Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh khi học môn lịch sử nói chung và học bài 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.01 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lí do chọn đề tài:
1
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
2
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
3
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
4
2.3.1. Điều kiện phát huy khả năng phản biện của học sinh trong 4
dạy học Lịch sử.
2.3.2. Bồi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh
4
2.3.3.Tăng cường rèn luyện khả năng phản biện
5
2.3.4. Bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu theo chuyên đề, tổ chức 5
chuyên đề ngoại khóa
2.3.5. Các bước thảo luận để phát triển kĩ năng phân tích, đánh giá 6
nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh.
2.3.6. Quá trình tổ chức phát triển tư duy phản biện thông qua 8


tranh luận.
2.3.7. Phát triển tư duy phản biện cho học sinh thoonqua bài học 9
cụ thể: Bài 10: Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn
cầu hóa nửa sau thế kỉ XX
2.3.8. Một số điểm cần lưu ý khi phát triển tư duy phản biện cho 16
học sinh thông qua môn Lịch sử trường THPT
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, 17
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối tượng kiểm nghiệm:
17
2.4.2. Cơ sở thực nghiệm:
17
2.4.3. Kết quả thực nghiệm:
17
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
18
3.1. Kết luận:
3.2. Đề xuất:
Tài liệu tham khảo
19

0


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XI và Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội đặt ra là
phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc hội trong những năm vừa qua
toàn ngành giáo dục đã không ngừng đổi mới, một trong những giải pháp trọng
tâm của ngành vẫn phải là đổi mới phương pháp dạy học. Vận dụng các hình
thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất theo yêu cầu
của mục tiêu giáo dục là một trong những cách đổi mới thiết thực nhất.
Để thực hiện Nghị quyết của Đảng, của ngành GD&ĐT là phải đào
tạo được thế hệ trẻ toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc. Đồng thời có
ý thức chủ động, tích cực bày tỏ quan điểm, lập trường trước những vấn đề nảy
sinh trong đời sống xã hội, hướng tới chân lí của mọi vấn đề. Vì vậy, trong dạy
học, việc tất cả các bộ môn cần rèn luyện cho học sinh biết tranh luận, phản biện
vấn đề, tạo thói quen tốt trong nhìn nhận, đánh giá các vấn đề trong cuộc sống là
hết sức quan trọng. Thực hiện được nhiệm vụ đó cũng là góp phần thực hiện mục
tiêu kết hợp dạy “chữ” với dạy “người”, lí thuyết phải gắn với thực hành. Việc
phát triển được khả năng phản biện của học sinh trong quá trình học tập sẽ giúp
học sinh phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện được
khả năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, tự tin trước tập thể, trước các
vấn đề nảy sinh của cuộc sống, xã hội.
Tuy nhiên trong thực tiễn quá trình dạy hoc tại trường Trung học phổ thông
Triệu Sơn 3, tôi nhận thấy rằng khả năng phản biện vấn đề ở học sinh THPT còn
tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Nhiều học sinh muốn phản
biện, hoặc đã từng phản biện nhưng chưa được giáo viên tạo điều kiện, chưa
được các bạn trong lớp hưởng ứng chân thành. Có nhiều lí do khác nhau khiến
cho khả năng này chưa trở thành thói quen, thành kỹ năng được. Việc dạy học
môn Lịch sử ở trường THPT vì thế mà cũng trở nên nhàm chán hơn, hình thức
truyền thụ một chiều, học sinh nghe, hiểu và làm theo không phản hồi.
Trong khi đó ở cấp trung học phổ thông (THPT), môn Lịch sử là một
trong những môn rất có ưu thế trong việc hình thành và phá triển tư duy phản
biện cho học sinh. Vì đặc trưng của môn Lịch sử là mang tính quá khứ, đặc biệt
không thể trực tiếp tiếp xúc với những nhân vật lịch sử, những sự kiện lịch sử mà
chỉ có thể dựa vào những nguồn sử liệu để đánh giá nên sẽ còn tồn tại những

luồng ý kiến khác nhau, trái ngược nhau về cùng một nhân vật lịch sử hay một sự
kiện lịch sử. Do đặc điểm này, nên việc phát triển tư duy phản biện cho học sinh
khi dạy học về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử là cần thiết và phù hợp, góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
Với những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra Một số kinh nghiệm nhằm phát
triển tư duy phản biện cho học sinh khi học môn Lịch sử nói chung và học Bài
10: Cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ và xu thế toàn cầu hóa nửa sau thế
kỉ XX - Lịch sử lớp 12, ở Trường THPT Triệu Sơn 3.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1


Khi tiến hành nghiên cứu, tôi đã đặt ra mục tiêu cho đề tài là:
- Hình thành, bồi dưỡng và phát triển tư duy phản biện cho học sinh thông
qua việc sử dụng phương pháp tranh luận trong dạy học môn Lịch sử.
- Phát triển tính chủ động, linh hoạt cho học sinh trong quá trình tìm tòi kiến
thức để bảo vệ ý kiến của mình trong quá trình phản biện. Từ đó rèn luyện cho
học sinh kĩ năng thuyết trình, sự tự tin vào bản thân khi nói trước tập thể.
- Tạo sự sôi nổi, cuốn hút học sinh giảm tình trạng nhàm chán trong giờ học
Lịch sử nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường phổ
thông.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rút ra: Một số kinh nghiệm khi sử dụng
phương pháp tranh luận trong dạy học môn Lịch sử nói chung và trong dạy Bài
10: Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa nửa sau thế kỉ
XX - Lịch sử lớp 12, nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh Trường
THPT Triệu Sơn 3
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứ đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, giải thích, tổng hợp

- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê xử lí số liệu.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Tư duy phản biện (Critical Thinking), hiểu một cách đơn giản nhất, đó là
khả năng suy nghĩ và tư duy đa chiều, phản biện lại vấn đề, xem xét mọi khía
cạnh để tìm ra chân lý chứ không dễ dàng chấp nhận mọi ý kiến ngay từ ban đầu.
Tư duy phản biện (TDPB) giúp con người vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn
mẫu, thói quen có sẵn, hướng đến cái mới, thoát khỏi những rào cản của định
kiến, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những
lập luận có cơ sở vững chắc đối với một vấn đề nào đó.
Việc xây dựng TDPB cho học sinh đang được nhiều quốc gia xem như tiêu
chuẩn của nền giáo dục hiện đại, là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn thể
xã hội.
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, các môn khoa học xã hội có
vai trò quan trọng trong phát triển tư duy phản biện, trong đó Lịch sử là một môn
học có nhiều ưu thế giúp học sinh phát triển tư duy này. Lịch sử là nhận thức của
con người về cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ với những nguồn sử liệu phong
phú và nhận thức Lịch sử đa chiều. Có tư duy phản biện học sinh sẽ học Lịch sử
với lăng kính phản biện của nhà sử học để tìm ra nhận thức đúng đắn, giúp các
em yêu thích khám phá Lịch sử dưới nhãn quan cá nhân.
Đồng thời, tư duy phản biện còn giúp các em biết đánh giá thông tin, vấn đề
trong cuộc sống hiện tại để quyết định hành động đúng đắn nhất. Vì thế, Lịch sử
phải là môn học tạo cơ hội cho học sinh phát biểu suy nghĩ, ý kiến của mình về
các sự kiện, nhân vật Lịch sử, liên hệ quá khứ với cuộc sống đang diễn ra

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong quá trình đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng lấy
người học làm trung tâm thì việc xây dựng tư duy phản biện cho học sinh phổ
thông hiện nay là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, để giáo dục tư duy phản biện một
cách hoàn chỉnh cho học sinh phổ thông là chuyện không hề đơn giản. Vì việc
dạy học ở nước ta trong nhiều năm qua còn chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo,
“một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, chưa thật sự chú trọng đến tính
tích cực trong hoạt động giáo dục của học sinh. Điều đó góp phần làm học sinh
trở nên thụ động, lười biếng trong suy nghĩ, trong tìm kiếm dẫn chứng, cơ sở để
phản biện kiến thức của giáo viên truyền thụ.
Đối với học sinh bậc trung học phổ thông nói chung, học sinh trường
Trung học phổ thông Triệu Sơn 3 nói riêng, việc phát triển tư duy phản biện cho
học sinh là rất khó, bởi lẽ các em đã quen với lối tư duy một chiều, thụ động từ
các lớp cấp dưới, mất dần sự tò mò và thói quen đặt câu hỏi. Nhiều em có thể
phát hiện vấn đề một cách chủ động nhưng vẫn còn bỏ sót một số trường hợp có
vấn đề cần phản biện. Có những học sinh biết tập hợp các bằng chứng, sử dụng
các lý lẽ để lập luận một cách hợp lý nhưng chưa triệt để. Các em cũng có kỹ
năng phán đoán nhưng các kết luận thường thiếu cơ sở, chưa chính xác, do các
em vẫn giữ thói quen đồng ý nhanh, chấp nhận dễ. Có những trường hợp cảm
thấy không thuyết phục nhưng vẫn không dám biểu đạt ý kiến, dễ bị lôi kéo bởi
một tuyên bố hay một câu nói xuất phát từ người thầy…
3


Mặt khác, hiện nay không ít giáo viên cũng tỏ ra lúng túng với việc sử
dụng phương pháp tranh luận để phát triển tưu duy phản biện cho học sinh. Bởi
lẽ chính họ cũng là sản phẩm của giáo dục truyền thống. Hơn nữa, trong thực tế
không nhiều thầy cô giáo có đủ kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng để giải đáp
mọi thắc mắc của các em. Ngoài ra, thời lượng lên lớp hạn chế cũng là một
nguyên nhân khiến các giáo viên ngại sử dụng phương pháp tranh luận để giáo

dục tư duy phản biện phản biện cho học sinh.
Với những lí do trên tôi thiết nghĩ, trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay đòi
hỏi quá trình giáo dục thế hệ trẻ cần phải toàn diện hơn, không chỉ trang bị kiến
thức cho học sinh, mà còn phải hình thành, bổ sung, phát triển các kĩ năng cho
học sinh, để học sinh có đủ năng lực, sự tự tin, khả năng suy nghĩ và tư duy đa
chiều, phản biện lại vấn đề, xem xét mọi khía cạnh để tìm ra chân lý nhất là đối
với học sinh của trường THPT Triệu Sơn 3.
2.3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Điều kiện phát huy khả năng phản biện của học sinh trong dạy học
Lịch sử:
Như chúng ta đã biết, những tranh luận, phản biện của học sinh có thể đúng,
thuyết phục, có thể sai, không thuyết phục, điều đó không quan trọng. Quan
trọng là qua tranh luận, người học thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo
của mình. Khoảng cách thầy – trò được rút ngắn. Vì vậy, để có thể phát huy được
khả năng phản biện của học sinh trong giờ học Lịch sử cần có sự xuất hiện của
những điều kiện sau:
- Cả thầy và trò phải có tư duy phản biện
- Học sinh phải có hiểu biết sâu rộng vấn đề
- Giờ học Lịch sử phải có không khí dân chủ, thân thiện
- Giờ học Lịch sử phải có tình huống phản biện
2.3.2. Bồi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh:
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, chúng ta nên tập trung hơn vào
việc dạy học sinh tư duy phản biện. Có tư duy phản biện học sinh mới có thể
phản biện. Biện pháp này có thể vận dụng với tất cả các đối tượng học sinh
nhưng chủ yếu hướng tới học sinh đại trà. Vì học sinh giỏi Sử, chuyên Sử thường
đã có tư duy phản biện. Còn học sinh đại trà thường thụ động trong học tập nên
tư duy phản biện gần như không có hoặc yếu.

Để tiến hành bồi dưỡng tư duy phản biện, trước hết cần cho học sinh hiểu
rằng việc phản biện lại một nội dung, vấn đề do người khác nêu ra (kể cả là thầy,
cô giáo của mình) là việc làm tích cực để đạt đến tính tối ưu của chân lí chứ
không phải là hành vi khiếm nhã, ngông cuồng hay vô lễ như vẫn thường hiểu,
đó cũng là một khâu trong quá trình học tập. Tư duy phản biện phải trở thành
thói quen tốt, thói quen luôn có những thắc mắc trước những vẫn đề lịch sử mình
được tiếp cận. Thói quen này giúp học sinh chủ động trong học tập, vận dụng
kiến thức.
4


Trong quá trình phát triển tư duy phản biện cho học sinh, ở bất cứ thời
điểm nào, người học cũng phải sẵn sàng động não, suy luận và đánh giá, những
hoạt động này sẽ tạo thành một phong cách tư duy liên tục, luôn luôn sẵn sàng
lắng nghe, trước khi chấp nhận bất cứ ý kiến nào người học phải chủ động phân
tích và đánh giá. Hoạt động của não bộ theo phong cách này sẽ giúp người học
hình thành vững vàng tư duy độc lập và tư duy phản biện. Với kiến thức tích lũy
thành hệ thống, có chiều sâu học sinh sẽ có điều kiện phát triển tư duy sáng tạo
của mình. Và như vậy chất lượng học tập càng cao và trí tuệ càng phát triển vững
chắc.
Tuy nhiên tư duy phản biện không thể có ngay lập tức mà cần có quá trình,
công việc này phải làm thường xuyên, liên tục qua tất cả các môn học chứ không
phải chỉ có môn Lịch sử. Dần dần mới trở thành thói quen tư duy phản biện.
2.3.3. Tăng cường rèn luyện kỹ năng phản biện
Kỹ năng phản biện là hệ thống các kỹ năng trong từng khâu của quá trình
để đưa ra một phản biện, bao gồm những kỹ năng chủ yếu : tư duy độc lập, phân
tích – tổng hợp, lập luận, đánh giá …. Có tư duy phản biện mới chỉ là cơ sở thứ
nhất để có phản biện. Còn phản biện đạt hiệu quả thuyết phục đến đâu chủ yếu là
nhờ vào kỹ năng phản biện. Trong đó, trọng tâm là kỹ năng lập luận phản biện.
Kỹ năng tư duy độc lập là rất cần thiết với học sinh trong quá trình học tập

nói chung, trong quá trình phản biện nói riêng. Giáo viên có thể giúp học sinh
suy nghĩ độc lập bằng cách không phải lúc nào cũng đưa ra ngay câu trả lời.
Thay vào đó, hãy để người học tự mình nghiên cứu và tìm ra phương án giải
quyết trước khi đưa ra sự trợ giúp. Còn với học sinh thay vì trông chờ vào những
câu trả lời rõ ràng, học sinh nên học cách tự mình suy diễn.
Quan trọng hơn cả là kỹ năng lập luận. Bởi vì, học sinh muốn đạt đến tính
tối ưu của vấn đề buộc phải thuyết phục được người khác. Một phản biện có sức
thuyết phục đến đâu là phụ thuộc vào độ sắc của những lí lẽ, độ mạnh mẽ hùng
hồn của lập luận, độ chắc chắn, đáng tin cậy của minh chứng mà người phản biện
đưa ra. Giáo viên hãy khuyến khích học sinh sử dụng các kỹ năng lập luận. Học
sinh sẽ học cách nghiên cứu bằng cách đưa ra các lý giải hợp lý cho câu trả lời.
Có nhiều cách luyện tập kỹ năng này như: những bài tập trình bày một vấn đề,
đánh giá và giải thích của mình về một vấn đề, tổ chức hệ thống luận điểm theo
các trình tự logic khác nhau, tìm kiếm minh chứng cho luận điểm … Lập luận
phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm.
Ngoài ra, học sinh cũng cần rèn luyện khả năng mở rộng vấn đề. Không chỉ
bó hẹp trong nguồn tài liệu mà giáo viên cung cấp, học sinh cần học cách tự tìm
những tư liệu mới để phục vụ cho chủ đề. Từ đó, phát huy khả năng tự phân tích
và đưa ra cách nhìn nhận riêng đối với mỗi chủ đề được đặt ra.
Như vậy, có thể nói lập luận phản biện có vai trò quyết định trong phản biện
của học sinh. Và kỹ năng này không phải ngày một ngày hai mà có được mà phải
luyện tập trong một thời gian dài, đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực rất cao. Nếu có
phương pháp hợp lý, tôi tin rằng học sinh sẽ tiến bộ nhanh chóng và sử dụng
phản biện một cách sắc bén và hiệu quả.
2.3.4. Bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu theo chuyên đề, tổ chức chuyên
đề ngoại khóa
5


Đây là một trong những biện pháp quan trọng giúp học sinh nâng cao khả

năng phản biện, bởi “có thực mới vực được đạo”. Kiến thức chuyên sâu cần cho
tất cả các đối tượng học sinh, nhưng mức độ thì khác nhau với từng đối tượng.
Độ sâu của kiến thức sẽ là thước đo khả năng phản biện của học sinh. Có nhiều
cách bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu cho học sinh như: hướng dẫn trực tiếp qua
các chủ đề tự chọn, các buổi bồi dưỡng, ôn luyện, làm các dự án dạy học dưới
dạng các bài tập nghiên cứu, tổ chức các chuyên đề ngoại khóa, cung cấp tài liệu
tham khảo và hướng dẫn cách lĩnh hội, thông qua các cuộc thi, các trò chơi
dưới dạng “Đố vui” … Tùy theo từng đối tượng học sinh mà bồi dưỡng kiến
thức chuyên sâu theo chuyên đề hoặc mảng chuyên đề cho phù hợp. Làm sao cho
hiệu quả mà không gây áp lực, căng thẳng cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX,
giáo viên nên dạy theo một chuyên đề, trong chuyên đề đó giáo viên tách ra từng
vấn đề như: Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược; Nguyên
nhân Pháp xâm lược Việt Nam; quá trình Pháp xâm lược; thái độ chống Pháp của
nhân dân và triều đình; nguyên nhân ta bị mất nước; trách nhiệm của Nhà
Nguyễn trong việc để mất nước… Khi dạy đến “Tình hình nước ta đến giữa thế
kỉ XIX”, giáo viên cho học sinh tranh luận dưới hình thức “ Phiên tòa”. Trong
đó, Nhóm 1: nhóm theo quan điểm phê phán triều Nguyễn, cho rằng triều
Nguyễn đã thi hành chính sách sai lầm làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, làm
cho sức đề kháng của dân tộc suy giảm trước nguy cơ bị Pháp xâm lược vì vậy
nhà Nguyễn cần phải cải cách, đổi mới học tập Nhật Bản, Xiêm để tăng sức đề
kháng cho đất nước; Nhóm 2: bênh vực triều Nguyễn, cho đó là yếu tố khách
quan vì đến giữa thế kỉ XIX là thời kì cáo chung, suy tàn của chế độ phong kiến
trên toàn thế giới mà Nhà Nguyễn không thể làm khác được; Nhóm 3: đóng vai
trò là Hội đồng xét xử điều hành phiên tòa khi phiên tòa diễn ra. Trong đó mục
tiêu kiến thức là đánh giá khách quan về trách nhiệm của nhà Nguyễn để đất
nước suy giảm sức mạnh, đứng trước nguy cơ trở thành thuộc địa của Pháp.
Dạy theo chuyên đề, học sinh dễ nắm bắt kiến thức hơn và giáo viên dễ
hướng dẫn học sinh hình thành và phát triển tư duy phản biện một cách logic,
chặt chẽ.

2.3.5. Các bước tổ chức thảo luận để phát triển kĩ năng phân tích, đánh
giá nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh:
* Bước 1: Chọn vấn đề thảo luận. Giáo viên cần lưu ý những vấn đề sau:
- Cần chọn những vấn đề quan trọng, là nội dung kiến thức được giảng
dạy chính trong chương trình môn Lịch sử.
- Vấn đề được lựa chọn cần mang tính đa nhận thức, nghĩa là được tiếp
cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ và có nhiều quan điểm về ván đề.
- Có tác dụng làm sâu sắc, mở rộng kiến thức cho học sinh. Trong quá
trình tìm hiểu, những kiến thức học sinh học sẽ được củng cố, kiến thức mới sẽ
được bổ sung trong quá trình tìm tòi, khám phá.
- Có sự cuốn hút học sinh. Để làm được điều này, giáo viên cần nghiên cứu
kĩ để lựa chọn nội dung sao cho phù hợp.
Ví dụ: Khi tổ chức cho học sinh thảo luận về chủ đề: “Nguyên nhân và
trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp
6


cuối thế kỉ XIX” Giáo viên cần sưu tầm và nghiên cứu quan điểm của các nhà sử
học, nhà chính trị… có uy tín để lựa chọn không phải để giúp học sinh nhớ rõ
năm, tháng, tên nhân vật, địa danh… để làm chủ đề thảo luận. Như sử dụng quan
điểm của Trần Trọng Kim trong tác phẩm “Việt Nam sử lược”; của Trần Văn
Giàu, của Giáo sư Phan Huy Lê…
* Bước 2: Chia nhóm để thảo luận: tùy theo số lượng học sinh trong lớp và
vấn đề thảo luận mà giáo viên chia nhóm sao cho phù hợp, hình thức thảo luận là
nhóm theo “góc học tập”. Giáo viên chia thành các nhóm, mỗi nhóm sẽ chuẩn bị
nội dung thảo luận, tranh luận theo quan điểm được phân công. Mỗi nhóm sẽ
ngồi tập trung ở một “ góc học tập” của lớp học, với các đồ dùng để làm việc
như A0, bút, màu…
* Bước 3: Tiến hành thảo luận: Mỗi nhóm sẽ thảo luận về quan điểm của tác
giả, dựa trên phiếu học tập đã được hướng dẫn. Trong mỗi nhóm, các thành viên

lần lượt trả lời các câu hỏi trong bảng giáo viên định hướng cho học sinh khi
phân tích một nhận định, các thành viên đưa ra ý kiến của mình sau đó cả nhóm
góp ý. Việc chuyển sang các câu hỏi khác chỉ được tiến hành khi cả nhóm đã
thống nhất. Cuối cùng các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm và được tự
chọn hình thức cũng như nội dung sao cho dễ hiểu nhất.
Kết thúc thời gian làm việc tại nhóm, mỗi nhóm cử ra một đại diện ở lại “
góc học tập” của mình dể thuyết trình sản phẩm, những thành viên của nhóm
khác lắng nghe, sau đó có thể đặt câu hỏi về những ý chưa rõ, có quyền góp ý và
phản bác. Đại diện thuyết trình của mỗi nhóm có nhiệm vụ truyền đạt lại những
góp ý mà nhóm bạn đóng góp trong quá trình thảo luận. Bước thảo luận kết thúc
khi hoạt động rút kinh nghiệm kết thúc.
Bảng 1: Định hướng phân tích một nhận định lịch sử.
STT
Câu hỏi định hướng
Kết quả phân tích
1
Nhận định của tác giả bao gồm những lí do
nào?
2
Những lí do đó được đưa ra trên cơ sở khoa
học nào? ( tính xác thực của tư liệu được sử
dụng)
3
Việc tác giả đưa ra lí do đó liệu có hợp lí để
dẫn tới kết luận? (tính logic của lập luận)
4
Theo em những lí do đó đã đủ để dẫn tới kết
luận chưa? Hay còn lí do nào khác?
5
Theo em kết luận mà tác gải đưa ra hợp lí hay

không? Hay còn kết luận khác.
6
Quan điểm của em về vấn đề này như thế
nào?
* Bước 4: Đánh giá và tổng kết.
Việc kiểm tra tư duy trong phát triển tư duy phản biện phải đảm bảo tính
hợp lí, xác thực và tính cá thể. Tính xác thực là việc học sinh đưa ra lí do của
mình có minh chứng cụ thể; tính hợp lí là việc học sinh từ những chứng cứ có
thể suy luận một cách chính xác, có lí lẽ, hợp logic; tính cá thể thể hiện thông
7


qua việc học sinh có thể đưa ra quan điểm của bản thân dựa trên kiến thức đã
học..
2.3.6. Quá trình tổ chức phát triển tư duy phản biện thông qua tranh
luận.
* Các hình thức tổ chức tranh luận để phát triển tư duy phản biện: có
nhiều hình thức để tổ chức tranh luận nhằm phát triển tư duy phản biện cho học
sinh, tuy nhiên tôi thường xuyên sử dụng 3 hình thức sau để tổ chức tranh luận
cho học sinh. Vì phù hợp với đối tượng học sinh, điều kiện cơ sở vật chất của
nhà trường. Cụ thể:
Thứ nhất, tranh luận theo nhóm. Ví dụ, khi dạy bài 17, lớp 10 THPT
“Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỉ X đến thế
kỉ XV)”, giáo viên có thể tổ chức tranh luận cho các em về một nhân vật có ảnh
hưởng lớn đối với lịch sử dân tộc, nhưng hầu như không được nhắc tới trong
sách giáo khoa cấp THPT và hiện nay còn rất nhiều tranh cãi trong việc đánh giá
về ông, nhất là việc ông lập nhà Hồ thay cho nhà Trần (1400), đó là nhân vật Hồ
Quý Ly.
Thứ hai, tranh luận giữa cá nhân học sinh với nhau. Ví dụ, khi dạy phần 1
của bài 21, lớp 10 THPT “Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế

kỉ XVI - XVIII”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tranh luận về nhân vật
Mạc Đăng Dung bằng cách đưa ra vấn đề ngay tại lớp cùng các nguồn ý kiến
đánh giá khác nhau để học sinh suy nghĩ và tranh luận.
Thứ ba, tranh luận giữa giáo viên với học sinh. Ví dụ, khi dạy học phần I
của bài 19, lớp 10 THPT “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ
X – XV”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tranh luận về nhân vật Dương
Vân Nga.
Mỗi hình thức tranh luận đều có ưu thế vượt trội riêng trong việc phát huy
tính tự chủ, tích cực trong học tập và rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh.Để
sử dụng có hiệu quả, yêu cầu giáo viên phải nắm vững lí luận và kĩ thuật tổ chức
của từng hình thức từ khâu chuẩn bị, đưa ra vấn đề tranh luận đến khâu tổ chức
tranh lun trên lớp và kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh. Hơn nữa, giáo
viên phải là người hiểu sâu sắc nhất đối tượng học sinh và nội dung kiến thức để
lựa chọn hình thức tranh luận sao cho phù hợp nhất.
* Các giai đoạn tiến hành tranh luận:
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị tranh luận:
+ Lựa chọn chủ đề tranh luận: trong các bước này, khâu quan trọng
nhất là lựa chọn chủ đề tranh luận. Giáo viện có thể lựa chọn chủ đề tranh luận là
các nhân vật lịch sử, vấn đề lịch sử như: Khi dạy Bài 19: Nhân dân Việt Nam
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (Từ 1858 đến trước năm 1873).
Giáo viên có thể đưa ra vấn đề tranh luận: “ Nhà Nguyễn đưa ra chính sách “ bế
quan tỏa cảng” trong bối cảnh các nước phương Tây đang dòm ngó nước ta là
đúng hay sai?” hay “ Nhà Nguyễn thi hành cấm đạo Thiên Chúa là dúng hay
sai?”; sự kiện lịch sử như: “ Năm 1968, Đảng chủ trương mở cuộc tổng tiến công
và nổi dậy trên toàn miền Nam nhằm giải phóng miền Nam là phù hợp chưa?”…
+ Chuẩn bị tư liệu và kế hoạch tranh luận: Trong cuộc tranh luận việc đưa
ra những lập luận là điều vô cùng quan trọng để bảo vệ ý kiến của mình. Tuy
8



nhiên tất cả mọi suy luận đều có dẫn chứng( tư liệu). Trong đó để xây dựng giả
thuyết ngoài việc huy động tất cả những kiên thức của học sinh, đẻ thiết lập được
các bằng chứng vững chắc việc giáo viên cung cấp tư liệu lịch sử mang tính chất
định hướng là một khâu vô cùng quan trọng. tài liệu sẽ giúp các em có cơ sở
khoa học để tranh luận và bảo vệ ý kiến mà các em đưa ra, đồng thời giúp học
sinh có cái nhìn mới hơn về vấn đề. Tài liệu phải được thiết kế để hỗ trợ cho
tranh luận.
- Giai đoạn 2: tổ chức tranh luận: Khi tổ chức tranh luận cho học sinh, giáo
viên cần lưu ý: cân đối về mặt thời gian khi tổ chức, phải thể hiện được vai trò tổ
chức, điều khiển học sinh…Học sinh cần tuân thủ các nguyên tắc trong tranh
luận, luôn giữ thái độ cởi mở, chân thành và thẳng thắn, thiết lập các luận cứ
vững chắc, luôn tỏ ra điềm tĩnh, tôn trọng ý kiến người khác, thừa nhận sai
làm…
Sau khi các nhóm đã được thành lập, việc tiến hành tranh luận diễn ra như
sau: Trước khi phát phiếu học tập, giáo viên phổ biến thời gian của các bước.
Các nhóm sẽ có khoảng thời gian nghiên cứu tài liệu, thiết lập giả thuyết để đưa
ra lập luận bảo vệ quan điểm của nhóm mình. Tiếp đó các nhóm trình bày giả
thuyết. Sau khi các nhóm trình bày là thời gian của các nhóm đặt câu hỏi nhằm
phản bác ý kiến của đội bạn. Các đội tiến hành trả lời câu hỏi của đối phương,
các đội có quyền hỏi thêm để tìm ra kết quả hài lòng của đội mình. Câu hỏi được
đặt ra nhằm làm rõ các điểm chưa rõ ràng mà trong bằng chứng được sử dụng
( xác thực của sự kiện), những điểm bất hợp lí về lập luận (hợp logic)… tất cả
nhằm bác bỏ giả thuyết của đối phương. Khi tất cả các câu hỏi được trả lời là lúc
cuộc tranh luận kết thúc.
- Giai đoạn 3: Kiểm tra đánh giá kết quả bài học theo hoạt động tranh luận:
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy học có
tầm quan trọng đặc biệt, vì thông qua đó để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy
của giáo viên và hoạt động học của học sinh, đồng thời rút kinh nghiệm cho quá
trình về sau. Khi đánh giá kết quả của học sinh, sau mỗi tiết học cần tạo điều
kiện cho các em tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Kết quả của hoạt động tranh

luận kết thúc sau khi có sự tổng hợp giữa đánh giá cả giáo viên và học sinh tự
đánh giá. Giáo viên cần tổng kết ưu và nhược điểm của từng đội, đưa ra kết luận
tổng thể của vấn đề tranh luận. Đối với các vấn đề tranh luận, giáo viên nên đưa
ra những kết luận đa chiều, toàn diện và theo hướng mở. Sự đa dạng trong nhận
thức chính là “linh hồn” của tư duy phản biện lịch sử, giúp học sinh tiến gần hơn
với nhận thức khoa học lịch sử.
2.3.7. Phát triển tư duy bản biện cho học sinh qua học cụ thể: Bài 10:
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa nửa sau thế kỉ
xx.

9


MỤC TIÊU: Khi học xong bài này học sinh cần:
- Biết sưu tầm sử dụng tư liệu lịch sử để tìm hiểu cuộc cách mạng khoa
học công nghệ nửa sau thế kỉ XX. Biết được các giai đoạn phát triển của
cuộc cách mạng này.
- Đánh giá được tác động tiêu cực và tác động tích cực của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ.
- vận dụng kiến thức đã học để giải thích được một số vấn đề thời sự có
liên quan đến toàn cầu hóa và tác động của toàn cầu hóa đến Việt Nam.
- Góp phần phát triển năng lực sử dụng tư liệu lịch sử, giải thích, đánh giá
lịch sử vào thực tiễn.
A. DẪN VÀO BÀI MỚI
1. Mục tiêu :
Nhằm tạo ra mâu thuẫn nhận thức giữa những kiến thức mà học sinh đã biết
và chưa biết có liên quan đến Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế
toàn cầu hóa, từ đó yêu cầu học sinh phải xác định nhiệm vụ học tập của bài học
phải giải quyết. Giáo viên dẫn dắt vào bài mới.
2. Phương thức:

Giáo viên cho học sinh đọc đoạn tư liệu sau và kết hợp phát phiếu học tập
( Vận dụng kĩ thuật dạy học “KWLH”). Học sinh trao đổi, thảo luận hàn thiện
phiếu học tập.
BẢNG HỎI THEO KĨ THUẬT “KWLH”
Họ và tên học sinh:……..
Câu hỏi:
1. Em biết gì về cuộc cách mạng khoa học - công nghệ nửa sau thế kỉ XX?
(Học sinh ghi vào cột K).
2. Em mong muốn được tìm hiểu những nội dung gì liên quan đến chủ đề
này? ( Học sinh ghi vào cột W).
3. Em đã học thêm được những gì sau khi học xong chủ đề này? (Học sinh
ghi vào cột L)
4. Em có thể vận dụng vào thực tiễn những kiến thức nào và vận dung rsa
sao? ( Học sinh ghi vào cột H).
KWLH………………….
……………………………………………………….
Giáo viên thu thập thông tin phản hồi trên cột K,W vận dụng phương pháp
dạy học giải quyết vấn đề để hướng dẫn học sinh nghiên cứu tìm hiểu nội dung
của chủ đề.
3. Gợi ý sản phẩm:
Mỗi học sinh có thể trình bày sản phẩm ở các mức độ khác nhau, giáo viên
gợi mở nêu những vấn đề của bài học mà các em phải tìm hiểu và dẫn dắt học
sinh vào bài mới.
B. TỔ CHỨC DẠY HỌC:
I. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.
10


1.1. Mục tiêu.
- Học sinh biết khai thác tư liệu lịch sử, trình bày được nguồn gốc của

cuộc cách mạng khoa học - công nghệ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai; phát
triển năng lực sử dung tư liệu lịch sử nhất là tư liệu từ mạng internet.
- Học sinh phát triển tư duy phản biện thông qua việc tranh luận chủ đề “
mạng internet có lợi hay có hại”.
- Học sinh gải thích được đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, những thành tựu tiêu biểu của cuộc cách mạng này.
- Học sinh đánh giá được mặt tích cực, tiêu cực của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ về kinh tế, xã hội và môi trường; góp phần phát triển năng lực
giải thích và đánh giá lịch sử.
1.2. phương thức
Hoạt động 1: hoạt động này giúp học sinh khai thác, sử dụng tư liệu lịch
sử, trình bày được nguồn gốc của các mạng khoa học - công nghệ là nhằm giải
quyết những đòi hỏi của sản xuất và cuộc sông con người về công cụ sản xuất,
các nguồn năng lượng và những vật liệu mới.
- Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh thảo luận:
1. Nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ?
2. Vì sao sự vơi cạn tài nguyên thiên nhiên, sự bùng nổ dân số đòi hỏi cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ phải giải quyết?
3. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ nwaur sau thế kỉ XX trải qua
mấy giai đoạn? Vì sao từ những năm 70 của thế kỉ XX lại gọi là cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ?
4. Cuộc khủng hoảng hoảng năng lượng năm 1973 đã tác động như thế nào
đến sự phát triển của khoa học - kĩ thuật?
- Giáo viên giải thích khái niệm “ công nghệ” cho học sinh. Giáo viên giao
nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu ở nhà những nội dung liên quan đến câu hỏi để
trình bày trong giờ học sau.
Hoạt động 2: Hoạt động này hướng dẫn học sinh tim fhieeur về những tác
động tích cực và tiêu cực của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đến sản
xuất, con người, xã hội, môi trường.

GV cung cấp tư liệu cho học sinh, đồng thời yêu cầu học sinh tìm thêm tư
liệu để tranh luận về mặt tích cực và hạn chế của cách mạng khoa học - cong
nghệ.

11


TƯ LIỆU HỖ TRỢ
INTERNET
Internet đã tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, đương nhiên
nó tác dụng quyết định mạng lưới quản lý − phát triển từ sản xuất hàng loạt
sang cá thể hoá hàng loạt khách hàng chuyển sang hàng giờ tác động mạnh đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do những tác động của
internet mà như tạp chí Business Week đã so sánh nêu bật những đặc trưng của
doanh nghiệp của thế kỷ 21 như sau: TK20 vốn quyết định, TK21 ý tưởng mới
năng động quyết định Giới thiệu về Internet ¾; Tổ chức doanh nghiệp chuyển
từ hình tháp, phân cấp sang hình mạng lưới; Nhiệm vụ trung tâm của người
quản lý chuyển từ quản lý tài sản sang quản lý thông tin; Sản phẩm chuyển từ
sản xuất hàng loạt sang cá thể hàng loạt khách hàng; Tài chính quản lý theo Quí
nay quản lý tức thời và quản lý kho từ hàng tháng chuyển sang hàng giờ;CEO
hoạt động toàn cầu thường xuyên phải đi công tác. Tăng cường sử dụng
outsourcing Bill Gates: “Cạnh tranh ngày nay không phải giữa các sản phẩm
mà giữa các mô hình kinh doanh”. Nếu Doanh nghiệp không quan tâm đến
thông tin, Internet, Web, TMDT tất sẽ chịu nhiều rủi ro. Internet không tác động
lên sản phẩm cụ thể nào mà lên toàn bộ mối quan hệ của doanh nghiệp thông
qua thông tin mà nó đem lại. Nó không làm thay đổi bản chất quá trình kinh
doanh nhưng nó đem lại cơ hội mới chưa từng có. Một tiến bộ có tính đột phá
nữa trong lịch sử phát triển internet là sự ra đời và phát triển công nghệ Web
(1992) cho kích thích các doanh nghiệp nhảy vào và thương mại điện tử ra đời
từ đó.

( Nguồn: Giới thiệu Internet, Khoa CNTT ĐHSPKT Hưng Yên)

12


TƯ LIỆU HỖ TRỢ
Cừu Dolly:
* Hình ảnh cừu Dolly và Giáo sư Wilmut - cha đẻ của dự án nhân bản vô tính
* Cừu Dolly đã chết:
Dolly, con vật có vú đầu tiên được nhân bản trên thế giới, đã đi vào giấc
ngủ vĩnh hằng 15/2/2003, bằng một mũi tên gây chết không đau đớn (còn gọi
là cái chết êm ả). Các bác sĩ thú y phát hiện thấy nó bị viêm phổi nặng, một
căn bệnh thường gặp ở cừu già.
Dolly chào đời ngày 5/7/1996 và ra mắt công chúng một năm sau đó. Con
cừu này là sản phẩm cua rsinh sản vô tính: Người ta lấy nhân từ một tế bào
tuyến vú của một con cừu cái trưởng thành, và cấy nó vào một tế bào trứng
cừu khác..
Sự ra đời của Dolly đã dấy lên những lời chỉ trích và lo ngại rằng, khoảng
cách từ việc nhân bản cừu đến việc tạo bản sao người chỉ còn là một quảng
ngắn. tuy nhiên khi đó, Griffin đã bảo vệ sản phẩm của mình với tuyên bố
rằng, nghiên cứu này có thể mở đường cho những hướng điều trị mới trên
nhiều loại bệnh tật.
Về măt sinh lí, Dolly vẫn là con cừu cái bình thường và nó đã 2 lần sinh nở.
Thangs1/2002, Dolly được phát hiện mắc chứng viêm khớp - một tình trạng
thường thấy trên các động vật già, căn bệnh làm bùng nổ tranh luận của các
nhà khoa học về liệu có phải bộ gên của nó cũng “già” hơn 5 năm so với bình
thường, và rằng tất cả các nhân bản có bị lão hóa sớm như vậy hay không.
Giáo sư Wilmut, trưởng nhóm nghiên cứu khi đó cho biết, bệnh viêm khớp
chứng tỏ kĩ thuật nhân bản cua rhoj chưa thực sự hiệu quả và cần được tiếp
tục nghiên cứu.

“ Nấu cái chết sớm của Dolly có liên quan đến việc nhân bản, thì đây sẽ là
bằng chứng bỏ sung cho thấy sự nguy hiểm tiềm tàng trong việc tạo bản sao
người, và sự thiếu tránh nhiệm của những ai đang ra sức mở rộng loại hình
nghiên cứu này trên người”, Giáo sư Richard, Chủ tịch hiệp hội Hoàng gia
Anh tuyên bố.
(Nguồn: học/cừu
Dollyddax chết/ ngày 15/2/2003)

13


- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc tư liệu Internet và giao việc cho học sinh:
+ Giáo viên chí lớp thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Tìm hiểu tư liệu viết bài tranh luận theo quan điểm Internet
đem lại mọi lợi ích cho con người.
Nhóm 2: Tìm hiểu tư liệu viết bài tranh luận theo quan điểm Internet
đem lại tác hại cho con người.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm và viết bài tranh luận
đồng thời tìm tư liệu để trả lời câu học, phản biện ý kiến của nhóm đối phương.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc tư liệu, nhạn xét về tính hai mặt của các
phát minh khoa học, nhất là trong công nghệ sinh học. Đồng thời giao cho học
sinh tìm hiểu trên mạng để sưu tầm các hình ảnh về thử vũ khí hạt nhận, bom
nguyên tử, các nhà máy điện hạt nhân, vụ nổ nhà máy điện hạt nhân….cho các
em thảo luận theo nhóm về vấn đề: mặt tích cực và mặt tiêu cực của năng lượng
hạt nhân.
1.3. Gợi ý sản phẩm
Để trả lời được các câu hỏi nêu trên, học sinh cần:
- Trình bày được nguồn gốc của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ là
nhằm giải quyết những đòi hỏi của sản xuất và cuộc sống con người về công cụ
sản xuất, các nguồn năng lượng và những vật liệu mới.

- Học sinh nắm được đặc điểm cuộc cách mạng khoa học - công nghệ: kho học
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; bắt đầu những năm 40 của thế kỉ XX, khởi
đầu là nước Mĩ; cuộc cách mạng trải qua 2 giai đoạn: từ những năm 40 đến đầu
những năm 70 của thế kỉ XX gọi là cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, từ
những năm 70 trở đi gọi là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ với sự ra đời
của thế hệ máy tính điện tử đời thứ ba, vật liệu mới, công nghệ sinh học…
2. Xu thế toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó.
2.1. Mục tiêu:
- Học sinh biết được thời gian, bản chất của toàn cầu hóa. Mối quan hệ giữa
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa.
- Học sinh giải thích được toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của sự phát
triển từ đó học sinh đưa ra nhận xét về mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa;
góp phần phát triển năng lực giải thích và đánh giá lịch sử.
2.2. Gợi ý tổ chức các hoạt động dạy học
Hoạt động 3: - Hoạt động này nhằm giúp học sinh hiểu được vì sao toàn cầu
hóa là xu thế tất yếu của sự phát triển; bản chất của toàn cầu hóa; những biểu
hiện của toàn cầu hóa; đánh giá măt tích cực, tiêu cực của toàn cầu hóa.
- Giáo viên cung cấp tư liệu cho học sinh, cho học sinh thảo luận những
vấn đề sau:
+ Thời gian xuất hiện, bản chất của toàn cầu hóa.
+ Vì sao toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của sự phát triển?
+ Mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ.
+ Tác động của toàn cầu hóa đến các quốc gia và Việt Nam.
+ Toàn cầu hóa có thực sự gây ra nguy cơ mất bản sắc văn hóa dân tộc
hay không? Vì sao?
14


+ Trong xu thế toàn cầu hóa theo em, Việt Nam cần phải làm gì để tranh

thủ thời cơ, vượt qua thách thức?
TƯ LIỆU HỖ TRỢ 1
1.“ Với sự xác lập của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi hình thành thị trường thế
giới, đã xuất hiện xu thế quốc tế hóa. Nhưng từ đầu những năm 80, đặc biệt từ
những năm 90, người ta gọi đó là xu thế toàn cầu hóa. Các gọi khác nhau là có lí
do: Quốc tế hóa là chỉ hoạt động kinh tế của một nước đã vượt ra khỏi biên giới
quốc gia. Và từ sau Chiến tranh lạnh, kinh tế thế giới toàn cầu hóa phát triển mạnh
mẽ vói sự thúc đẩy to lớn của cuộc cách mạng kho học - công nghệ, nhất là tin học
và công nghệ thông tin, đồng thời là xu thế phát triển đa cực hóa của cục diện thế
giới. Nền kinh tế các nước phải đặt trong phạm vi lớn của thị trường thế giới. nên
kinh tế các nước phải được đặt trong phạm vi lớn của thị trường thế giới, gắn liền
ít nhất với ba yếu tơ: một là: thông tin hóa; hai là: thị trường hóa; ba là: xuyên
quốc gia hóa sự lưu thông tự do của các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ
mới…”
(Nguồn: Theo Phan Ngọc Liên, Vũ dương Ninh, Trần Bá Đệ..,
Lịch sử 12, Sách Giáo viên, NXB Giáo dục, tr 79.)
2. “ …Sáng 10/5, tại Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, ông Thomas L.Friedman - phụ trách chuyên mục đối ngoại của
tờ Neww York Time, tác giả của cuốn Thế giới phẳng, đã có buổi trò chuyện cởi
mở với sinh viên….
Cũng trong buổi giao lưu tác giải cuốn sách nổi tiếng này cho rằng thế giới
không chỉ “ phẳng” mà “ngày càng phẳng hơn”, Ông cho rằng điểm nổi bật nhất
những năm đầu thế kỉ XXI chính là khái niệm toàn càu hóa và cuộc cách mạng
khoa học công nghệ thông tin. Từ những chiếc máy tính cá nhân, điện thoại di
động mọi người ở khắp nơi có thể kết nối với nhau. Các công cụ tìm kiếm, nhất là
Google đã làm nên một thế giới phẳng. Và thế giới đã chuyển từ kết nối sang “
siêu kết nối”. Đây là bối cảnh tuyệt vời với những người biết thích ứng nhanh nhất
là doanh nhân, thậm chí các nhà lãnh đạo phải đối diện với rất nhiều luồng thông
tin, dư luận thế giới. Người lao động cũng vì thế ,mà nhiều cơ hội hơn nhưng cũng
khắc nghiệt hơn. “ Tôi vẫn thường nói với con gái tôi rằng khi tốt nghiệp tôi phải

đi xin việc làm, còn đến thời con thì phải tự tạo ra việc làm”.
Trong bối cảnh đó, Ông cho rằng các trường Đại học phải biết đào tạo sinh viên
thành một thế hệ không chỉ biết lắp ráp mà phải nghĩ giai đoạn cao hơn đó là thiết
kế, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao ở Việt Nam. Các sinh viên phải tự tạo
ra cho mình những giá trị gia tăng độc đáo mới có thể tồn tại được trong thế giới
ngày nay.
Ông đưa ra lời khuyên cho các bạn sinh viên: tư duy như những người dân nhập
cư - họ khao khát thành công, khao khát có thể lập nghiệp; tư duy như những
người thợ thủ công - họ tạo ra giá trị thặng dư cho mình; tư duy nhưn những doanh
nhân mới bắt đầu lập nghiệp - họ luôn luôn biết tái suy nghĩ và không ngừng học
tập, thiết kế những sản phẩm dịch vụ mwois. Và cuối cùng hãy tư duy như những
người phục vụ bàn - biết cần mẫn phục vụ.
(Nguồn: tức/thời sự/ ngày 10/5/2014)
3. Cách mạng khoa học - công nghệ
Sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới ngày càng được tăng cường cùng
với sự gia tăng của các phát minh, sáng chế khoa học - công nghệ và tốc độ ứng
dụng chúng trong sản xuất và sinh hoạt của con người. Hơn nữa, cách mạng khoa

15


Học công nghệ còn đẩy tới sự quốc tế hóa sâu sắc quá trình sản xuất và phân phối,
dẫn tới sự hình thành và mở rộng hệ thống sản xuất và phân phối toàn cầu và sự lệ
thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các nước trên thế giới.
Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, tư duy và phương thức quan
hệ giữa các nước, đặc biệt là giữa các trung tâm quyền lực lớn, đã và sẽ thay đổi rất
đáng kể. Cách mạng khoa học công nghệ thay đổi tư duy của các nước về thế giới
quan và chiến lược đối ngoại, thay đổi phương thức quan hệ giữa các nước và là
động lực chính thúc đẩy nhanh sự thay đổi tương quan lực lượng giữa các quốc gia.
4. Toàn cầu hóa.

Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa là một cách
mạnh mẽ, qua đó làm cho mọi mặt của đời sống xã hội được quốc tế hóa. Trong điều
kiện toàn cầu hóa, lợi ích của các quốc gia đan xen với nhau và ngày càng tùy thuộc
lẫn nhau. Từ đó, nhận thức về tinhfhinhf thế giới, tư duy về đối ngoại và phương
thức quan hệ quốc tế cũng thay đổi mạnh mẽ.”
( Nguồn: Phạm Bình Minh, Cục diện thế giới đến 2020,
NXB Chính trị Quốc gia, 2010, tr.12 - 13)

2.3. Đánh giá kết quả học tập
- Học sinh giải thích được tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa:
+ Tích cực: thúc đẩy nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội hóa lực lượng
sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao, góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi
hỏi tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền
kinh tế….
+ Hạn chế: làm trầm trọng thêm bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách
giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước, tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc
văn hóa dân tộc…
- Học sinh rút ra được toàn cầu hóa vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối
với tất cả các nước đang phát triển.
C. CỦNG CỐ VÀ LUYỆN TẬP
1. Mục tiêu: Củng cố, hệ thống hóa, hoàn thiện kiến thức mới mà học sinh đã
được lĩnh hội về Các mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa.
2. Phương thức:
Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện phiếu học tập theo kĩ thuật KWLH,
vẽ sơ dồ tư duy bài học.
3. Gợi ý sản phẩm:
- Học sinh ghi những nội dung mình lĩnh hội được trong bài học vào cột L,
và những nội dung mình có thể vận dụng được từ bài học vào cột W.
Học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo các nội dung: Nguồn gốc, thời gian ,đặc điểm,
mặt tích cực, tiêu cực của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; toàn cầu hóa:

thời gian, bản chất, những biểu hiện, tích cực và hạn chế của toàn cầu hóa
D. DẶN DÒ, BÀI TẬP VỀ NHÀ
- Học bài cũ, đọc bài mới, siru tầm tranh ảnh, tư liệu liên quan bài mới…
2.3.8. Một số điểm cần lưu ý khi phát triển tư duy phản biện cho học
sinh thông môn Lịch sử ở trường THPT.
16


- Tư duy phản biện giúp học sinh trao đổi kiến thức lịch sử một cách chủ
động, hiệu quả và chính xác. Khi đánh giá một ván đề học sinh phải có sự hiểu
biết sâu sắc. Tuy nhiên để có được những kiến thức, hiểu biết đó, giáo viên cần
phải hướng dẫn học sinh cách tìm tòi tài liệu, nguồn tài liệu. Qua quá trình tìm
tòi, chọn lọc thông tin các em đã có những hiểu biết nhất định về các nhân vật,
sự kiện, vấn đề. Những hiểu biết ấy sẽ được kiểm chứng, được xem xét đánh giá,
được làm rõ hơn thông qua tranh luận với bạn bè, thầy cô.
- Quá trình phát triển tư duy phản biện cho học sinh cần phải có thời gian,
vì phải trải qua quá trình học sinh làm quen, biết cách sưu tầm tài liệu, xử lí
thông tin, sắp xếp kiến thức tranh luận một cách hợp lí, logic, biết cách phản biện
lại ý kiến của bạn bảo vệ ý kiến của mình… Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có sự
kiên trì, học sinh phải có thái độ hợp tác nhiệt tình, có chí tiến thủ, phải biết tự
tin vào bản thân, tự tin trước tập thể.
- Để phát triển được tư duy phản biện cho học sinh, đòi hỏi giáo viên cần
phải có sự đầu tư thích đáng về công sức, thời gian, trí tuệ. Giáo viên muốn phát
triển được tuy duy phản biaanj cho học sinh trước tiên giáo viên cần phải học
hỏi, tìm tòi để có kiến thức sâu rộng thì mới giúp học sinh phản biện được.
- Để phát triển tư duy phan rbieenj cho học sinh ngày từ thời học sinh trung
học phổ thông, đòi hỏi có sự đồng bộ của tất cả các môn. Không chỉ mình môn
sử mà còn một số một cũng có nhiều ưu thế để phát triển tư duy phản biện cho
học sinh như: Văn học, Địa lí, Toán học… Vì vậy các bộ môn cần thường xuyên
liên tục phát triển tư duy phản biện cho học sinh qua bài học của bộ môn mình.

2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối tượng kiểm nghiệm:
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy học,
tôi chọn 2 lớp 12 của Trường trung học phổ thông Triệu Sơn 3, cụ thể:
- Học sinh ở lớp đối chứng: 12D7 (năm học 2018 – 2019)
- Học sinh ở lớp thực nghiệm: 12D8 (năm học 2018 – 2019)
Các lớp được chọn tham gia nghiên cứu cho đề tài có nhiều điểm tương đồng
nhau về tỉ lệ học sinh, kết quả điểm trúng tuyển vào lớp 10, ý thức học tập của
học sinh... đặc biệt là năng lực học tập và kết quả điểm kiểm tra môn Lịch sử
trước khi tác động. Và một điểm đặc biệt hơn nữa đó là: hai lớp tôi chọn để đối
chứng và thực nghiệm là hai lớp trường tôi phân là lớp cơ bản .
2.4.2. Cơ sở thực nghiệm:
Sử dụng kết quả các bài kiểm tra trước và sau khi tác động, cụ thể như sau:
+ Tôi lấy kết quả bài kiểm tra 1 tiết học kì I, do nhóm chuyên môn chấm.
Lưu ý: Đề kiểm tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài cho nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng giống nhau.
2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm:
Sau khi tổng hợp thông tin từ học sinh, tiến hành tổng hợp, phân tích, so sánh và
đối chiếu kết quả điểm kiểm tra của học sinh, cho thấy:
2.4.3.1. Về lí luận
+ Đã nâng cao được khả năng phản biện cho học sinh, giúp học sinh chủ
động hơn trong việc lĩnh hội kiến thức, biết cách xử lí tư liệu lịch sử.
17


+ Học sinh tự tin hơn khi trình bày quan điểm, hiểu biết của mình trước tập
thể.
+ Đã góp phần thay đổi được thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực trong môn Lịch sử..

+ Đã nâng cao được hứng thú học tập môn Lịch sử cho học sinh.
+ Đã nâng cao được kết quả học tập môn Lịch sử cho học sinh.
2.4.3.2 Về thực tiễn
+ Hiệu quả phát triển tư duy phản biện trong dạy học Lịch sử đã được nâng
lên.
+ Tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú và chủ động khai thác kiến thức.
+ 100% học sinh trong lớp đã được trang bị phương pháp để phát triển tư
duy phản biện của mình.
+ 100% học sinh ý thức được việc cần phải tăng cường bồi dưỡng, phát triển
tư duy phản biện.
2.3. Tổng hợp kết quả thực nghiệm:
Lớp đối chứng 12D8.
Tổng số
Điểm
Số
bài
học sinh
0-2 3
4
5
6
7
8
9
10
39
sl 0
2
2
13

19
2
1
0
0
39 % 0,0
5,1 5,1 33, 48, 5,1 2,5 0,0 0,0
3
9
Lớp thực nghiệm 12D7.
Tổng số
Điểm
Số
bài
học sinh
0-2 3
39
sl 0
0
39 % 0,0
0,0

4
0
0,0

5
6
7
8

9
10
4
14
12
7
2
0
10, 36, 30, 17, 5,1 0,0
2
1
7
9
Như vậy, sau khi tổng hợp thông tin ta thấy như sau: Số học sinh nắm được bài
học, biết các bước tiến hành bản biện cao hơn so với lới đối chứng. Cụ thể: Lớp
thực nghiệm 12D7 số học sinh đạt từ 5 điểm trở lên là 100% trong đó có 2 điểm
9 ( 5,1%), lớp đối chứng 12D8 số học sinh đạt từ 5 điểm trở lên là 89,9% trong
đó không có điểm 9.
Qua kết quả thực nghiệm về mức độ hiểu bài và nắm được cách thức tiến
hành phát triển tư duy, tôi còn nhận thấy mức độ hứng thú học tập bộ môn của
học sinh lớp thực nghiệm so với lớp đối chứng là cao hơn thông qua bài kiểm tra
trắc nghiệm nhanh.
Về chuyển biến của các em trong hành động cụ thể, ý thức học tập và thực
hiện các nội quy của lớp, trường, tham gia các hoạt động tập thể và giúp đỡ nhau
trong học tập nhận thấy ngay sau mỗi tiết học. Thông qua việc quan sát và theo
dõi của bản thân và kết hợp đối chiếu với theo dõi của nhà trường thì ở những
lớp này số lượng học sinh ngại ngùng, e dè, tự ti trước tập thể giảm hơn so với
trước, đặc biệt hơn là có rất nhiều học sinh tích cực, hăng hái trong các hoạt động
tập thể nhất là trong tiết hoạt động ngoài giờ sáng thứ 2 hàng tuần.
18



3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Tư duy phản biện trang bị cho học sinh những kĩ năng cơ bản của tư duy để
đưa ra những phán đoán thuyết phục. Trong quá trình giải quyết vấn đề của tư
duy phản biện, học sinh phải thực hiện nhiều thao tác tư duy như: phân tích, tổng
hợp, phán đoán, suy luận, lập luận…đó là những thao tác tư duy cần thiết trong
học tập nói chung và trong cuộc sống nói riêng. Đồng thời khi có được tư duy
phản biện, học sinh có được nhiều kĩ năng cơ bản cần thiết khác như khả năng
giao tiếp tốt, kĩ năng nêu và giải quyết vấn đề, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng phân
tích và lập luận…
Những kĩ năng mà tư duy phản biện trang bị, không những giúp học sinh có
thể đánh giá được nhận thức lịch sử của người khác mà còn có khả năng phán
đoán và thông quá các kĩ năng có thể đưa ra được những suy luận hợp lí trên cơ
sở những tư liệu xác thực.
Tư duy phản biện góp phần hình thành nên những công dân có trách nhiệm
xã hội trên nền tảng những nhận thức khoa học.
3.2. Đề xuất:
+ Về phía giáo viên cần phải có sự đầu tư tìm tòi, lựa chọn tư liệu, tranh
ảnh… sao cho phù hợp và phải có sự chắt lọc thông tin, cần có sự đầu tư đổi mới
phương pháp giảng dạy.
+ Về phía nhà trường cần có sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa tới bộ
môn, cung cấp trang thiết bị dạy học phù hợp, có các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng phương pháp dạy học mới cho giáo viên
Trong quá trình áp dụng đề tài, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót,
bản thân tôi sẽ tiếp tục vận dụng, khắc phục những khiếm khuyết và bổ sung cho
hoàn thiện hơn vào những năm học tới.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn
thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng5 năm 2019
CAM ĐOAN KHÔNG COPY

Lê Thị Diệp

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử (NXBĐại học sư phạm).
2. Tài liệu liên quan đến phát triển tư duy phản biện.
3. Phương pháp dạy học môn Lịch sử (NXB Đại học sư phạm)
4. Sách giáo khoa lịch sử 11.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD & ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
TT

Tên đề tài sáng kiến

Cấp đánh
giá xếp loại


Kết quả đánh
giá xếp loại

1

Một số kinh nghiệm về sử dụng sơ
đồ tư duy trong bài 20: Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp
kết thúc (1953-1954)-Lớp 12- Cơ
bản
Giáo dục ý thức bảo vệ biên giới,
chủ quyền biển, hải đảo Tổ quốc
cho học sinh trong p h ầ n h a i :
L ị c h s ử Vi ệ t N a m t ừ
nguồn gốc đến giữa thế
k ỉ X I X - Lớp 10 - chương trình
cơ bản

Sở GD&Đt
Thanh Hóa

C

Năm học
đánh giá xếp
loại
2012-2013

Sở GD&Đt

Thanh Hóa

B

2013-2014

Sử dụng kiến thức liên môn Địa
lí, Giáo dục công dân, Văn học
để giáo dục truyền thống yêu
nước cho học sinh Bài 20: Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp kết thúc (19531954) – Lớp 12 Có bản
Một số kinh nghiệm bồi dưỡng
năng lực thi của học sinh nhằm
đạt kết quả cao trong kì thi
THPT quốc gia qua dạy phần
Lịch sử Việt Nam lớp12
Một số kinh nghiệm tích hợp
giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh trong dạy học môn
Lịch sử lớp 12 - Phần Lịch sử
Việt Nam từ 1919 đến 1975,
nhằm tăng cường giáo dục lòng
yêu nước cho học sinh THPT

Sở GD&Đt
Thanh Hóa

B


2014-2015

Sở GD&Đt
Thanh Hóa

C

2015-2016

Sở GD&Đt
Thanh Hóa

C

2017-2018

2

3

4

5

21


22




×