quân sự Na va; sự kết thúc của chiến tranh Đông Dương trên mặt trận quân
sự và ngoại giao.
Thứ hai, giáo viên có thể khai thác bức tranh trong hoạt động hình thành kiến thức
mới, lí giải tại sao Pháp – Mĩ lại triển khai kế hoạch Na va, mục đích của kế hoạch Na va.
Thơng qua khai thác bức tranh ở khía cạnh nội dung, học sinh thấy được sự sa lầy của

13


Pháp sau 8 năm chiến tranh Đông Dương, Mĩ đã can thiệp và đóng vai trị như thế nào
trong chiến tranh này.
Cuối cùng, giáo viên có thể sử dụng bức tranh cho hoạt động kiểm tra đánh giá
thường xuyên và định kì với các câu hỏi như:
- Quan sát tranh, miêu tả các nhân vật và phân tích nội dung của tranh.
- Trên cơ sở tìm hiểu nội dung tranh, hãy cho biết về tình hình nước Pháp và sự
can thiệp của Mĩ trong cuộc chiến tranh Đông Dương (1945 -1954)?
- Thông qua các nhân vật trong tranh, em hãy cho biết thái độ của nhân dân hai
nước Pháp, Mĩ nói riêng và nhân dân tiến bộ thế giới nói chung về cuộc chiến tranh Đông
Dương (1945 -1954)?
Việc lựa chọn bức tranh này vào dạy học bài 20 sẽ góp phần tạo ra bầu khơng khí
học tập vui tươi, kích thích sự chủ động, sáng tạo, phát triển tư duy phê phán và giúp các
em ghi nhớ bài học sâu sắc hơn. Đồng thời cũng là một cách thức kiểm tra, đánh giá mới
mẻ, tránh được sự nhàm chán đơn điệu.

Bức tranh “Pháp xin hàng” của họa sĩ Nguyễn Bích. (Phụ lục 1.9)
* Nội dung bức tranh: Phía bên trái bức tranh là cảnh trú ẩn của nhân dân ta gồm chủ
yếu là người già, phụ nữ và trẻ em. Nhưng phía dưới lại có những tên lính Pháp đang trà trộn
nấp cùng. Phía bên phải bức tranh vẽ 2 tên lính Pháp quần áo vá chằng chịt đang cúi người
xin được nộp súng, phía trên là dịng chữ “Em xin nộp súng. Cho em trốn vào trong đó ạ”.
Bức tranh là sự chế giễu, đả kích của tác giả với bọn Pháp đang sa lầy trên chiến trường
Đông Dương, đã mất hết nhuệ khí chiến đấu trên chảo lửa Điện Biên Phủ - nơi mà Pháp và
Mĩ hi vọng là “pháo đài bất khả xâm phạm” của chúng.
* Cách thức thực hiện: Giáo viên sử dụng bức tranh trong mục II.2. Chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ. Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức tranh cùng với lược đồ trận
Điện Biên Phủ để tường thuật cùng với các câu hỏi gợi ý? Theo em tác giả vẽ bức tranh
vào thời điểm nào của chiến dịch? Thái độ của tác giả khi thể hiện bức tranh này? Sau khi
học sinh đưa ra các phán đốn của mình, giáo viên chốt: tác giả vẻ bức tranh ngay tại mặt
trận Điện Biên sau đợt 2 của chiến dịch và được đăng trên báo Quân đội nhân dân ở thời
điểm đó. Bức tranh cho thấy tình thế bi đát của lính Pháp và sự thất bại của chúng sau đó
là khơng tránh khỏi.

14


Với việc sử dụng bức tranh này, khơng khí lớp học sẽ trở nên vui vẻ, sôi nổi đồng
thời khắc sâu được diễn biến và kết quả của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
2.3. Tính mới, sự khác biệt của giải pháp
Sử dụng tranh biếm họa nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong
dạy học Lịch sử là một giải pháp mới trong dạy học lịch sử ở trường THPT Thác Bà.
Những năm học trước, tôi đã nghiên cứu và áp dụng nhiều sang kiến góp phần nâng cao chất
lượng dạy học và thi tốt nghiệp bộ mơn song kết quả vẫn cịn hạn chế. Do vậy năm học 2021
- 2022, tôi đã nghiên cứu và lần đầu tiên áp dụng sáng kiến nhằm mở ra thêm một giải pháp
mới trong dạy học lịch sử ở nhà trường.
Thực tế tranh biếm họa không được đưa nhiều trong chương trình sách giáo khoa Lịch

sử hiện hành. Cụ thể, ở lớp 10 chỉ có 02 tranh: Hình 56. Tình cảnh nơng dân Pháp trước cách
mạng, trang 151 và Hình 59. Vua Lu-i bị xử chém (21/1/1793), trang 156. Lớp 11 có 02
tranh: Hình 6. Các nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” Trung Quốc, trang 13 và Hình 32.
Lạm phát ở Đức, trang 64. Lớp 12 trong đó có chương III. Việt Nam từ năm 1945 đến năm
1954 thậm chí khơng có bức tranh biếm họa nào được đưa vào. Do đó, việc giáo viên tự
nghiên cứu, tìm kiếm, sử dụng tranh biếm họa trong dạy học để giúp học sinh thích thú,
khích lệ khả năng tranh luận, phản biện khi nhận thức lịch sử là một giải pháp mới, cần thiết
để việc học sử khơng cịn khô khan, nhàm chán và là nỗi sợ của rất nhiều học sinh hiện nay.
Tranh biếm họa kích thích rất mạnh đến thái độ học sinh, vì vậy việc tìm kiếm được
một bức tranh biếm họa vừa phù hợp với nội dung bài học, vừa kích thích được thái độ
tích cực của học sinh là điều khơng dễ dàng, địi hỏi mỗi thầy cô giáo phải thực sự là một
tấm gương tự học và sáng tạo.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Sáng kiến có tính khả thi và bước đầu thực hiện đã thu được kết quả khả quan.
Sáng kiến là tài liệu tham khảo hữu ích giúp đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy
Lịch sử.
Sáng kiến đã đề cập tới một vấn đề có giá trị thực tiễn cao và tương đối mới mẻ,
góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay. Việc đưa tranh biếm họa vào
dạy học lịch sử đã mang lại kết quả và phản ứng tích cực từ phía học sinh, điều này hứa

15


hẹn khả năng ứng dụng rộng rãi hơn nữa công cụ dạy học trực quan này vào dạy học Lịch
sử ở trường phổ thơng.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp
Để kiểm tra hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến, tôi đã tiến hành thực nghiệm giảng
dạy ở 2 lớp (Kế hoạch bài dạy thực nghiệm – Phụ lục 2) và đối sánh với 2 lớp có trình độ
tương đương nhưng không áp dụng sáng kiến. Cụ thể: sau khi dạy Chương III. Việt Nam
từ năm 1945 đến năm 1954 ở 2 lớp 12A1 và 12A2 mà không sử dụng bất kì bức tranh

biếm họa nào, tơi đã cho các lớp làm 1 bài kiểm tra trắc nghiệm thường xuyên (15 phút)
(Phụ lục 3) và thu được kết quả như sau:
Tổng số điểm của học sinh sau kiểm tra

Tổng
Lớp

số

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

(12A1

học

(9-10 điểm)

(7-8 điểm)

(5-6 điểm)

(< 5 điểm)

,12A2


sinh

Số học

)
86

Tỉ lệ Số học

Tỉ lệ

Số học

Tỉ lệ

Số học

Tỉ lệ

sinh

%

sinh

%

sinh


%

sinh

%

1

1.2

12

14

58

67.5

15

17.5

Ở 2 lớp thực nghiệm áp dụng giả pháp 12A5 và 12A6 sau khi dạy Chương III. Việt
Nam từ năm 1945 đến năm 1954, tôi cũng cho các lớp làm 1 bài kiểm tra trắc nghiệm
thường xuyên (15 phút) như hai lớp đối chứng 12A1 và 12A2 (Phụ lục 3) và thu được kết
quả như sau:
Tổng số điểm của học sinh sau kiểm tra

Tổng
Lớp

(12A5,
12A6)

số
học
sinh

85

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

(9-10 điểm)

(7-8 điểm)

(5-6 điểm)

(< 5 điểm)

Số

Số

Số học


Tỉ lệ

sinh

%

9

10.6

học
sinh
43

Tỉ
%
50.6

học
sinh
27

Tỉ lệ

Số học

Tỉ lệ

%


sinh

%

31.8

6

7

Qua đối chiếu, so sánh, phân tích kết quả ở hai bảng số liệu trên tôi thấy rõ tỉ lệ học
sinh đạt trên điểm trung bình và khá, giỏi ở 2 lớp thực nghiệm 12A5 và 12A6 đã tăng lên
nhiều so với 2 lớp đối chứng 12A1 và 12A2 (giỏi tăng 8 học sinh, khá tăng 31 học sinh). Tỉ
lệ học sinh điểm yếu giảm 8 học sinh. Có nhiều nguyên nhân để có thể đạt được kết quả trên,
nhưng tơi chắc chắn có phần đóng góp khơng nhỏ của việc áp dụng giải pháp đưa tranh biếm

16


họa vào dạy học để kích thích hứng thú, phát triển tư duy phản biện cho các em học sinh.
Kết quả này là một nguồn động viên rất lớn để tôi tiếp tục nghiên cứu, áp dụng giải pháp
trong tất cả các khối lớp giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử của
trường THPT Thác Bà.
5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu

TT Họ và tên

1


Phạm Thị Tươi

Năm
 sinh

1980

Nơi công tác

THPT Thác Bà

Chức
danh

Giáo
viên

Trình độ Nội
chun

cơng

mơn

hỗ trợ

Đại học

dung
việc


Áp dụng thử
sáng kiến

6. Các thông tin cần được bảo mật: Không
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Giáo viên giảng dạy: cần lựa chọn và thẩm định một hệ thống tranh biếm họa phục
vụ tốt cho các mục đích giáo dục và phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy
học Lịch sử. Đồng thời giáo viên phải tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa các phương tiện
dạy học nhằm đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học
Lịch sử. Việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử và nâng cao hiệu quả dạy học chỉ đạt
được thành công khi các thầy cô thực sự tâm huyết với nghề, khắc phục mọi khó khăn,
tích cực tìm tịi và sáng tạo.
Về trình độ nhận thức của học sinh THPT: các em đã đạt tới một sự phát triển nhất
định về thể chất và tư duy. Học sinh THPT đã thu nhận được một khối lượng thông tin về
cuộc sống xã hội, nên trong tư duy của các em đã hình thành phần nào kĩ năng phản biện.
Điều đó giúp các em giải mã những thông điệp mà mỗi bức tranh biếm họa mang đến
một cách dễ dàng hơn và chủ động hơn. Hơn nữa, học sinh hiện nay tỏ ra tự tin, bản lĩnh
và rất cá tính. Các em cũng tỏ ra quan tâm nhiều đến lịch sử, thích tranh luận để khẳng
định các giá trị sống của bản thân. Đây chính là lí do chúng ta có thể kết hợp rất tốt tranh
biếm họa với các phương pháp tích cực khác để phát triển tư duy phản biện cho học sinh.
Về điều kiện cơ sở vật chất và hệ thống thông tin: ở trường THPT Thác Bà các
phòng học đều đã có khá đầy đủ máy tính, bảng thơng minh, máy chiếu, loa, mạng

17


Internet. Đặc biệt tranh biếm họa báo chí đã có lịch sử hơn 2 thế kỉ trên thế giới và một
thế kỉ ở Việt Nam. Đây chính là cơ hội tốt để giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với
kho tranh biếm họa để khai thác, phục vụ cho việc dạy và học.

8. Tài liệu gửi kèm:
Các tài liệu tham khảo.
Phụ lục 1 – 9 tranh biếm họa sử dụng trong sáng kiến.
Phụ lục 2 – kế hoạch bài dạy.
Phụ lục 3 - đề kiểm tra thường xuyên.
III. CAM KẾT KHƠNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN
Tơi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong sáng kiến kinh nghiệm là không sao
chép hoặc vi phạm bản quyền. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước pháp luật về các
thông tin trên.
Yên Bái, ngày 10 tháng 01 năm 2022
Người viết báo cáo

Bùi Thị Minh Thảo

18


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ VỀ VIỆC TRIỂN KHAI ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN TẠI ĐƠN VỊ
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
HIỆU TRƯỞNG


19



×