Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Xây dựng ngân hàng video clip nhằm hỗ trợ giảng dạy môn giáo dục công dân theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh ở một số trường thpt trên địa bàn tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 38 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT HƯNG KHÁNH
---------------------------

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Lĩnh vực: Giáo dục công dân)
“XÂY DỰNG NGÂN HÀNG VIDEO CLIP NHẰM HỖ TRỢ GIẢNG DẠY
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG THPT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH YÊN BÁI”

Tác giả: Vũ Thị Hồng Thúy
Trình độ chun mơn: Cử nhân Giáo dục Chính trị
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Hưng Khánh

Yên Bái, ngày 28 tháng 01 năm 2022

1


2
MỤC LỤC
Trang
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN .................................................... .3
1. Tên sáng kiến: ................................................................................................. 3
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ........................................................................... 3
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: ............................................................................ 3
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: .......................................................................... 3
5. Tác giả .............................................................................................................. 3
II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN: .................................................................................. . 3


1. Tình trạng giải pháp đã biết: ........................................................................... 3
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: ...................................... 9
3. Khả năng áp dụng của giải pháp: .................................................................... 30
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp:……………………………………………………………………………31
5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) .............. 34
6. Các thơng tin cần được bảo mật: . ................................................................... 35
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: ................................................ 35
8. Tài liệu gửi kèm: ............................................................................................. 36
III. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền: ................................36
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO........................................................................................................................


3
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Xây dựng ngân hàng Video clip nhằm hỗ trợ giảng
dạy môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực
học sinh ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Trong q trình giảng dạy mơn GDCD THPT.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng thử nghiệm với đối tượng học sinh trung học phổ
thông ( THPT) tại 4 trường trên địa bàn tỉnh Yên Bái là : THPT Hưng Khánh,
THPT Hoàng Quốc Việt, THPT Mai Sơn, Phổ thông dân tộc nội trú ( DTNT)
THPT Tỉnh trong giờ học môn Giáo dục công dân ( GDCD) năm học 2020 2021 và học kì I năm học 2021 - 2022.
5. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Thị Hồng Thúy..
Năm sinh: 11/05/1983.
Trình độ chun mơn: Đại học.

Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: Trường THPT Hưng Khánh.
Địa chỉ liên hệ: Trường THPT Hưng Khánh - Trấn n- n Bái
Điện thoại: 0976254228
II. MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tình trạng các giải pháp đã biết
Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới 2018 được thực hiện bắt
đầu từ năm học 2020 - 2021 với lớp 1, năm học 2021- 2022 với lớp 6 và năm tới
sẽ là đối với lớp 10. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong giáo dục. Bộ
Giáo dục và các Nhà trường đã dành những điều kiện tốt nhất để phục vụ cho
việc dạy và học sách giáo khoa mới. Các lớp tập huấn, bồi dưỡng về nội dung
sách, phương pháp dạy học… đã được mở ở Bộ và các Sở. Một phong trào đổi
mới phương pháp dạy học cũng được diễn ra trong đội ngũ giáo viên ở các nhà
trường. Đổi mới chương trình sách giáo khoa mà mấu chốt là đổi mới phương


4
pháp giảng dạy đã được quán triệt trong phần biên soạn sách giáo khoa- Phương
pháp làm việc của thầy và trị, đã tạo nên khơng khí thi đua tìm tịi, định hình
phương pháp dạy va học mới.
Chương trình bộ mơn Giáo dục cơng dân cũng có nhiều thay đổi so với
chương trình cũ: Tính hiện đại cập nhật của tri thức thể hiện rõ hơn, liên hệ gần
gũi với thực tế đời sống khơng cịn chỉ là những kiến thức khơ khan. Vì vậy, có
thể nói đây là mơn học được thay đổi phương pháp dạy học rõ rệt nhất: Coi
trọng thực hành, vận dụng, liên hệ thực tế. Để đổi mới được phương pháp dạy
học, phát huy tính tích cực của học sinh, cần có những điều kiện nhất định về
giáo viên và đồ dùng dạy học ( phương tiện và trang thiết bị cần thiết). Đây
không phải là vấn đề mới, bởi từ trước đến nay, chúng ta cũng đã và đang sử
dụng đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học sao cho đạt kết quả tốt
nhất. Tuy nhiên, việc dạy học và sử dụng trang thiết bị phục vụ để phát huy

được năng lực, phẩm chất của học sinh vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Do
vậy đã dẫn đến hậu quả là khả năng tiếp cận, phân tích, đánh giá, nhận xét của
học sinh còn kém. Đa phần, học sinh mới chỉ dừng lại ở việc tiếp cận kiến thức
lý thuyết, áp dụng vào thực tế còn nhiều lúng túng, năng lực sáng tạo chưa thực
sự được phát huy.
Trong nhà trường, môn Giáo dục cơng dân giữ vai trị quan trọng và trực
tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con
người toàn diện.Việc đổi mới dạy học môn GDCD phải thể hiện rõ theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong q trình học tập.
Điều đó có nghĩa là trong dạy học, giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động của
học sinh và sử dụng các phương pháp dạy học như thế nào để kích thích học
sinh nỗ lực hoạt động, suy nghĩ và tự tìm tịi, phát hiện. Những chuẩn mực đạo
đức và pháp luật cần hình thành ở học sinh không được xem như những khuôn
mẫu cho sẵn, có tính chất áp đặt, mà được tổ chức trong những cấu trúc mở,
mềm mại và linh hoạt. Do đây là môn học gắn liền với cuộc sống của xã hội nên
trong quá trình học tập, học sinh cịn phải biết vận dụng nó vào giải quyết các
vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Để đạt được điều đó, trong q trình dạy học


5
người giáo viên phải biết thường xuyên xây dựng các bài tập tình huống để học
sinh vận dụng giải quyết. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của giáo viên dạy mơn
GDCD. Tuy nhiên, việc xây dựng các bài tập tình huống ở dạng lý thuyết trên
giấy rồi cho học sinh đọc sau đó giải quyết tình huống đơi khi khiến học sinh
rối, đặc biệt là những tình huống có nhiều nhân vật như ông A, bà B, ông C, chị
D…Điều này khiến nhiều học sinh cảm thấy chán nản không chịu đọc nên bỏ
cuộc. Như vậy, mục đích giáo dục của Giáo viên chưa đạt được. Nhưng nếu
Giáo viên xây dựng tình huống ở dạng các video clip chiếu lên cho học sinh
xem, sau đó giải quyết tình huống thì sẽ dễ dàng hơn cho học sinh trong việc
định hình các nhân vật, hơn nữa xây dựng tình huống dưới dạng video clip sẽ

kích thích năng lực quan sát, tìm tòi và sáng tạo của học sinh hơn, học sinh tiếp
cận với tình huống thực tế một cách nhẹ nhàng, hiệu quả hơn, do vậy mục đích
giáo dục của GV cũng đạt được nhanh hơn. Một vấn đề quan trọng nữa là hiện
nay, trong thời điểm cả nước nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng đang phải đối
mặt với dịch Covid- 19. Một số trường phải dạy trực tuyến, một số trường vừa
kết hợp dạy trực tuyến xen lẫn trực tiếp. Việc sử dụng video clip trong giảng dạy
môn Giáo dục cơng dân khơng chỉ có hiệu quả đối với dạy trực tiếp mà cịn phát
huy hiệu quả tích cực đối với hình thức dạy học trực tuyến bởi lẽ khi học trực
tuyến nếu giáo viên chỉ nói thì dễ gây nhàm chán đối với học sinh, nhưng nếu
GV sử dụng video clip để chiếu cho học sinh xem, sau đó, cơ trị cùng thảo luận
những vấn đề liên quan đến nội dung video, từ đó rút ra nội dung bài học thì học
sinh sẽ dễ dàng tiếp cận vấn đề hơn, không cảm thấy nhàm chán.
Việc sử dụng tình huống dưới dạng các Video clip phát huy hiệu quả cao
nhưng khơng phải giáo viên nào cũng có trong tay những video clip của các bài
mình muốn dạy. Giáo viên có thể tìm các video clip trên mạng, song khơng phải
bài nào, nội dung nào cũng có các tình huống video clip, hoặc có thì cũng chưa
chắc đáp ứng được yêu cầu về nội dung bài học cũng như ý tưởng của Giáo viên
về việc dạy học nội dung đó. Giải pháp khả thi hơn cả là Giáo viên hướng dẫn
và giao cho học sinh thực hiện các video clip tình huống rồi hình thành một
ngân hàng video clip phục vụ cho quá trình giảng dạy.


6
Vì những lí do trên, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong
bối cảnh hiện nay, tôi đã lựa chọn đề tài “Xây dựng ngân hàng Video clip
nhằm hỗ trợ giảng dạy môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển
phẩm chất, năng lực học sinh ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Yên
Bái”.
1.1. Thực trạng dạy và học môn GDCD tại một số trường THPT trên
địa bàn tỉnh Yên Bái.

Để đánh giá đúng thực trạng dạy học môn GDCD, tôi đã tiến hành trao
đổi với các giáo viên dạy môn GDCD tại một số trường THPT trên địa bàn tỉnh
Yên Bái thì nhận thấy:
Các giáo viên đều rất mong muốn nâng cao chất lượng dạy và học của
môn học, muốn học sinh tiếp cận kiến thức một cách thoải mái mà hiệu quả,
muốn học sinh áp dụng lý thuyết vào thực tiễn một cách nhanh nhất, tuy nhiên
bằng cách nào để thực hiện được mong muốn đó thì thực sự là cả một vấn đề.
Việc sử dụng các tình huống thực tiễn đã được đa phần các giáo viên sử
dụng trong quá trình học, tuy nhiên những tình huống đó đa phần là những tình
huống được ghi lại trên giấy hoặc trên bản words..., chưa được cụ thể hóa thành
những video clip, do đó hiệu quả thu được từ việc sử dụng tình huống này là
chưa cao, thậm chí cịn khiến học sinh có tâm lý nặng nề khi giải quyết tình
huống bởi có những tình huống q nhiều nhân vật, học sinh khó tưởng tượng ra
tình huống đó trong thực tế nên chưa có cách giải quyết hoặc giải quyết chưa
thỏa đáng. Cũng có một số thầy cơ có sử dụng tình huống đã được cụ thể hóa là
những video clip nhưng số tình huống đó khơng nhiều, đa số là tìm kiếm trên
mạng internet. Hiện nay số lượng tình huống mơn GDCD khá nghèo nàn (kể cả
trên mạng internet), điều này cũng đã gây khó khăn rất lớn cho giáo viên khi
muốn sử dụng video tình huống để dạy học.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoành hành, đa số các trường học trên
địa bàn tỉnh Yên Bái đều đã và đang sử dụng phương án dạy học trực tiếp kết
hợp trực tuyến; phương pháp dạy học trực tuyến 100% trên các nền tảng dạy học


7
trực tuyến khác nhau. Khi dạy học trực tuyến ở các mơn nói chung và mơn
GDCD nói riêng, các giáo viên đều rất trăn trở vấn đề làm thế nào để học sinh
có hứng thú cuốn hút, tập trung vào bài giảng và tiếp thu được kiến thức một
cách nhẹ nhàng mà đầy đủ nhất? bởi lẽ dạy trực tuyến nếu khơng có phương
pháp dạy học phù hợp mà chỉ giáo viên thuyết trình, học sinh lắng nghe thì rất

dễ gây nhàm chán. Hiệu quả giáo dục không cao. Trong đợt dịch năm trước và
năm nay, đa phần các giáo viên dạy môn GDCD dạy trực tuyến mới chỉ áp dụng
phương pháp dạy học truyền thống là thuyết trình đàm thoại, nêu vấn đề…
khơng có hoặc rất ít giáo viên sử dụng video tình huống để dạy học trực tuyến,
do vậy hiệu quả dạy và học chưa được như ý muốn, học sinh chưa chú ý và mệt
mỏi, nhàm chán trong khi học là điều dễ xảy ra.
1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên
1.2.1. Đối với giáo viên
Vì nhiều lí do nên một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, do đó
cịn ngại tìm tịi, đổi mới, sáng tạo trong dạy học.
Đa số giáo viên mới chỉ tìm tịi các video clip có sẵn trên mạng hoặc sưu
tầm qua các kênh khác nhau nên số video còn nghèo nàn, bài hoặc nội dung
cần thì lại khơng có video hoặc nội dung video chưa đáp ứng được ý muốn chủ
quan của giáo viên khi thiết kế nội dung bài dạy. Vì ít hoặc khơng có video
phục vụ giảng dạy mà giáo viên lại không tự xây dựng ngân hàng video bằng
cách hướng dẫn học sinh tự làm video thơng qua hình thức kiểm tra đánh giá
nên đa số giáo viên chỉ sử dụng phương pháp dạy cũ đó là giảng giải, minh hoạ,
ít sáng tạo trong giờ học, vận dụng thực tế, đơn điệu một chiều, phần lớn thầy
giảng - trò ghi, hay giáo viên là trung tâm của giờ học. Các hoạt động học tập
kích thích tính tự giác, sáng tạo, gây hứng thú học tập của học sinh như sử dụng
video clip trong bài dạy chưa được sử dụng thường xuyên trong dạy môn
GDCD.
1.2.2. Đối với học sinh


8
Chương trình mơn GDCD cấp THPT có nhiều nội dung khó, trừu tượng,
khơ khan. Đặc biệt là trong chương trình GDCD lớp 12, nhiều học sinh hay bị
nhầm lẫn giữa các quyền, các đặc trưng và các hình thức thực hiện pháp luật.
Do phần đông học sinh vẫn nghĩ đây là mơn học ” phụ” nên có tâm lý coi

thường, chưa thực sự đầu tư vào học tập.
Do nhiều học sinh có nhận thức cịn hạn chế, lười tư duy, thường có xu
hướng học thuộc những gì giáo viên dạy nên để các em tư duy độc lập là rất khó.
Một số học sinh cịn lười nhác ỉ lại, khơng tự giác, rất ít em tự đọc và chuẩn bị
bài mới nên thụ động trong lĩnh hội kiến thức.
* Ưu điểm của sáng kiến
- Sáng kiến đã chỉ ra được sự cần thiết phải xây dựng một ngân hàng
video clip tình huống trong mơn GDCD cấp THPT: Bổ sung vào kho học liệu
bộ môn, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi sử dụng các video vào dạy học
theo các bài hoặc các nội dung, chủ đề. Góp phần giảm bớt áp lực cho giáo viên
khi lựa chọn ý tưởng thiết kế bài giảng.
- Sáng kiến đã chỉ rõ được việc các giáo viên sử dụng video clip tình
huống trong dạy học sẽ khắc phục được một số hạn chế trong q trình dạy và
học thơng thường; phát huy được tính tích cực chủ động, khả năng quan sát và
giải quyết vấn đề của học sinh. Giúp học sinh tiếp cận và giải quyết vấn đề
nhanh hơn, hiệu quả hơn, do đó học sinh sẽ tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn. Nhờ
vậy, mục tiêu dạy học đề ra của Giáo viên cũng đạt được.
- Sáng kiến đã nêu một số cách thức để thiết kế, xây dựng và sử dụng
ngân hàng video clip trong dạy học môn GDCD cấp THPT, đồng thời tác giả
của sáng kiến cũng đưa ra một số kế hoạch bài dạy có sử dụng video clip tình
huống trong các hoạt động dạy học và những lưu ý cần thiết khi lựa chọn và sử
dụng các video trong ngân hàng video clip đối với môn GDCD lớp 11 và 12 để
các giáo viên có thể tham khảo trong quá trình áp dụng sáng kiến.
* Nhược điểm của sáng kiến:
Để áp dụng sáng kiến đòi hỏi giáo viên cần đầu tư thời gian để lựa chọn
các video cho phù hợp với nội dung bài học và ý tưởng của giáo viên cho bài


9
học đó. Đồng thời, giáo viên cũng cần phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi có liên

quan đến video tình huống sử dụng để hướng học sinh tới nội dung bài học hoặc
củng cố kiến thức bài học.
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của giải pháp
Với việc thiết kế, xây dựng và sử dụng ngân hàng video clip sẽ giúp các
giáo viên giảng dạy mơn GDCD có thêm nhiều tư liệu để phục vụ quá trình dạy
học nhằm phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Khi giáo viên áp dụng
các video vào giảng dạy trong bài học sẽ giúp các em học sinh có những giờ học
GDCD sơi nổi, thú vị, các em khơng cịn phải tưởng tượng ra tình huống trong
thực tế nữa mà bản thân các em sẽ thấy như mình đang đứng trước một tình
huống thực tế, do vậy các em sẽ nảy sinh ra cách giải quyết tình huống nhanh
chóng và chính xác hơn, nhờ vậy việc nắm kiến thức nhờ đó cũng hiệu quả hơn
rất nhiều. Điều quan trọng là các em không cảm thấy giờ học gị bó, đơn điệu
nữa mà cảm thấy vui vẻ hơn, u thích mơn GDCD hơn và có tâm lý chờ đợi
đến giờ GDCD hơn.
Những video clip tình huống mà tác giả sáng kiến xây dựng thành ngân
hàng video clip không phải là những video sưu tầm mà tất cả đều do chính tác
giả hướng dẫn học sinh thực hiện. Điều này không chỉ mang lại sự mới mẻ trong
các tình huống mà cịn giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát, sáng tạo và sự
trải nghiệm của học sinh đối với thực tế, góp phần phát triển phẩm chất, năng
lực của học sinh, đặc biệt là các năng lực đặc thù như: Năng lực hoạt động và tổ
chức hoạt động, năng lực tự nhận thức và tích cực hóa thân, năng lực khám phá
và sáng tạo…
Giải pháp đưa ra cịn nhằm mục đích hỗ trợ cải thiện tình trạng dạy và học
đơn điệu, nhàm chán đối với hình thức dạy học trực tuyến. Các video clip được
sử dụng trong khi giảng dạy trực tuyến sẽ là một trong những động lực giúp các
học sinh chú ý hơn, hăng hái và sôi nổi hơn trong các giờ học trực tuyến, nhờ
vậy, các em sẽ tiếp thu bài nhanh hơn, giờ học cũng vì thế mà trở nên nhẹ nhàng
và hiệu quả hơn nhiều.



10
Tóm lại, tất cả những mục đích trên của sáng kiến đều hướng tới một mục
đích chung: đó là giúp cho mỗi giờ học môn GDCD đều trở thành những giờ học
sôi nổi, hạnh phúc, trong giờ học sinh không còn cảm thấy giờ học đầy những
kiến thức lý luận nặng nề, nhàm chán, khô khan nữa mà cảm thấy thú vị hơn,
u mơn học hơn. Từ đó việc tiếp thu kiến thức cũng nhẹ nhàng hơn, học sinh
không chỉ nắm vững kiến thức cơ bản của bài học mà còn phát triển được một số
phẩm chất, năng lực của bản thân sau khi học xong.
2.2. Nội dung giải pháp
2.2.1. Cơ sở lý luận
Đổi mới giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm. Đổi mới phương pháp
dạy học trong đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, phát huy tính
tích cực chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và đổi mới tri thức,
kỹ năng, phát triển năng lực.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực chính là việc thực hiện
các bước để chuyển chương trình học từ việc tiếp cận nội dung thành tiếp cận
năng lực của học sinh. Điều này có nghĩa là thay vì quan tâm đến việc học sinh
học được gì thì sẽ quan tâm đến việc học sinh sẽ học như thế nào và vận dụng
được những gì thơng qua học tập. Muốn thực hiện được điều này, cần phải thay
đổi phương pháp dạy học từ thụ động thành chủ động. Các em có cơ hội rèn
luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức được học, hình thành năng lực và hồn thiện
về nhân cách, phẩm chất. Ngoài ra, cần tăng cường thảo luận nhóm, tăng tương
tác giữa giáo viên và học sinh để thúc đẩy sự phát triển năng lực xã hội của học
sinh.
GDCD là một môn học mà các tri thức, chuẩn mực, kỹ năng của nó đều
gắn chặt với thực tế, nó rất gần gũi với học sinh. Đó là những vấn đề thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, những vấn đề kinh tế gần gũi, những vấn
đề chính trị xã hội, đạo đức, pháp luật của đời sống hàng ngày tác động qua lại

giữa con người với con người, giữa con người và các thể chế xã hội. Môn học
nhằm giáo dục cho học sinh các chuẩn mực của người công dân ở mức độ phù


11
hợp với lứa tuổi, trên cơ sở đó góp phần hình thành những phẩm chất, nhân cách
của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phù hợp với xu thế phát triển
tiến bộ của thời đại. Vì vậy để phát huy tính tich cực của học sinh trong giờ dạy
GDCD, người giáo viên cần tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động, tự chiếm
lĩnh các giá trị, các chuẩn mực dạo đức, pháp luật thông qua việc nắm tri thức,
thực hành và rèn luyện trong cũng như ngoài giờ học.
Người Giáo viên có rất nhiều cách dạy học nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh như: Thảo luận nhóm, nêu vấn đề, dạy học theo tình
huống… Trong đó, dạy học theo tình huống và dạy học nêu vấn đề thơng qua
tình huống được cụ thể hóa bằng video clip là một cách dạy rất hay, phù hợp với
cách dạy học trong tình hình mới nhằm phát huy tối đa tính độc lập, sáng tạo của
học sinh, góp phần hình thành cho các em những năng lực và phẩm chất cần có
của một người cơng dân trong thời đại mới.
Tuy nhiên, trong các kho học liệu của bộ mơn GDCD cịn rất ít những
video clip tình huống để phục vụ cho việc dạy học hiện đại, do vậy, thay vì
trơng chờ vào những video có ít ỏi trên mạng, các giáo viên nên tự bắt tay vào
xây dựng một ngân hàng video clip phục vụ cho quá trình giảng dạy của chính
mình và chia sẻ cùng các đồng nghiệp. Việc tự xây dựng video clip sẽ thuận lợi
hơn vì giáo viên sẽ chủ động sắp xếp các video clip theo từng chủ đề dạy học,
từng bài học và từng nội dung học, từ đó việc lựa chọn video cho các tiết học sẽ
mất ít thời gian hơn mà hiệu quả mang lại cũng cao hơn.
2.2.2. Cơ sở thực tiễn
- Thực tiễn việc dạy, học môn GDCD trực tiếp và trực tuyến.
Tinh thần đổi mới dạy và học đã được Bộ Giáo dục đưa ra từ năm 2018 và
được các thầy cô giáo cũng như học sinh hưởng ứng nhiệt tình. Hiện nay, trong

bối cảnh cả nước phải đối mặt với đại dịch Covid- 19, việc dạy và học cũng
được vận dụng linh hoạt với các hình thức: Dạy trực tiếp tại trường, dạy trực
tuyến hoàn toàn, dạy trực tiếp kết hợp với dạy trực tuyến…Ở các hình thức dạy
học nào giáo viên cũng cố gắng kết hợp các phương pháp dạy học hiện đại và
kết hợp với sự trợ giúp của các thiết bị CNTT. Tuy nhiên, không phải người


12
giáo viên nào cũng tích cực chủ động trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
Đặc thù nội dung môn học GDCD là những kiến thức trừu tượng, những kiến
thức về pháp luật, nhà nước, về chính trị hết sức khô khan, nếu người giáo viên
không lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp thì rất dễ khiến cho học sinh
cảm thấy nhàm chán, rời rạc…Phần lớn giáo viên khi dạy trực tiếp có sử dụng
một số phương pháp dạy học mới nhưng vẫn còn thiên về các phương pháp dạy
học truyền thống, cá biệt vẫn cịn tình trạng đọc- chép. Nếu lớp học có các thiết
bị của phịng học thơng minh thì đa số các thầy cơ sử dụng giáo án Powerpoint
nhưng chủ yếu là giáo án lấy trên mạng, các thầy cơ mới chỉ sử dụng kênh hình (
thực chất là chiếu các slide chữ lên thay cho viết bằng phấn lên bảng), điều này
khiến cho hiệu quả của bài giảng không cao, học sinh cảm thấy mệt mỏi, buồn
chán nên dẫn tới khơng thích học mơn GDCD. Khi dạy học trực tuyến, phần lớn
giáo viên cũng chỉ sử dụng bài giảng trình chiếu Powerpoint ở dạng kênh hình
rồi thuyết trình giảng giải theo từng nội dung slide đã chiếu. Điều này sử dụng
dạy học trực tiếp nếu không cẩn thận đã khiến hiệu quả bài dạy thấp, sử dụng
trong dạy học trực tuyến lại càng dễ khiến cho mục đích bài dạy khơng đạt được
bởi lẽ khi học trực tuyến, Giáo viên rất khó để kiểm sốt học sinh và cuốn học
sinh chú tâm vào bài giảng. Những tiết dạy trực tuyến diễn ra theo kiểu: Cô
chiếu bài và thuyết trình, học sinh thì làm việc riêng, nói chuyện, khi cơ đặt câu
hỏi phát vấn thì khơng ai trả lời hoặc cố tình lấy lí do hỏng cam, hỏng mic để
khỏi phải trả lời là khá phổ biến. Điều này bản thân tôi đã gặp khi dự một tiết
học trực tuyến môn GDCD của một giáo viên trong cụm trường số 3 vừa qua.

Do đó, làm thế nào để khiến việc dạy học trực tuyến hiệu quả hơn mà vẫn phát
huy được tính tích cực chủ động của học sinh là câu hỏi không chỉ của riêng
những giáo viên dạy học mơn GDCD mà cịn là câu hỏi của các giáo viên môn
khác.
- Thực tiễn việc sử dụng các video clip trong dạy học môn GDCD hiện nay
Nhằm thực hiện đổi mới trong phương pháp dạy học, nhiều giáo viên cũng
đã sử dụng video clip tình huống trong các bài giảng của mình, tuy nhiên, đa số
giáo viên mới chỉ tìm tịi các video clip có sẵn trên mạng hoặc sưu tầm qua các


13
kênh khác nhau nên số video còn nghèo nàn, bài hoặc nội dung cần thì lại
khơng có video hoặc nội dung video chưa đáp ứng được ý muốn chủ quan của
giáo viên khi thiết kế nội dung bài dạy. Vì ít hoặc khơng có video phục vụ
giảng dạy mà giáo viên lại không tự xây dựng ngân hàng video bằng cách
hướng dẫn học sinh tự làm video thơng qua hình thức kiểm tra đánh giá nên đa
số giáo viên chỉ sử dụng phương pháp dạy cũ đó là giảng giải, minh hoạ, ít
sáng tạo trong giờ học, vận dụng thực tế, đơn điệu một chiều, phần lớn thầy
giảng - trò ghi, hay giáo viên là trung tâm của giờ học. Các hoạt động học tập
kích thích tính tự giác, sáng tạo, gây hứng thú học tập của học sinh như sử dụng
video clip trong bài dạy chưa được sử dụng thường xuyên dẫn tới hiệu quả
cũng như mục tiêu của bài giảng chưa thực sự phát huy được tối đa.
2.2.3. Nội dung giải pháp
Dựa vào cơ sở thực tiễn trên, điều kiện thực tế nhà trường, khả năng của
học sinh, cùng với nghiên cứu chương trình mơn GDCD, tơi đã thực hiện một số
hình thức thiết kế, xây dựng ngân hàng video clip như sau:
- Xây dựng ngân hàng video clip từ những nguồn video có sẵn thơng qua
các kênh: mạng internet, qua trao đổi với đồng nghiệp…
- Tự thiết kế ngân hàng video từ những sản phẩm bài học đã giao cho học
sinh thực hiện

Căn cứ vào thực tiễn dạy và học môn GDCD ở một số trường THPT trên
địa bàn tỉnh Yên Bái, căn cứ vào nội dung của môn GDCD và những yêu cầu
cần đạt về phẩm chất, năng lực của mỗi chủ đề, mỗi bài học, tôi đã thiết kế và
xây dựng ngân hàng video clip theo chủ đề, theo bài, theo từng đơn vị kiến thức
của bài.
Căn cứ vào mục đích và ý tưởng của giáo viên khi sử dụng video clip, tôi
cũng xây dựng những video clip dùng cho các hoạt động dạy học khác nhau
như: Hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kiến thức mới, hoạt động luyện
tập và hoạt động vận dụng.
Nội dung giải pháp cũng đề cập đến việc đưa ra những lưu ý về nguyên
tắc khi sử dụng các video clip trong giảng dạy đối với các giáo viên trong mỗi


14
bài học, giờ học. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra một số minh họa về sử dụng
ngân hàng video clip trong một số nội dung cụ thể môn GDCD THPT.
2.2.4. Cách thức thực hiện
* Các phương pháp thiết kế, xây dựng ngân hàng video clip.
Để có được những video clip làm công cụ hỗ trợ giảng dạy, trước hết
cần phải thiết kế ngân hàng video từ những nguồn khác nhau. Trong khuôn
khổ của sáng kiến, tôi đưa ra hai phương án để thiết kế, xây dựng ngân hàng
video clip:
Xây dựng ngân hàng video clip từ những nguồn video có sẵn thơng qua
các kênh: mạng internet, qua trao đổi với đồng nghiệp.
Hiện nay, với sự trợ giúp của công nghệ 4.0, Giáo viên có thể dễ dàng tiếp
cận với các nguồn video trên internet. GV có thể truy cập vào trang youtube, các
trang của VTV… xem xét, lựa chọn và tải những video phù hợp với bài dạy về
ngân hàng. Với những video dài hoặc có nhiều đoạn khơng phù hợp với nội
dung bài, giáo viên cũng có thể sử dụng các phần mềm để cắt lược bớt, chỉ để lại
những phần, đoạn video cần dùng đến… Việc tìm kiếm video trên internet có

thuận lợi là nhanh, đơn giản, không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên phương pháp
này cũng có những khó khăn nhất định bởi các video tình huống trên mạng
không đa dạng phong phú, nội dung của video tình huống chưa phù hợp với nội
dung hoặc ý đồ mà giáo viên cần sử dụng trong bài giảng. Hơn nữa, nếu giáo
viên khơng có các kỹ năng về chỉnh sửa video thì việc cắt lược và chỉnh sửa
video sẽ rất khó khăn. Một vấn đề khác nữa là khi sử dụng video có sẵn trên
internet sẽ khơng thu hút sự chú ý của học sinh như chính video của các em học
sinh tự thực hiện.
Ví dụ: Một số video clip sưu tầm:


15

( Hình ảnh cắt trong Video tiểu phẩm bài Chính sách dân số và giải quyết
việc làm)

( Hình ảnh cắt trong video hướng dẫn quy trình bầu cử)


16
Tự thiết kế ngân hàng video từ những sản phẩm bài học đã giao cho học
sinh thực hiện
Khi thực hiện thiết kế, xây dựng ngân hàng video clip trong môn Giáo
dục công dân, phương pháp hữu hiệu nhất là xây dựng từ nguồn video do
chính học sinh tự làm. Để thực hiện được phương pháp này, trước hết người
giáo viên cần có sự chuẩn bị về trật tự xây dựng ngân hàng video clip như:
Thiết kế videoclip theo hướng có câu hỏi đi kèm hoặc khơng có câu hỏi đi
kèm; thiết kế video theo từng bài, từng nội dung của bài hay thiết kế video
theo chủ đề; thiết kế video dưới dạng tình huống để học sinh xử lý hay video
cung cấp thông tin để học sinh căn cứ vào đó đưa ra nhận xét...

Tùy vào khả năng của học sinh các lớp dạy, giáo viên có thể đưa ra chủ đề
tình huống, hoặc GV có thể viết kịch bản tình huống để học sinh thực hiện
làm video clip theo kịch bản. Học sinh có thể làm theo nhóm, theo tổ và tự
phân vai sau khi nhận kịch bản, hướng dẫn và những yêu cầu về sản phẩm từ
giáo viên.
Sau khi các lớp nộp sản phẩm video, giáo viên tiến hành kiểm tra về nội
dung và hình thức video, phân loại và nhóm các video theo ý tưởng của Giáo
viên. Giáo viên cũng có thể nhậ xét đánh giá và cho điểm các nhóm học sinh
đối với các sản phẩm video mà học sinh đã làm. Như vậy, việc để học sinh tự
thực hiện video không chỉ giúp các em rèn năng lực tự học, sáng tạo và khả
năng phối hợp với nhau mà cịn có tác dụng trong việc đổi mới hình thức
kiểm tra đánh giá học sinh.
Ví dụ: Một số video clip tự thiết kế:


17

( Hình ảnh cắt từ video quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cơng dân)

( Hình ảnh cắt từ video quyền đảm bảo an tồn và bí mật thư tín, điện thoại
điện tín)


18

( Hình ảnh cắt từ video quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo)
* Một số cách sử dụng ngân hàng video clip
- Sử dụng trong hoạt động khởi động
Mục đích của hoạt động khởi động là giúp học sinh tập trung và chú ý,
hiện diện 100% trong không gian lớp học, trong từng khoảnh khắc; Cho phép

giáo viên giới thiệu bài học một cách nhẹ nhàng và hấp dẫn; Giúp cho học
sinh có cơ hội làm quen với nội dung bài học và tạo hứng thú lôi cuốn cho
học sinh ngay từ đầu bài học. Để đạt được mục đích này, người giáo viên khi
lựa chọn video để sử dụng cần phải lựa chọn những video mà sau khi học sinh
xem xong có thể liên tưởng đến nội dung của bài học(chủ đề) sẽ học trong tiết
học đó.
Ví dụ: Khi dạy nội dung của bài 4 môn GDCD lớp 11: Cạnh tranh trong sản
xuất và lưu thông hàng hóa ( thuộc chủ đề: Một số quy luật kinh tế cơ bản
trong nền kinh tế thị trường), chúng ta có thể sử dụng video clip của bài cạnh
tranh.


19

( Hình ảnh chụp từ video)

( Hình ảnh chụp từ video)
Sau khi chiếu video cho học sinh xem, giáo viên có thể vừa dẫn dắt và phát
vấn: Trong video chúng ta thấy có rất nhiều loại sữa với giá cả khác nhau, lại
cịn có loại có khuyến mại. Vậy tại sao các hãng sữa lại có nhiều mức giá
khác nhau? Họ làm thế nào để bán được hàng? Hai người bán hàng trong


20
video clip đã có hành động gì? ( Chửi, đánh nhau) Tại sao họ lại làm như
vậy? ( Để giành giật khách hàng)... Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại:
Trên thị trường mỗi loại hàng hóa lại có nhiều hãng khác nhau, để bán được
hàng, học có rất nhiều cách như: cải tiến kỹ thuật, bao bì, nâng cao chất lượng
hạ giá thành sản phẩm, khuyến mại... đó là cạnh tranh và là cạnh tranh lành
mạnh. Tuy nhiên, hai người bán hàng vì giành giật khách hàng đã mắng chửi

nhau, đánh nhau, tố nhau bán hàng giả, hàng nhái... đó là cạnh tranh khơng
lành mạnh. Vậy cạnh tranh là gì và nó có biểu hiện cũng như tác động như thế
nào đối với nền kinh tế thị trường? Chúng ta cùng tìm hiểu trong tiết học hơm
nay...
- Sử dụng trong hoạt động hình thành kiến thức mới
Đối với hoạt động hình thành kiến thức, giáo viên có thể sử dụng video clip
tình huống liên quan đến nội dung kiến thức sẽ học để cùng học sinh khám
phá, trao đổi, phân tích tình huống, từ đó rút ra kết luận về nội dung kiến thức
sẽ tìm hiểu trong hoạt động này. Khi sử dụng video tình huống vào họat động
hình thành kiến thức mới sẽ tạo ra được khơng khí học tập sơi nổi hơn, phát
huy được sự tìm tịi, sáng tạo của học sinh. Học sinh sẽ khơng cịn cảm thấy
nặng nề khi tiếp thu kiến thức mới nữa. Bản thân các em sẽ tự động tiếp thu
kiến thức thơng qua việc xem và phân tích tình huống trong video, do vậy
việc tiếp thu này là hoàn toàn chủ động, tránh việc học ép, học vẹt.
Hơn nữa sử dụng video clip tình huống trong hoạt động hình thành kiến thức
có thể nói là phương pháp dạy học phát huy hiệu quả tối ưu trong dạy học
trực tuyến. Thay vì cơ chiếu các slide tồn chữ, trị ghi bài một cách thụ động
thì các trị sẽ được xem video tình huống, tập trung cùng cơ giáo phân tích
tình huống để rút ra nội dung. Điều này sẽ khiến cho giờ học trực tuyến nhẹ
nhàng hơn, cuốn hút hơn, hạn chế tối đa tình trạng học sinh khơng tập trung
học trực tuyến do sự nhàm chán của mơn học.
Ví dụ: Tơi xin đưa ra một ví dụ cụ thể về việc sử dụng 01 video clip
trong ngân hàng video clip vào hoạt động hình thành kiến thức của bài 6
GDCD lớp 12 ( Công dân với các quyền tự do cơ bản) như sau:


21
Ở hoạt động hình thành kiến thức mới: Tìm hiểu quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân
Nội dung 1: Tìm hiểu nội dung thế nào là quyền bất khả xâm phạm về thân

thể của công dân.
a) Mục đích: Giúp học sinh hiểu được thế nào là quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân.
b) Nội dung: Học sinh tiến hành thảo luận cặp đôi một tình huống cụ thể
liên quan đến bài học mà giáo viên đưa ra, ghi lại các kết quả thảo luận theo yêu
cầu của giáo viên
c) Sản phẩm: Thấy được quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân là khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tòa án, Quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Đây là quyền tự do
cơ bản nhất của công dân, đã được ghi nhận trong Hiến Pháp và các văn bản
pháp luật. Công dân được tự do về thân thể, khơng ai có quyền xâm phạm đến
quyền tự do thân thể của công dân
d) Cách thức tiến hành:
Các bước tiến

Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

hành
- Chuyển giao Giáo viên giao nhiệm vụ
nhiệm vụ

+ Học sinh nhận nhiệm

+ Giáo viên đặt vấn đề: Các vụ học tập
quyền tự do cơ bản của công dân + Tiến hành phân chia
được ghi nhận trong Hiến pháp các nhóm theo u cầu
và Luật. Đối với cơng dân quyền của giáo viên
bất khả xâm phạm là quyền quan + Chuẩn bị các dụng cụ

trọng nhất được ghi nhận tại học tập để thực hiện nội
Hiến pháp 2013.
+ Gv chiếu video tình huống đã
chuẩn bị trước.
+ Giáo viên tổ chức hoạt động thảo

dung thảo luận nhóm


22
luận cặp đôi.
1. Việc làm của hai người công
an xã trong tình huống có vi
phạm pháp luật khơng? Tại sao?
2. Có phải cứ cơng an là có
quyền bắt người khơng?
3. Việc bắt người không đúng
pháp luật là vi phạm quyền gì
của cơng dân?
4. Vậy thế nào là quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công
dân?
-

Thực

nhiệm vụ

hiện Giáo viên theo dõi


Học sinh thực hiện nhiệm

- Gợi ý để HS tìm ra nội dung cơ vụ
bản của quyền bất khả xâm phạm - HS xem tình huống
về thân thể của cơng dân
- Khích lệ các cặp HS cịn lại nếu
các em có ý kiến bổ sung

chiếu trên bảng.
- Phân chia các cặp đôi
tiến hành các nhiệm vụ
- HS thảo luận, thư kí ghi
chép và đưa ra kết luận
về khái niệm quyền bất
khả xâm phạm về thân
thể của cơng dân
- Các nhóm HS còn lại
quan sát, lắng nghe và bổ
sung sau khi các bạn ghi
xong

- Báo cáo và Giáo viên tổ chức điều hành

+ HS: Cử đại diện trình

thảo luận

bày

Giáo viên yêu cầu nhóm cử học



23
sinh đại diện để trình bày nội

+ HS: Nhận xét bổ sung

dung

- Đánh giá kết quả thực

- Các nhóm khác lắng nghe và

hiện nhiệm vụ học tập:

cùng bổ sung

Giáo viên nhận xét kết

Giáo viên nhận xét nội dung của

quả thảo luận và định

từng nhóm

hướng học sinh nêu:
+ Việc làm của cơng an
xã là vi phạm PL.
+ Vì chưa có căn cứ
chứng minh anh X lấy

trộm, khơng có thẩm
quyền, đánh nghi phạm,
ép cung...

- Kết luận, nhận + Như vậy quyền BKXP về thân -Nghe và ghi chép khi
định

thể thì khơng ai được tự tiện bắt GV kết luận
người. Và hành vi tự tiện bắt Quyền bất khả xâm phạm
người là hành vi xâm phạm đến về thân thể của công dân
quyền tự do về thân thể của cơng có nghĩa là, không ai bị
dân và là hành vi trái pháp luật.
bắt, nếu khơng có quyết
+ Quyền này được ghi nhận ở Hiến định của Tòa án, quyết
pháp

định hoặc phê chuẩn của
Viện Kiểm sát, trừ trường
hợp phạm tội quả tang.

Như vậy, trong nội dung 1 của hoạt động hình thành kiến thức nói trên, khi
tơi sử dụng video tình huống để cho học sinh xem, sau đó thảo luận, nghiên cứu
tìm ra khái niệm quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Điều này sẽ làm cho học
sinh cuốn hút vào nội dung bài giảng hơn là chỉ làm việc với những câu hỏi và
bảng đen phấn trắng đơn thuần. Học sinh cũng hiểu được luôn quyền bất khả


24
xâm phạm về thân thể là quyền liên quan đến bắt và giam giữ người. Vấn đề đặt
ra là nếu khơng có ngân hàng video clip với những video đã được dựng lên theo

sát nội dung kiến thức của bài thì người giáo viên rất khó để tìm được một tình
huống phù hợp với nội dung này trên các phương tiện thông tin. Do vậy, việc
thiết kế, xây dựng một ngân hàng video tình huống là rất cần thiết và phù hợp.
( Tôi đã áp dụng trong Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh năm học
2020- 2021, được Ban giám khảo Hội thi đánh giá cao và đạt Giáo viên dạy giỏi
cấp Tỉnh năm học 2020- 2021).
- Sử dụng trong hoạt động luyện tập, củng cố kiến thức
Luyện tập, củng cố kiến thức là một hoạt động quan trọng để nhớ lại các kiến
thức đã học, đánh giá sự tiếp thu kiến thức của học sinh trong bài học, tiết học
hay trong một chủ đề. Do vậy, sẽ rất hiệu quả nếu như người giáo viên sử
dụng các tình huống tổng hợp được các kiến thức mà học sinh đã được học
trong chủ đề, bài học. Trong ngân hàng video clip tình huống mà tơi đã thiết
kế, xây dựng đối với khối 12 có những video tình huống theo chủ đề. Giáo
viên hồn tồn có thể sử dụng một video đó để chiếu cho học sinh, sau đó học
sinh chủ động phân tích tình huống, huy động các kiến thức đã được học để
giải quyết tình huống. Thơng qua việc giải quyết tình huống, học sinh sẽ hệ
thống lại được các nội dung kiến thức đã được học. Cách này sẽ hiệu quả hơn
nhiều so với việc các GV sử dụng các câu hỏi hay bài tập tình huống, bởi các
bài tập tình huống có nội dung tổng hợp thường khá dài, khi học sinh đọc tình
huống sẽ hay bị nhầm lẫn các tình tiết, lẫn lộn các nhân vật A,B,C… dẫn tới
việc giải quyết tình huống mất khá nhiều thời gian lại khơng chính xác.
Ví dụ:
Tơi cũng xin lấy ví dụ về việc áp dụng 01 video clip trong ngân hàng video clip
cho hoạt động luyện tập sau khi học xong các nhóm quyền bình đẳng như sau:
Sau khi học xong bài 4: Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số lĩnh vực xã
hội (GDCD 12), trong hoạt động luyện tập, tôi đã sử dụng 01 video clip trong
ngân hàng video clip đã tạo để chiếu cho học sinh xem, sau đó học sinh sẽ thảo
luận để tìm ra những vi phạm đối với các quyền bình đẳng đã học.



25

( Ảnh cắt trong video tình huống trong ngân hàng video đã tạo)
Hoặc đối với bài 7 (Các quyền dân chủ) sau khi học xong quyền bầu cử và ứng
cử, tôi đã sử dụng 01 video clip trong ngân hàng video đã tạo để cho học sinh
xem; Yêu cầu học sinh thảo luận và chỉ ra những vi phạm trong bầu cử ở tình
huống ( Vi phạm các nguyên tắc bầu cử).


×