Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu sự phát triên của tổ chức nghiên cứu và phát triển ở một số nước chọn lọc và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 89 trang )


Bộ khoa học và công nghệ
viện chiến lợc và chính sách KH&CN






báo cáo tổng kết đề tài kh&cn cấp cơ sở

nghiên cứu sự phát triển của tổ chức
nC&PT ở một số nớc chọn lọc
và ở việt nam

chủ nhiệm đề tài: phạm quang trí














7086


13/02/2009

hà nội - 2008




PHẦN MỞ ĐẦU


1. Đặt vấn đề
Hệ thống tổ chức KH&CN nói chung và các tổ chức NC&PT nói riêng ở Việt Nam
đã được nhiều tác giả nghiên cứu (Vũ Cao Đàm, Nguyễn Văn Học 1981-1985, 1986-
1990, 1997-1998, Đặng Duy Thịnh 1999, Hoàng Trọng Cư 2004, Hoàng Văn Tuyên
2005, Hoàng Xuân Long 2005, Phạm Quang Trí 2004, Bạch Tân Sinh 2003-2004). Các
nghiên cứu này xuyên suốt từ thời cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung đến giai đoạn
quá độ chuyển sang n
ền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Ví dụ
Nguyễn Văn Học 1997-1998 về cơ chế chuyển viện nghiên cứu vào doanh nghiệp, Bạch
Tân Sinh 2003-2004 về cơ chế doanh nghiệp đối với viện NC&PT, Nguyễn Văn Học
1998-1999 về hệ thống tổ chức NC&PT trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường.
Giai đoạn 1986-1996, trong xu hướng c
ải cách cơ chế kinh tế sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, các nghiên cứu về hệ thống và mạng lưới tổ chức
KH&CN đã đặt cơ sở cho việc ban bố các chính sách quản lý theo hướng pháp trị. Chúng
ta có thể thấy Chỉ thị 199-CT ngày 25/6/1986 là kết quả của một đề tài thuộc Chương
trình 60A.01 về hoàn thiện tổ chức KH&CN. Bên cạnh đó, các chính sách được đưa ra tạ
i
Nghị định 35 HĐBT ngày 28/1/1992 được xem như là “mốc son” về tự do hóa, tự chủ

trong hoạt động KH&CN nói chung và tổ chức NC&PT nói riêng. Tiếp theo, Quyết định
324 CT ngày 11/9/1992, Quyết định 782 TTg ngày 24/10/1996 cũng đã được ban hành…
Giai đoạn 10 năm gần đây, các nghiên cứu thường tập trung vào mục tiêu làm rõ
cơ chế, chính sách cụ thể đối với từng loại hình tổ chức NC&PT. Có thể nói các nghiên
cứu trên đều có mối quan hệ biện ch
ứng với nhau với mục tiêu chung là đưa ra một bức
tranh toàn cảnh, đa chiều về đối tượng nghiên cứu- các tổ chức NC&PT. Đối tượng này
hoặc đã đưa vào phân tích trong trạng thái “tĩnh”, hoặc được xem xét trong trạng thái
“động” với các quan hệ nhân quả cũng như liên kết với hệ thống lớn –hệ thống kinh tế xã
hội. Các nghiên cứu trước đây (1986-1996) tuy đã bị ảnh hưởng bở
i cơ chế hành chính xơ
cứng song đã bước đầu đưa ra các biện pháp mềm dẻo để quản lý hành vi (hoạt động)
theo hành lang pháp lý.
Gần đây, việc cải cách cơ chế quản lý KH&CN diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi phải nhìn
nhận lại một cách hệ thống các loại hình tổ chức KH&CN nói chung và tổ chức NC&PT
nói riêng. Dưới tác động của việc chuyển đổi cơ chế quản lý KH&CN (NĐ
81/2002/NĐ-
CP ngày 17/10/2002, NĐ 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005, Quyết định của Thủ tướng
chính phủ số 171/2004/QĐ-TTg ngày 28/9/2004 về việc phê duyệt Đề án đổi mới cơ chế
quản lý khoa học và đề án đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, ), đã xuất hiện nhiều nhân tố
mới như tổ chức NC&PT tư nhân, tổ chức NC&PT nước ngoài, các tổ chức hỗ trợ ươm
tạo công nghệ, các hoạ
t động đa dạng mới bên trong tổ chức NC&PT đã đặt ra nhiều
câu hỏi nghiên cứu như: liệu tổ chức như hiện nay có phù hợp hay không? Và dưới tác
động mạnh mẽ hơn của hội nhập quốc tế, các tổ chức NC&PT Việt Nam sẽ có những thay

2
đổi gì và xu hướng như thế nào? Chính nhu cầu của thực tế là điều kiện cần thiết khách
quan để tiến hành nghiên cứu này. Như vậy, nghiên cứu so sánh sự phát triển các tổ chức
NC&PT ở một số nước và Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu tìm ra các giải pháp cho

sự phát triển các tổ chức NC&PT của Việt Nam.
Các tổ chức NC&PT của các nước như CHLB Đức, Trung Quốc sẽ được chọn là
tr
ường hợp nghiên cứu theo một quá trình, tương ứng với các điều kiện hình thành và phát
triển, bối cảnh lịch sử và cơ chế tác động, cũng như các khía cạnh khác Nói cách khác,
nghiên cứu về mạng lưới và hệ thống NC&PT sẽ hoàn toàn mang tính “động” trong
nghiên cứu này nhằm làm rõ quá trình phát triển và các bài học kinh nghiệm. Nghiên cứu
sẽ nhằm làm rõ các vấn đề sau (vấn đề nghiên cứu hay còn gọi là câu hỏi nghiên cứu):
- Sự phát triển c
ủa các tổ chức NC&PT của các nước lựa chọn qua nghiên cứu các
điều kiện hình thành và phát triển của tổ chức NC&PT; bài học cho Việt Nam khi
nghiên cứu so sánh là gì?
- Các yếu tố tác động dẫn đến sự thay đổi của các tổ chức NC&PT và xu hướng phát
triển của hệ thống tổ chức NC&PT của các nước lựa chọn, bài học cho Việt Nam
khi nghiên cứu so sánh là gì?
- Các lý thuyết và vấn đề lý luận có liên quan
đến sự hình thành và phát triển các tổ
chức NC&PT là gì ?
2. Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn khái quát về các
loại hình tổ chức NC&PT ở Việt Nam
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ của một số nước và Việt Nam, từ đó đề ra giải pháp cho Việt Nam
3.
Đối tượng nghiên cứu và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các loại hình tổ chức NC&PT
Giới hạn nghiên cứu: Nghiên cứu về các loại hình tổ chức KH&CN trên thế giới
không thể bao trùm hết các quốc gia, hơn nữa nghiên cứu đó cũng không có ích nhiều nếu
không thể vận dụng để nhận diện hệ thống đó ở Việt Nam. Hơn nữa, giới hạn về kinh phí


ng không cho phép xem xét quá nhiều quốc gia. Vì vậy, đề tài sẽ giới hạn việc hệ thống
hoá các loại hình tổ chức KH&CN ở một số nước có điều kiện chuyển đổi so sánh với
Việt Nam, mặc dù việc lựa chọn các quốc gia nào cũng là một vấn đề cần thiết bởi nó
đảm bảo tính hiệu quả của nghiên cứu. Xuất phát từ nhận định này, đề tài lựa chọn hai
nước CHLB Đức và Trung Quốc làm hai trường hợp nghiên cứu. Một nước chuyển đổi
đến một mô hình kinh tế thị trường đã định hình, trong khi một nước chuyển đổi theo mô
hình tự tìm kiếm sáng tạo nhưng có kinh nghiệm trước Việt Nam một vài thập kỷ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp nghiên cứu thông dụng trong phân tích như phương pháp

3
phân tích so sánh, mô tả, chuyên gia, chuyên khảo, phân tích lịch sử, duy vật biện
chứng…, đề tài còn sử dụng các phương pháp sau:
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn đã được tiến hành trên
thế giới và Việt Nam về loại hình tổ chức KH&CN
- Tham vấn chuyên gia trong cùng lĩnh vực (peer review). Sau khi các bản dự thảo
báo cáo hoàn thiện, sẽ cần ý kiến góp ý và phản biện của các chuyên gia cùng lĩ
nh
vực thông qua các hình thức phản biện và góp ý trong hội thảo các chuyên đề,…

4
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI CƠ QUAN NC&PT

Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài là các loại hình tổ chức NC&PT và sự
hiện diện của chúng trong mạng lưới tổ chức NC&PT nói riêng và mạng lưới tổ chức
KH&CN nói chung. Trong quá trình phân tích, đòi hỏi phải có một cách nhìn hệ thống về
đối tượng nghiên cứu kết hợp với các phương pháp nghiên cứu để làm rõ các thành phần
tạo hệ cùng các mối tương tác trong mạng lưới. Các tổ chức NC&PT sẽ được xem xét
dưới góc độ là một thực thể kinh tế-xã hội, có các mối tương tác bên trong cũng như bên

ngoài tổ chức, mang tính đa chiều. Kết quả cuối cùng nhằm vẽ lên được một bức tranh
chung về mạng lưới cơ quan NC&PT của Việt Nam cùng với các nhận dạng từng loại
hình tổ chức NC&PT, động thái phát triển và các m
ối tương tác giữa chúng
Các lý thuyết liên quan đến sự hình thành và phát triển của mạng lưới cơ quan
NC&PT được đề cập đến trong đề tài sẽ bao gồm:
- Lý thuyết về hệ thống đổi mới quốc gia, hay nói cách khác dùng cách tiếp cận hệ
thống đổi mới quốc gia để phân tích hệ thống cơ quan NC&PT của Việt Nam;
- Các lý thuyết kinh tế thể chế, các lý thuyết kinh tế về ứng x
ử của các nhóm lợi ích
như chi phí giao dịch, liên kết ngang (horizontal integration), liên kết dọc (vertical
integration) như là các công cụ quan trọng trong cách tiếp cận hệ thống đổi mới
quốc gia.
I. Hệ thống đổi mới quốc gia và áp dụng cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc
gia trong phân tích mạng lưới cơ quan NC&PT
1.1. Hình thành khái niệm về NIS và cách tiếp cận NIS
Khái niệm về hệ thống đổi mới quốc gia (NIS) và ứng dụng cách ti
ếp cận hệ thống
đối mới quốc gia trong phân tích và xây dựng phát triển mạng lưới cơ quan NC&PT gần
đây được thảo luận sôi nổi trên các diễn đàn về KH&CN. Điểm mấu chốt ở đây là xem
xét mạng lưới cơ quan NC&PT như là thành phần của NIS, trong đó nhấn mạnh đến mối
tương tác giữa mạng lưới cơ quan NC&PT với các thành phần tạo hệ khác. Như vậy, cách
ti
ếp cận NIS mở rộng hơn cách tiếp cận hệ thống truyền thống bởi các mối tương tác đa
chiều, trong khi cách tiếp cận hệ thống truyền thống xem xét các mối tương tác theo thứ
bậc, trên dưới…
Có nhiều định nghĩa về NIS và tương ứng với nó là các kiến giải về NIS khác
nhau, tùy thuộc vào bối cảnh một nền kinh tế cụ thể. Một cách chung nhất, hệ thố
ng đổi
mới quốc gia (NIS) được hiểu là tập hợp tất cả các thể chế và cơ chế (công và tư), tương

tác với nhau để kích thích và hỗ trợ cho các đổi mới sản phẩm và hệ thống ở trong nền
kinh tế quốc dân. Xem xét NIS cho thấy KH&CN, tri thức và các kỹ năng/hiểu biết để áp
dụng tri thức, cùng với những động lực chính khác cho sự thay đổi, là những động lực đổi
mới của các ngành và các quốc gia trong thời đại hiện nay. Hiệu quả của NIS chính là
thành công trong việc biến tri thức thành những đổi mới ở trong nền kinh tế. Không chỉ có

5
NC&PT, mặc dù là rất quan trọng, mà còn nhiều nhân tố khác bao gồm chất lượng/hiệu
quả của quan hệ tương tác giữa các thành phần nằm trong hệ thống cũng đóng vai trò
quan trọng cho quá trình đổi mới.
Như vậy, “đổi mới” là một yếu tố quan trọng trong NIS. Theo cách hiểu của đề tài,
đổi mới là một quá trình sáng tạo ra cái mới nhằm cải thiện những điều kiện hiện tạ
i để
đáp ứng tốt hơn nhu cầu hiện tại và hướng tới tương lai. Đề tài cũng như nhiều nghiên
cứu khác đã xem xét “Đổi mới phần nhiều mang ý nghĩa kinh tế, bao gồm đổi mới công
nghệ và đổi mới tổ chức”. Như vậy “Đổi mới” có vai trò quan trọng làm tăng nhanh năng
suất lao động, giá trị sản phẩm, tăng hiệu quả của công tác quản lý. “
Đổi mới công nghệ”
thể hiện ở việc truyền bá các nhân tố tri thức cùng với năng lực khoa học và công nghệ
cũng như sự “chuyển đổi” các nhân tố này sang các sản phẩm hoặc các quá trình sản xuất.
Trong khi đó, “đổi mới tổ chức” thể hiện ở việc làm thu gọn lại quá trình tác động của các
quyết định hành chính tới quá trình sản xuất nhằm tăng cường hiệu lự
c của quản lý và hỗ
trợ tối đa các đối tượng quản lý. Như vậy, đổi mới theo ý nghĩa trên vừa là khái niệm trừu
tượng, vừa là khái niệm hữu hình. Phát triển khái niệm của “Hệ thống đổi mới quốc gia”
theo chiều hướng này, khái niệm này được hiểu là một tập hợp các đổi mới ở các
ngành/lĩnh vực trong một quốc gia với chức năng hỗ tr
ợ/huy động có hiệu quả các nguồn
lực quốc gia để đổi mới, đặc biệt là bắt chước và tạo ra kết quả KH&CN phục vụ phát
triển kinh tế xã hội.

Để có được NIS thành công, cần 2 điều kiện cơ bản như sau:
- Các thành phần của hệ thống phải mạnh và bền vững,
- Phải có các mối tương tác mạnh mẽ và hiệu quả giữ
a các thành phần trong hệ
thống.
Nhìn nhận lại các điều kiện trên ở trường hợp Việt Nam cho thấy chúng ta chưa
tạo dựng được từng thành phần tạo hệ của NIS mạnh và bền vững, đồng thời cũng còn
nhiều điều phải bàn về hiệu quả của các mối tương tác giữa các thành phần tạo hệ của nó.
Thực tế cho thấy, chúng ta phải tiế
n hành đồng thời cả hai việc: nâng cao sức mạnh và
bền vững của các thành phần cũng như tăng cường các mối tương tác giữa chúng. Điều
này thể hiện qua nhiều nghiên cứu trước đây khi đề cập đến mạng lưới cơ quan KH&CN
và tam giác liên kết như Nguyễn Văn Học, 1997.
Xem xét cụ thể hơn cấu thành của NIS, có nhiều cách lý giải khác nhau và vẫn
chưa tìm được thống nhấ
t chung. Song nhìn chung, NIS tại các nền kinh tế điển hình cho
thấy các thành phần của nó gồm:
- Chính phủ với chức năng cấp tài chính và xây dựng thể chế trong đó có thể chế
KH&CN, thực hiện nhiều hoạt động khác nhau để vừa thúc đẩy, vừa điều chỉnh
các thay đổi công nghệ/kỹ thuật,
- Các trường đại học với chức năng nghiên cứu và phát triển, và các tổ ch
ức
NC&PT, có nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu cơ bản và phát triển các tri thức và kỹ
năng ở mức cao, nghiên cứu ứng dụng,
- Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động tạo ra sự

6
thay đổi,
- Các tổ chức công và tư có nhiệm vụ đào tạo phổ cập và dạy nghề, truyền bá kỹ
năng,

- Các quỹ vốn mạo hiểm để cấp vốn cho các hoạt động đổi mới.
Tương tác giữa các thành phần này thể hiện ở việc thực hiện chức năng của từng
thành phần và trao đổi giữa chúng với nhau trong một khuôn khổ
thể chế nhất định nhằm
hướng đến một cái đích cuối cùng là thực hiện đổi mới. Các tương tác bao gồm cả tương
tác bên trong một nhân tố, hoặc tương tác giữa các nhân tố nhằm hướng tới một mục tiêu
chung là khuyến khích “đổi mới” phát triển. Có thể thấy đổi mới bao hàm tất cả các khía
cạnh hoạt động để đưa một ý tưởng mới ra thị
trường. Công nghệ là một nhân tố rất quan
trọng, nhưng còn có những nhân tố khác, kể cả việc thiết kế và tiếp thị, cũng tham gia vào
đổi mới.
Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra sự xuất hiện của khái niệm NIS, trong đó một số
nghiên cứu đã cố gắng áp dụng cách tiếp cận này trong xây dựng chính sách KH&CN của
Việt Nam (xem Lê Đình Tiến, 2000). Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN
(NISTPAS) cũng có những công trình nghiên c
ứu và thường xuyên cử cán bộ đi dự các
cuộc Hội nghị, Hội thảo khu vực và quốc tế về NIS. Tựu trung, các nghiên cứu đều thống
nhất về sự xuất hiện của NIS bởi các học giả Freeman (1987), Dosi (1988) và được phát
triển ở những năm tiếp theo là Lundvall (1992), Nelson (1993), Edquist (1997) v.v. Các
tổ chức quốc tế như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Trung
tâm Chuyển giao Công nghệ châu á-Thái Bình Dương (APCTT) c
ũng đề ra nhiều sáng
kiến thúc đẩy các nền kinh tế thành viên áp dụng cách tiếp cận này để tăng cường đổi
mới. Ở nước ngoài, từ cuối thập kỷ 90, Trung Quốc đã có Dự án nghiên cứu NIS của
mình khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường và đề ra quan
điểm “NIS mang các đặc trưng Trung Quốc”. Thái Lan, Philippin, Inđônêxia trong các kế
hoạch KH&CN mới đây cũng đề
u đề ra các giải pháp để hoàn thiện và phát huy hiệu quả
của NIS.
Với tiếp cận NIS, hoạt động đổi mới thường được phân tích theo nghĩa rộng. Nó

không chỉ chú trọng đơn thuần vào số lượng các đổi mới sản phẩm/quy trình được thực
hiện thành công ở trong một quốc gia, mà còn bao hàm các nỗ lực NC&PT của các doanh
nghiệp và viện nghiên cứu công, cũng như các nhân tố có vai trò quyết định đến đổi mớ
i,
ví dụ như các quá trình học tập, các cơ chế khuyến khích, nguồn nhân lực có kỹ năng. Do
vậy, cách tiếp cận hệ thống đối với đổi mới là dựa trên quan điểm coi các quá trình đổi
mới là mang tính đa ngành, phi tuyến, trong đó mối quan tâm hàng đầu để xem xét là mối
tương tác ở cấp tổ chức, cũng như tác động qua lại giữa các tổ chức và các thể chế.
Một khía cạ
nh quan trọng nữa là bên cạnh sự phổ cập nhanh chóng của cách tiếp
cận NIS, các mối quan tâm nghiên cứu để ứng dụng NIS đã được mở rộng và đa dạng
hơn, tập trung ở hai xu hướng. Thứ nhất, các công trình nghiên cứu theo xu hướng nghiên
cứu các mô thức đổi mới đặc thù ở mỗi quốc gia thường được đặt trong bối cảnh lịch sử,
chính trị và văn hoá để phát hiện ra những y
ếu tố không đồng nhất ở các hệ thống. Thứ
hai, chú trọng chuyển dần sang việc so sánh hiệu quả của các hệ thống chứ không quan
tâm nhiều đến những điểm khác biệt về hệ thống. Hiện nay, các nghiên cứu có xu hướng

7
hội tụ 2 dòng nghiên cứu tương đối mâu thuẫn nói trên. Một mặt, đó là quan niệm mang
tính hệ thống về quá trình đổi mới, trong đó chú trọng đến những cơ cấu và phần tử đặc
thù của từng quốc gia. Mặt khác là sự so sánh các hệ thống, trong đó có phần khái quát
hoá những điểm không đồng nhất về hệ thống để đưa ra được những ý kiến tư vấ
n rõ ràng
cho các nhà hoạch định chính sách quốc gia. Xu hướng này là một căn cứ quan trọng để
tiến hành nghiên cứu của đề tài, tức là nghiên cứu sự hình thành và phát triển mạng lưới
cơ quan NC&PT của Trung Quốc, CHLB Đức theo bối cảnh lịch sử, chính trị và văn hoá
trong nghiên cứu so sánh với Việt Nam để có những bài học cần thiết.
Đặt mạng lưới cơ quan NC&PT như là một trong những thành phần hữu hình,
quan trọng củ

a NIS, với các chức năng đặc trưng trong thực hiện chiến lược phát triển
“thị trường kéo-market pull”, “khoa học đẩy-science push”, với trung tâm của NIS là
doanh nghiệp, thực chất là xem xét cơ chế phản hồi phức tạp và những quan hệ qua lại
liên quan đến NC&PT, học hỏi, sản xuất, chính sách và nhu cầu. Như vậy, yếu tố thể chế
là rất quan trọng trong cách tiếp cận NIS.
1.2. Thể chế và vai trò của nó trong hệ
thống đổi mới
Trong một số thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế học ngày càng chú ý đến vai trò của
“các thể chế” trong khi thực hiện nghiên cứu và thay đổi các hệ thống kinh tế. “Các thể
chế” cũng đã trở thành ngày một quan trọng trong lý thuyết đổi mới. Thêm nữa, vai trò
của các thể chế trong quá trình đổi mới được xem như yếu tố tác động đến chất lượng củ
a
đổi mới, bao gồm cả việc xem xét cản trở thể chế đối với đổi mới cũng như ủng hộ của
thể chế đối với đổi mới.
“Thể chế” được hiểu chung là tập hợp các quy tắc, luật chơi áp dụng trong một
không gian và thời gian nhất định. Nhìn nhận khái niệm “thể chế” trong một bối cảnh
kinh tế xã hội nhất
định ta có thể thấy rằng có hai dạng chủ yếu: một là “thể chế” chính
thức – như được công nhận và thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước qua hệ thống
văn bản mang tính pháp lý đã ban hành và hai là dạng “thể chế” không chính thức là
những thừa nhận rộng rãi mang tính công nhận trong xã hội. Nói cách khác, hai dạng của
“thể chế” là thể chế chuyên ngành và thể chế dân sự. Người ta luôn luôn có xu hướng so
sánh giữa hai dạ
ng thể chế này để điều chỉnh vai trò của cơ quan quản lý nhà nước làm
sao cho khuôn khổ của hoạt động chuyên ngành gần hơn với khuôn khổ của hoạt động
dân sự. Ngoài ra, còn nhiều cách phân loại thể chế như thể chế cứng và thể chế mềm, thể
chế cơ bản và thể chế ủng hộ.v.v
Thể chế chính thức và không chính thức
Thể chế “chính th
ức” thể hiện ở các văn bản luật, quy định về patent, các quy định

của chính phủ về hoạt động ngân hàng, các thể chế chính thức cho các cán bộ của hệ
thống dịch vụ công nghệ, các quy định và các phương tiện cho việc lắp đặt thiết bị điện
tử,…). Trong khi đó, thể chế “không chính thức” được hiểu là các lề thói, phong tục, tập
quán, cách thức làm việc, cách th
ức hợp tác, tục lệ, .v.v Những phân biệt này là rất quan
trọng bởi vì sự tương xứng giữa các thể chế chính thức và không chính thức có thể không
đồng nhất giữa các nước, giữa các lĩnh vực, giữa các doanh nghiệp .v.v Các thể chế
chính thức là “hữu hình” hơn các thể chế không chính thức; các thể chế chính thức được

8
hệ thống hoá nhưng các thể chế không chính thức thường phải được trực tiếp theo dõi
thông qua sự cư xử của thành phần trong hệ thống là cá nhân/tổ chức.
Các thể chế cơ bản và các thể chế hỗ trợ
Các thể chế cơ bản như các quyền cơ bản quy định trong hiến pháp hoặc các
nguyên lý làm nền tảng như quyền sở hữu, quyền sử d
ụng, quyền thừa kế, quyền chuyển
nhượng, nguyên lý hợp tác và giải quyết xung đột. Trong khi đó, “thể chế ủng hộ” cho
rằng quy định sâu hơn các khía cạnh của các nguyên lý cơ bản, ví dụ, những hạn chế về
sử dụng sở hữu tư nhân trong các tình huống đặc biệt và các nguyên lý để quy định các
công việc ngoài giờ trong một số ngành đặc biệt.
Các thể chế cứng và mềm
Thể chế còn thể hiện dưới dạng thể chế cứng và thể chế mềm. Thể chế “cứng” thể
hiện dưới dạng các liên kết cứng và các quy định khống chế, trong khi thể chế “mềm”
được nhận thức như các nguyên lý chỉ đường và những đề xuất hơn là mệnh lệnh mà phải
chấp hành. Bất kỳ đâu một thể chế là m
ềm hoặc cứng có thể phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Phép tắc ứng xử có thể là rất quan trọng và cần được tôn trọng trong một số trường hợp
nghiêm túc, trong khi có thể “du di” trong cuộc sống đời thường. Các quyền sở hữu có thể
kiểm soát chặt chẽ trong tình trạng khan hiếm song lại được cho phép “thoải mái” trong
tình trạng thừa thãi.

Với ý nghĩa phân tích, yếu tố thể chế được xem xét trong quá trình đổi m
ới. Yếu tố
thể chế có thể là sức đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới, song cũng có thể là ràng
buộc và sức cản đối với đổi mới. Trên thực tế, xem xét yếu tố thể chế KH&CN của Việt
Nam chính là xem xét tương tác với 2 điều kiện cơ bản của NIS, như đề cập ở trên là sức
mạnh, sự bề
n vững của từng thành phần và tương tác giữa các thành phần.
1.3. Thể chế trong cách tiếp cận hệ thống đổi mới
Carlsson và đồng nghiệp chia “cơ sở hạ tầng thể chế” liên quan đến mỗi “hệ thống
công nghệ” thành 4 phần: a) nghiên cứu và phát triển công nghiệp; b) cơ sở hạ tầng học
thuật; c) các thể chế khác; và d) chính sách nhà nước.
Carlsson và Stankiewicz viết: “Các thể chế là các cấu trúc quy chuẩn thúc đẩ
y các
mô hình phối hợp hoạt động xã hội bền vững, là giải pháp (quyết định) cần thiết để thực
hiện các chức năng xã hội chủ chốt… Bởi vậy, cấu trúc của hệ thống mà chúng tôi muốn
nói tới là tổng hòa các thể chế (chế độ và tổ chức) trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ, khuyến
khích, chế định quá trình đổi mới và truyền bá công nghệ”. Khái ni
ệm này khá phức tạp
và có vẻ hơi hỗn tạp. Nó gồm cả: “các cấu trúc có tính quy chuẩn”, “cách thức” cũng như
“các tổ chức” khác nhau.
Lundvall cho rằng: “các thể chế cung cấp các công cụ và tổ hợp các chỉ dẫn hoạt
động” và các thể chế như vậy có thể là lộ trình, hướng dẫn hoạt động hàng ngày trong sản
xuất, phân bổ và tiêu dùng, và chúng được xem như là kim chỉ nam cho đổi mớ
i.
Như vậy, thuật ngữ “các thể chế” được sử dụng trong cả hai nghĩa chính. Một là
“những thứ mẫu hình cư xử” giống như cách thức, nguyên tắc và luật (Lundvall), và nghĩa

9
khác “các cấu trúc chính thức với mục đích rõ ràng” (Nelson và Rosenberg). Điều này
cũng tương hợp với các phân loại về thể chế như đã đề cập ở trên.

1.4. Các chức năng của thể chế trong quan hệ với các đổi mới
3 chức năng cơ bản của thể thế rất quan trọng đến quá trình đổi mới:
- Giảm tính không chắc chắn khi cung cấp thông tin;
- Quy định những xung đột và hợp tác; và
- Cung cấp những khích lệ.
Những thể chế cung cấp thông tin và giảm tính không chắc chắn
Trong một không gian và thời gian cụ thể, các thể chế có thể giảm tính không chắc
chắn về sự đối xử của những người cung cấp thông tin hoặc giảm thông tin cần thiết. Ví
dụ, Luật patent bao gồm các quy định chính xác về quyền sở hữu trí tuệ và quyề
n sử
dụng, giảm tính không chắc chắn của giao dịch. Nếu không như vậy, sẽ không khuyến
khích hoạt động KH&CN sáng tạo trước các rủi ro về sở hữu trí tuệ cũng như xung đột về
lợi ích giữa các đối tác trong liên kết.
Thêm nhiều ví dụ có thể đề cập. Tuy nhiên, tính không chắc chắn chính xác là một
sự tập hợp không thể tránh khỏi của các hoạt động đổi mới-hầ
u hết đưa ra các dự án đổi
mới là kết thúc thậm chí trước khi khảo nghiệm thị trường, và giữa những điều đó nghiên
cứu thị trường hầu như không làm dịch vụ kiểm tra. Do đó đo lường, thực tế, các mối
quan hệ ổn định giữa các bên, là cần thiết để cung cấp thông tin.
Vai trò của việc cung cấp thông tin chính xác không chỉ giảm tính không chắc chắn
của liên kế
t mà với mức độ nào đó, nó còn cho phép hệ thống NC&PT tiết kiệm nguồn
lực, tránh lãng phí do trùng lắp, thúc đẩy hợp tác giữa các đối tác và quan trọng hơn là
cân đối sự phát triển của hệ thống. Một ví dụ có thể thấy là có thể do thiếu cơ chế chia sẻ
thông tin giữa các vùng/địa phương, nhiều đề tài nghiên cứu trùng lắp, nhiều thất bại
không được chia sẻ, phát triển nhiều tổ chức có cùng chung ch
ức năng, trong khi không
tận dụng được sức mạnh của số đông…
Các thể chế quy định các xung đột và sự hợp tác
Đây là một chức năng cơ bản. Không có những thể chế cho quy định xung đột, sự

tồn tại của xã hội sẽ là rủi ro, sự hợp tác bền chặt và đổi mới kinh tế sẽ gặp khó khăn.
Sự xung đột tiềm tàng là một vấ
n đề hết sức nghiêm trọng đối với các hoạt động
đổi mới. Ví dụ, hợp tác giữa các đối tác sản xuất/nghiên cứu có thể dễ dàng bị phá huỷ
bởi các xung đột và sự không tin tưởng lẫn nhau. Thể chế có vai trò trong việc xác định
các tiêu chí hợp tác được các bên thừa nhận.
Các thể chế cung cấp các khuyến khích
Thể chế có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đổi mới. Có nhiều dạng
khuyế
n khích, như khuyến khích cam kết học tập và tham gia vào các quá trình đổi mới,
khuyến khích về chế độ lương bổng, trợ cấp, thuế, quy định thừa kế, phân chia lợi nhuận
đều ảnh hưởng đến quá trình đổi mới.

10
Trong không gian và thời gian cụ thể, các thể chế khuyến khích phải bắt kịp với
nhu cầu phát triển của xã hội, đặc biệt là hình thành cộng đồng NC&PT phù hợp với trình
độ phát triển chung của nền kinh tế. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, thể chế khuyến khích có
tác dụng định hướng cho sự phát triển lành mạnh của các thành phần tạo hệ, cũng như mở
rộng tổ chứ
c.
1.5. Các thể chế gây nên sức cản cho đổi mới
Chúng ta đều biết rằng quá trình đổi mới là không chắc chắn và nhiều xung đột
tiềm năng. Từ đó đặt ra sự cần thiết phải điều chỉnh bằng thể chế và để nó trở thành một
hoạt động ngày một quan trọng hơn. Các thể chế thường hướng tới sự ổn định, thậm chí
nhiề
u khi sự ổn định đó tạo nên sự cứng nhắc bất khả kháng cho đổi mới.
Trên thực tế, sự thay đổi thể chế thường chậm và kéo dài so với sự thay đổi công
nghệ. Điều này có thể tạo ra những vấn đề không tương xứng cản trở đối với các đổi mới
tiềm năng. OECD đã sử dụng khái niệm “xơ cứng thể chế
” để nói lên điều này. Nó

thường xảy ra ở các thể chế chính thức. Kết quả phân tích cho thấy năng lực yếu của đội
ngũ quản lý, tính ỳ của hệ thống quản lý cũng như các ràng buộc khác nhau giữa các văn
bản pháp lý, thiếu chiến lược phát triển lâu dài, thiếu năng lực nhìn trước công nghệ … là
nguyên nhân chính của sự “xơ cứng thể chế”.
1.6. Các lý thuyết về kinh tế
thể chế mới
Thiết lập mối quan hệ kinh tế thông qua hình thức hợp đồng vừa tạo ra các thể chế,
vừa chịu ảnh hưởng bởi nhiều thể chế hiện có. Các thể chế này là sản phẩm của một chuỗi
những đổi mới về tổ chức cũng như kết quả của hoạt động quản lý kinh tế. Chúng bao
gồm các thỏa thu
ận nhằm đảm bảo quyền lợi kinh tế và nghĩa vụ dân sự của các bên tham
gia, hay nói các khác là đảm bảo giá trị của bản cam kết hợp tác. Bản cam kết hợp tác là
minh chứng cho những thể chế đã được thừa nhận giữa các bên tham gia. Tuy nhiên, để
đạt đến được một bản cam kết và cũng như thực thi bản cam kết là cả một quá trình lâu
dài, tốn kém cả về thời gian cũng nh
ư chi phí vật chất. Như vậy, nghiên cứu về các hành
vi kinh tế của các đối tác tham gia vào quá trình hình thành và thực thi cam kết hợp tác
dưới hình thức hợp đồng đã cho ra đời nhiều lý thuyết kinh tế trong Kinh tế học mới về
thể chế, bao gồm cả kinh tế học về chi phí giao dịch và kinh tế học về liên kết ngang, liên
kết dọc.
1.6.1. Chi phí giao dịch
Kenneth Arrow đã định nghĩa các chi phí giao dịch là “các chi phí vận hành hệ
thống kinh tế”. Cần phải phân biệt các chi phí đó với chi phí sản xuất, vốn là loại chi phí
mà phân tích tân cổ điển luôn luôn quan tâm đến. Chi phí giao dịch là yếu tố kinh tế
tương đương với sức ma sát trong các hệ thống vật lý. Điều không có gì đáng ngạc nhiên
là việc luôn luôn tồn tại lực ma sát trong các hệ thống vật lý, cũng như vậy, chi phí giao
dịch luôn luôn tồn tại trong các quan hệ kinh tế. Làm rõ hơn bối cảnh phát sinh các chi
phí giao dịch còn cho thấy, chi phí giao dịch xuất hiện không những trong các quan hệ
kinh tế chính thức, các thể chế chính thức… mà còn trong các quan hệ ngầm ngay giữa
các nhóm lợi ích kinh tế (các thỏa thuận độc quyền), giữa giới doanh nghiệp và quan chức


11
chính quyền (quan hệ móc nối tiêu cực)… Chi phí giao dịch không chỉ hình thành khi
hình thành giao dịch mà còn tồn tại trong quá trình duy trì giao dịch đó. Như vậy có thể
nói đề cập đến kinh tế học về chi phí giao dịch nói chung là một lĩnh vực tương đối rộng.
Hướng vào một lĩnh vực nhỏ hơn là ứng dụng lý thuyết về chi phí giao dịch trong nghiên
cứu vận động của các tổ chức NC&PT và các mối quan hệ KH&CN, các học gi
ả như
Douglass C.North (1998)
1
, Williamson (1975), Lundvall (1992)… đã đưa ra khái niệm
chi phí giao dịch. Trong các hợp đồng chuyển giao KH&CN, chi phí giao dịch phát sinh
theo quan điểm “quá trình tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa những người tạo ra và sử
dụng tri thức thường rất tốn kém”.
Về lý thuyết, thực chất “chi phí” sẽ xảy ra khi thị trường xuất hiện nhu cầu “mua”
và “bán”. Đó chính là quy luật đơn giản của thị trường, để mua hàng mà mình cần thì ta
phải trả cho người có hàng hoá
đó một khoản tiền và người ta gọi đó là kinh doanh. Trong
lĩnh vực KH&CN cũng thế. Điều khác biệt ở đây là sản phẩm tạo ra mang nhiều hình thái
khác nhau, đó có thể là một quyển sách, một quy luật, một định luật hoặc một kết quả khi
đem ra ứng dụng vào trong đời sống thì sẽ đem lại lợi nhuận cho người sử dụng, do đó chi
phí của nó cũng mang m
ột ý nghĩa khác. Chi phí trong hình thức này có thể không diễn ra
trực tiếp như khi mua bán một mặt hàng nào đó trên thị trường mà có thể diễn ra trong
một thời gian dài, với chất xám và công sức mà các nhà khoa học cũng như các nhà sản
xuất bỏ ra và kết quả thu được có tính mới về khoa học, hoặc một sản phẩm mới với
nhiều tính năng vượt trội so với lần đầu tiên xuất hiện trên thị trườ
ng
Thành tựu khoa học công nghệ, với tư cách là hàng hoá, có được thu nhập hợp lý
trong lưu thông để bù đắp cho sức lao động bỏ ra trong quá trình ứng dụng công nghệ,

đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong tất cả mọi lĩnh vực về đời sống cho những người
làm công tác khoa học. Tư tưởng kinh doanh của công tác ứng dụng công nghệ là tư
tưởng ảnh hưởng trực tiếp t
ới quyết sách xác định mục tiêu và lựa chọn phương án kinh
doanh. Từ đó cũng ảnh hưởng tới việc thành bại của công tác ứng dụng công nghệ, thành
tích thu được nhiều hay ít và phạm vi ứng dụng lớn hay nhỏ, thậm chí, ảnh hưởng tới sự
sinh tồn và phát triển của cơ cấu ứng dụng công nghệ. Tư tưởng kinh doanh của việc ứng
dụng công nghệ phải phù hợp vớ
i yêu cầu của nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch của chủ
nghĩa xã hội
2
.
Các nguồn lực của nền kinh tế được chi cho việc giao dịch là một lượng rất lớn và
ngày càng tăng. Vì vậy các chi phí giao dịch cũng được đưa vào trong chi phí sản xuất.
Chi phí giao dịch càng tăng cao trong trường hợp khi các nhà nghiên cứu khoa học ký kết
các hợp đồng với các doanh nghiệp, đơn vị đặt hàng nhưng do điều kiện tiến hành chuyển
giao có nhiều bất lợi không thoả mãn được điều kiệ
n chất xám mà các nhà khoa học đã bỏ
ra để tạo nên hàng hoá công nghệ.
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nghiên cứu hay sản xuất nào đều phải xảy ra
quá trình thu thập và tìm hiểu thông tin, trong đó bao gồm cả thông tin về nhu cầu của thị
trường đối với công nghệ mới, sản phẩm mới… Nắm bắt nhu cầu này, thỏa mãn nhu cầu
này chính là lý do dẫn đến ý tưởng lựa chọn công nghệ ứ
ng dụng và triển khai ứng dụng


1
Giáo sư kinh tế học và sử học tại Đại học tổng hợp St. Louis
2
Sách „Quản lý khoa học và công nghệ“, trang 299, Trường nghiệp vụ quản lý


12
công nghệ. Tuy nhiên, quá trình thu thập và xử lý thông tin đều rất tốn phí. Việc tốn kém
trong việc thu thập thông tin là chìa khoá dẫn đến các chi phí giao dịch, bao gồm các chi
phí đánh giá các thuộc tính có giá trị của những thứ được trao đổi. Hơn nữa, chi phí giao
dịch cũng bao gồm các chi phí bảo vệ các quyền và chi phí kiểm soát, chi phí cưỡng chế
thi hành các thoả thuận.
Bản chất của chi phí giao dịch là chi phí để dẫn đến sự mua bán trao đổi thông qua
nhiều hình thức khác nhau. Do
đó khi xảy ra chi phí giao dịch thì cũng có thể coi là một
quá trình đem lại kinh nghiệm và lợi ích cho những bên tham gia. Ta cũng có thể hiểu
theo nghĩa là khi gắn kết nghiên cứu với sản xuất thì tất yếu sẽ dẫn đến những khoản chi
phí cho giao dịch của quá trình gắn kết này. Bởi vì sự gắn kết này phải dựa trên cơ sở là
động lực phát triển của cả hai phía chứ không làm triệt tiêu lẫn nhau, nên tiến hành tr
ả chi
phí một cách thoả đáng sẽ dẫn đến đạt được kết quả cao hơn.
Nghiên cứu cụ thể hơn trong chuyển giao công nghệ cho thấy khi cả hai bên
chuyển giao và bên nhận chuyển giao có được những thoả thuận nhất định và đều có lợi
nhuận thì giao dịch sẽ thuận lợi trong chuyển giao công nghệ. Khi đó, chi phí giao dịch có
vai trò tích cực thúc đẩy quá trình và tăng cường liên kết nghiên cứu – sản xuất. Ng
ược
lại, chi phí giao dịch sẽ trở thành một vấn đề khó có thể vượt qua để hình thành liên kết.
Giao dịch trở nên thuận lợi và chi phí giao dịch có vai trò tích cực khi:
- Bộ phận sản xuất có khả năng phù hợp với đặc điểm “phát triển với tốc độ cao”
của việc phát triển công nghệ hiện nay. Như vậy, bộ phận sản xuất cần phải xây
dựng m
ột cơ cấu ứng dụng công nghệ linh hoạt, nhanh chóng thu lại được các
thành quả ứng dụng công nghệ một cách tốt nhất và nhanh nhất. Các sản phẩm
công nghệ gồm những đặc điểm điển hình như: thành tựu công nghệ mới, tốc độ
cải tiến công nghệ cao, chu kỳ tuổi thọ sản phẩm ngắn, cạnh tranh thị trường khắc

nghiệt, v.v
- Ho
ạt động phát triển và ứng dụng công nghệ phải phù hợp với điều kiện thực tế
của từng địa phương, từng đơn vị, từng khu vực cụ thể. Sự phù hợp không chỉ ở
bên nhận chuyển giao mà còn ở bên chuyển giao. Đối với bên nhận chuyển giao,
sự phù hợp thể hiện ở chỗ vấn đề cần giải quyết bằng KH&CN phát sinh t
ừ yêu
cầu khách quan của việc xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với mục
tiêu phát triển của đối tượng. Đối với bên chuyển giao, sự phù hợp thể hiện ở năng
lực trình độ chuyên ngành, phù hợp với mục tiêu phát triển của đơn vị và tương
xứng với nhiệm vụ mà đơn vị đảm nhiệm.
- Một môi trường thể chế đi
ều hòa các mối quan hệ kinh tế là rất quan trọng cho
giao dịch nếu xảy ra. Hay nói khác, lợi ích của hai phía đều được đảm bảo trong
một môi trường công bằng và minh bạch. Để như vậy, ngoài việc các bên đối tác
tham gia phải vận dụng chính sách đúng đắn và lựa chọn phương pháp tối ưu để
phân tích về lợi nhuận thu được, đánh giá về kết quả đạt được, hướng tiến hành
triển khai công vi
ệc, quá trình tham gia giám sát khi triển khai công việc… cần có
những thể chế quy định hàng lang pháp lý cho các hành vi trên.
Ngược lại, giao dịch sẽ không thuận lợi và chi phí giao dịch sẽ là một cản trở trong

13
các trường hợp:
- Không có sự thống nhất giữa bên “mua” và bên “bán” về phân chia lợi nhuận. Nhu
cầu của các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về điều kiện chi
phí thu hồi, cơ sở vật chất v.v không được đáp ứng đúng khi tiến hành chuyển
giao. Nhu cầu của bên nhận chuyển giao không được đáp ứng đầy đủ, trong khi
còn nhiều sự lựa chọn cung cấ
p khác.

- Tâm lý ngại rủi ro của các doanh nghiệp khi tiến hành thảo luận ký kết các hợp
đồng triển khai công nghệ mới khiến các giao dịch hoặc bế tắc hoặc hoàn toàn thất
bại.
- Một số nhà khoa học nhìn nhận sai về vấn đề làm khoa học, coi sản phẩm nghiên
cứu của mình như một loại hàng hoá thông thường trao đổi mua bán trên thị
trường, nên yêu cầu những điều khoản mà nhữ
ng đơn vị sản xuất không thể đáp
ứng được.
- Sự phối hợp không chặt chẽ giữa bên nhận chuyển giao (doanh nghiệp hoặc địa
phương), thiếu những hỗ trợ cần thiết để các nhà khoa học thực hiện chuyển giao.
Ví dụ như về cơ sở pháp lý của hoạt động sản xuất, hoạt động chuyển giao, điều
kiện trang thi
ết bị vật chất yếu, nhân lực trình độ thấp, thiếu vắng cơ chế khuyến
khích thuế, tài chính
- Cơ sở pháp lý cho hoạt động chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học vào sản
xuất chưa được giới quản lý hình thành và khẳng định. Khi đó, hình thức chuyển
giao sẽ diễn ra không có tính định hướng, không có căn cứ để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch, d
ễ xảy ra tranh chấp giữa hai bên mua và
bán
Như vậy, chi phí giao dịch trong một quan hệ, nhất là quan hệ hình thành giữa bên
chuyển giao và bên nhận chuyển giao kết quả KH&CN luôn luôn tồn tại và đồng thời
mang hai ý nghĩa: là yếu tố tích cực thúc đẩy quá trình chuyển giao và cũng là yếu tố cản
trở quá trình chuyển giao. Vận dụng lý thuyết về chi phí giao dịch cũng là một cách để có
thể giải thích bản chất của quan hệ trong liên kế
t nghiên cứu – sản xuất, cũng như các
kịch bản phát triển của liên kết đó. Như vậy, bài toán thiết lập mối quan hệ liên kết giữa
nghiên cứu và sản xuất sẽ được xem xét dưới khía cạnh đơn giản hơn với việc nhắm tới
giảm các khoản chi thuộc chi phí giao dịch của mối liên kết, hoặc hướng các chi phí này
phát triển theo các chiều hướng tích cực hơn.

Trên thực tế, đã có nhiều loại hình tổ chức NC&PT thuộc phạm vi điều chỉnh của
chính sách liên kết nghiên cứu-sản xuất này. Đã có những mô hình liên kết cứng như đưa
tổ chức NC&PT trực thuộc doanh nghiệp, hoặc thành lập doanh nghiệp bên trong tổ chức
NC&PT, hoặc liên kết mềm bằng việc hình thành các thể chế quy định hành vi ứng dụng
sản phẩm nghiên cứu vào thực tiễn s
ản xuất. Trong hình thức “liên kết cứng”, bằng việc
hành chính hóa các mối quan hệ, chi phí giao dịch được giảm xuống. Trong một số trường
hợp, sự giảm này mang lại ý nghĩa tích cực song trong nhiều trường hợp lại mang ý nghĩa
tiêu cực không thúc đẩy được mối liên kết. Điều này giải thích tại sao một số thuộc mô
hình “liên kết cứng” như vậy lại thành công, trong khi một số khác lạ
i thất bại. Trong hình

14
thức “liên kết mềm”, sự hợp tác liên kết giữa nghiên cứu và sản xuất được một số thể chế
ủng hộ khuyến khích, đã có nhiều tác động tích cực. Tuy nhiên, hệ thống chính sách, thể
chế KH&CN vẫn còn thiếu đồng bộ, có lúc thụ động trước sự phát triển đa dạng của thực
tế, nên chi phí giao dịch phát triển ở mức khó kiểm soát. Hoặc chi phí giao dịch giữa
doanh nghiệp và khối nghiên cứu trong nước trong nhiều trường hợp còn lớn hơn cả chi
phí tìm kiếm đối tác từ nước ngoài, vì vậy đã ảnh hưởng tiêu cực đến mối liên kết sản
xuất – nghiên cứu.
Một ví dụ điển hình nhất cho nghiên cứu lý thuyết về chi phí giao dịch là xem xét
sự phát triển của loại hình tổ chức NC&PT có chứa hoạt động tự tổ chức sản xuất, kinh
doanh sản phẩm NC&PT do họ tạo ra. Lý thuyết về chi phí giao dịch cho thấy khi các nhà
nghiên cứu khi đã nắm trong tay thành tựu nghiên cứu của mình thì thường có xu hướng
muốn tự mình đứng ra tổ chức sản xuất hơn là chuyển giao cho các đối tác khác. Cũng
cần phải nói thêm rằng, hạn chế của thị trường công nghệ với tư cách là môi trường thực
hiện giao dịch giữa nghiên cứu và sản xuất cũng là yếu t
ố thúc đẩy phương thức tổ chức
SX-KD bên trong các viện NC&PT. Một mặt, thị trường công nghệ chưa phát triển hạn
chế khả năng chuyển giao kết quả nghiên cứu của viện NC&PT ra bên ngoài, nhưng mặt

khác, chính điều kiện này lại thúc đẩy hình thức sản xuất kinh doanh bên trong viện
NC&PT phát triển. Năng lực đáp ứng của các cơ sở R&D trong nước đối với yêu cầu từ
s
ản xuất được đánh giá trên các mặt cung cấp quy trình công nghệ, hỗ trợ cải tiến sản
phẩm và công nghệ, tư vấn đánh giá và mua bán công nghệ. Trong khi đó, thị trường công
nghệ ở Việt Nam còn sơ khai, hầu như thiếu vắng nhiều yếu tố hợp thành của một thị
trường hoàn chỉnh, đặc biệt là các tổ chức trung gian, môi giới, cung cấp thông tin về
công nghệ, tư vấn mua bán công nghệ
, kinh nghiệm trong việc tiếp thị, các kỹ thuật
thương thuyết, đàm phán
Như vậy, việc xây dựng những thể chế phù hợp với sự vận động của KH&CN Việt
Nam, sự vận động của các loại hình tổ chức NC&PT Việt Nam nhằm giải quyết những
khó khăn như đã nêu ra ở trên là cần thiết.
1.6.2. Liên kết ngang và liên kết dọc
Giải quyết vấn
đề ép giá trong quan hệ hợp đồng (holdup problem) đã được nhiều
học giả kinh tế học quan tâm. Nhiều lý thuyết kinh tế học đã được phát triển từ đây, trong
đó có lý thuyết kinh tế về liên kết ngang (vertical integration) và lý thuyết kinh tế về liên
kết dọc (horizontal integration).
Liên kết dọc là một tình huống trong đó các hãng/doanh nghiệp/tổ chức SX-KD
luôn luôn mở rộng hoạt động của mình gắn với một quá trình liên tục chuyển hóa nguyên
li
ệu thành sản phẩm cuối cùng. Các công ty trong liên kết dọc có quan hệ với nhau bởi
các khâu trong quy trình công nghệ thống nhất. Các công ty này liên kết lại với nhau, nói
khác đi là liên kết các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh để hình
thành một quá trình sản xuất hoàn chỉnh từ nguyên liệu đến sản phẩm thương mại cuối
cùng. Hình thức mở rộng này của hãng/doanh nghiệp/tổ chức SX-KD có thể bằng việc (1)
tự mình mở rộng các khâu s
ản xuất trong một chuỗi sản phẩm, hoặc (2) liên kết với các
đối tác khác trong chuỗi sản phẩm đó theo xu hướng sáp nhập các tổ chức này lại với

nhau. Bản chất của việc bành trướng chu trình sản xuất hoặc sáp nhập các tổ chức trong

15
cùng chuỗi sản phẩm là nhằm giảm chi phí giao dịch, giải quyết vấn đề ép giá. Minh họa
thực tiễn của vấn đề ép giá qua ví dụ của McMillan (Đại học Stanford) đưa ra từ những
năm 80. (nguồn của ví dụ minh họa: chương trình đào tạo Fulbright, 2005)
Giả sử công ty GM, một nhà sản xuất ôtô, đàm phán với Công ty Fisher trong việc
cung cấp động cơ cho xe ôtô của mình. Để làm được việc này, Fisher phải th
ực hiện một
số đầu tư đặc biệt như trang bị lại máy móc, đào tạo lại tay nghề cho công nhân. Giá cả
hợp đồng được thỏa thuận ở mức cao, đủ để bù cho những phí tổn đầu tư do Fisher bỏ ra.
Liệu đây có phải là một hợp đồng có lợi cho Fisher hay không?
Để trả lời câu hỏi này, Fisher phải đặt nó vào giai đoạn cuối của quan hệ hợp
đồng
và suy luận ngược trở lại về thời điểm ban đầu. Giả sử, Fisher lập luận rằng hợp đồng đã
ký và mình đã bỏ vốn vào đầu tư đặc biệt. Khi đó, mình sẽ ở vào một vị thế hết sức bất
lợi.
Vấn đề là ở chỗ, GM biết rằng máy móc của Fisher đã được chuyên dụng hoá,
không thể dùng để sản xu
ất bất cứ cái gì khác, ngoài sản phẩm phục vụ cho GM. Khi đó,
GM có thể ở vào vị thế tốt để đòi điều đình lại giá theo hướng thấp xuống, đủ để trả cho
chi phí vận hành. Nhưng không nhất thiết là đủ cao để bù cho phí tổn đầu tư đặc biệt mà
Fisher đã bỏ ra.
Tuy nhiên, chính vì lợi ích của mình mà Fisher sẽ buộc phải chấp nhận mức giá
thấp, hơn là
để máy móc và công nhân nằm chờ. Dự đoán trước kết cục như vậy, Fisher
có thể sẽ không ký thoả thuận, mà nếu như thực hiện được, nó có thể đem lại ích lợi lớn
cho cả GM và Fisher.
Dĩ nhiên, Fisher có thể ký một hợp đồng khác, theo đó, GM không được đàm phán
lại về giá. Tuy nhiên, hợp đồng không bao giờ là đầy đủ. Nó không thể xác định một cách

rõ ràng ai sẽ có quyền gì trong mọi tình huống có thể x
ẩy ra trong tương lai. Và GM có
thể lợi dụng những tình huống như vậy như một cái cớ cho việc đàm phán lại về giá.
Chẳng hạn, nếu hợp đồng không ghi rõ ai sẽ có trách nhiệm tài chính cho việc
thiết kế lại động cơ để đối phó với sự gia tăng không dự đoán trước của giá dầu, thì GM
có thể buộc Fisher phải chấp nhận giá bán thấp xuống như một cách để
chia sẻ rủi ro.
Có hai kết luận quan trọng nêu ra ở đây. Thứ nhất, tính không đầy đủ của hợp
đồng mở ra khả năng bị ép giá trong kinh doanh (holdup problem). Thứ hai, do các bên
sợ bị đẩy vào thế yếu trong cuộc điều đình lại về giá cả, họ thường có xu hướng đầu tư
thấp vào quan hệ hợp đồng. Họ sợ bị bóc lột.
Khác với liên kết dọc, liên kết ngang là tình huống trong đó các công ty cùng
ngành nghề, cùng lĩnh vực kinh doanh, cùng chức năng trong một khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh… liên kết lại với nhau. Tất nhiên, sự liên kết này nhất thiết phải là liên
kết về mặt tài chính, đầu tư chứ không đơn thuần là liên kết hành chính, cơ học. Đặc điểm
của liên kết ngang cho thấy quá trình phát triển của các hãng/doanh nghiệp/tổ chức được
mở
theo chiều rộng. Ví dụ mở thêm xưởng sản xuất mới ở địa phương khác, tăng số
lượng đối tác cung cấp cùng một loại hàng… Điểm hạn chế của việc mở rộng này là chi
phí cố định biên cho việc sản xuất một sản phẩm cùng loại sẽ tăng lên gấp nhiều lần
tương ứng với số cơ sở mở rộng, như
ng hạn chế được tác động của việc ép giá bằng việc

16
thúc đẩy cạnh tranh giữa các cơ sở có cùng nhiệm vụ, chức năng, dẫn đến giảm tác động
tiêu cực của việc “sợ” đàm phán hợp đồng.
Trong trường hợp hợp tác về KH&CN diễn ra, vận dụng lý thuyết liên kết dọc và
liên kết ngang có thể cho thấy bản chất của nhiều vấn đề. Ví dụ, với đối tượng là nghiên
cứu về các loại hình tổ ch
ức NC&PT, lý thuyết về liên kết dọc giải thích cho chúng ta biết

xu hướng tích hợp các bộ phận sản xuất vào bên trong tổ chức NC&PT ở Việt Nam, nhất
là trong bối cảnh vấn đề ép giá dễ dàng xảy ra do thiếu các thiết chế về KH&CN đầy đủ
như ở Việt Nam. Trong khi đó, lý thuyết về liên kết ngang cho thấy cần phải có chiến
lược phát triển KH&CN tập trung vào từng công đoạn nhất đị
nh với từng loại hình tổ
chức NC&PT đặc thù. Một tổ chức tổng hợp bao gồm các khâu từ nghiên cứu cơ bản-
nghiên cứu ứng dụng-phát triển công nghệ và sản xuất đại trà được xem là rất tốn kém,
đòi hỏi đầu tư tương đối lớn. Trong khi đó, tập trung chuyên môn vào phát triển từng
khâu, ví dụ nhấn mạnh chỉ đến khâu phát triển công nghệ sẽ tạo điề
u kiện tập trung nguồn
lực…
Vấn đề gợi mở ở đây là sự cần thiết phải thiết kế lại hệ thống các loại hình tổ chức
NC&PT phân theo chức năng nhiệm vụ, đi kèm với nó là hệ thống thiết chế KH&CN
hoàn chỉnh.
1.7. Thay đổi thể chế
Các thể chế có vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới, có thể thúc đẩy hay gây
cản trở cho đổi mớ
i. Điều này có nghĩa là không những các thể chế mà sự thay đổi thể chế
là yếu tố cốt yếu cho các quá trình đổi mới phục vụ phát triển kinh tế. Năng lực của nền
kinh tế để tạo ra sự tăng trưởng phụ thuộc vào năng lực đổi mới công nghệ, năng lực tiếp
nhận và đổi mới các thể chế để hỗ trợ tă
ng trưởng và đổi mới.
Các hành động đổi mới thường có xu hướng vượt ra khỏi khung khổ của thể chế có
sẵn, một phần do bởi đặc tính phức tạp của quá trình đổi mới, một phần bởi tính bảo thủ
của thể chế hiện hành, hoặc bởi tính lạc hậu/sai sót trong các quy định pháp lý. Do vậy,
luôn có hai dạng thể chế cứng và thể chế mềm, hay thể chế ch
ỉ quy định khung và thể chế
quy định chi tiết cho các mối quan hệ. Những thay đổi thể chế thể hiện tính biến động của
khung khổ pháp lý, nhiều khi gây ra mâu thuẫn. Một mặt, thể chế phải đảm bảo tính nhất
quán theo thời gian, theo hành vi, song mặt khác thể chế lại phải đáp ứng các nhu cầu

chính đáng của cá nhân/tổ chức trong việc tiến hành hoạt động đổi mới. Như vậ
y, điều
này dẫn đến quan điểm: xây dựng khung thể chế đảm bảo nhất quán/ổn định/mềm dẻo của
pháp luật, song cũng phải quan tâm sâu sắc đến chất lượng của đổi mới. Có thể áp dụng từ
nhiều kỹ thuật để xây dựng một thể chế như vậy:
- Thích nghi/nhập khẩu các thể chế tương thích từ nước ngoài thông qua kinh
nghiệm của các nhà hoạch định chính sách chính phủ và tư nhân. Ta có thể nói về
“sự bắt chước thể chế” khi các thể chế được chuyển giao nhiều hay ít và về “sự
thích nghi thể chế” khi những thay đổi được tạo ra để cải thiện thêm các thể chế đã
sao chép hoặc tạo cho chúng khớp với cơ cấu thể chế đang tồn tại.
- Coi trọng công tác đánh giá chính sách để nhà nước n
ắm bắt và ứng xử kịp thời
nhu cầu phát triển chính đáng của hệ thống cơ quan NC&PT.

17
- Coi trọng công tác chiến lược và dự báo/nhìn trước công nghệ nhằm định hướng
cho một quá trình phát triển ổn định của mạng lưới cơ quan NC&PT.
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng sự phát triển của các thể chế thường là một
quá trình lâu dài, bao gồm cả thoả hiệp giữa các nhóm lợi ích cũng như tuyên truyền sâu
rộng về chủ trương đường lối quản lý ra toàn xã hội.
1.8. Tương quan giữa khái niệm thể chế và khái niệm tổ chức
Có một mối tương quan giữa “thể chế” và “tổ chức”. Nếu thể chế được hiểu như là
các khuôn mẫu ứng xử cơ bản và nguyên lý cốt yếu, hay là tập hợp các thói quen chung,
các lộ trình, các nguyên tắc hoặc các điều luật quy định quan hệ và tương tác giữa các cá
nhân và các nhóm, thì “tổ chức” không là phần của khái niệm thể ch
ế như được xác định
ở trên. Thay vì điều đó, tổ chức được xác định như là cấu trúc chính thức có mục đích rõ
ràng của các ý tưởng sáng tạo.
Cá nhân hoặc các nhóm cá nhân tham gia một tổ chức phải có chung một mục đích
để đạt được các mục tiêu chắc chắn. Sự đa dạng này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng

trong nghiên cứu đổi mới, đơn giản là vì tổ chức bao g
ồm nhiều loại: các hãng, các trường
đại học, các viện nghiên cứu công nghiệp, các phòng R&D trong các hãng lớn, các văn
phòng patent và các trường phổ thông phải được xem xét như là các tổ chức - động cơ
quan trọng của thay đổi công nghệ.
Rõ ràng là có một sự khác nhau nhất định giữa thể chế và tổ chức. Sự phân biệt
này là cần thiết bởi các thể chế và các tổ chức mang vai trò khác nhau trong quá trình đổi
mới và điều đó chúng ta tin tưởng là ph
ức tạp nhưng lại có mối quan hệ quan trọng với
nhau. Để có thể nghiên cứu sự tác động qua lại này chúng ta phải phân biệt hai khái niệm.
II. Tổ chức và đổi mới
Phân loại về tổ chức và quan niệm về định hướng phát triển tổ chức có một ý nghĩa
quan trọng trong sự phát triển của thành phần này trong cách tiếp cận NIS. Thông thường,
người ta phân theo quan hệ sở hữu nhà nước và sở h
ữu ngoài nhà nước, hoặc phân loại tổ
chức theo lĩnh vực KH&CN, hoặc phân loại theo chức năng thực hiện… Xem xét hệ
thống đổi mới quốc gia cho thấy một thành phần tạo hệ quan trọng là các tổ chức NC&PT
với chức năng cơ bản là nguồn cung tri thức phục vụ đổi mới. Như vậy, các tổ chức
NC&PT như là một hệ thống được đặt trong mố
i tương tác động với các thành phần khác,
hòa quyện vào quá trình đổi mới:
2.1. Khái niệm tổ chức NC&PT
Theo UNESCO thì tổ chức NC&PT là đơn vị cơ sở trong nền sản xuất xã hội,
được chuyên môn hoá để thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ
thuật một cách thường xuyên và có tổ chức.
Theo Y.de HEMPTINE trong cuốn "Những vấn đề then chốt của Chính sách Khoa
học và kỹ thuật" thì tổ chức NC&PT là các tổ ch
ức tiến hành các hoạt động khoa học-kỹ
thuật một cách thường xuyên và có tổ chức. Các hoạt động khoa học-kỹ thuật có thể do


18
các tổ chức NC&PT nhà nước hoặc tư nhân thực hiện. Thuật ngữ tổ chức bao hàm một
giải rộng các thực thể có tư cách pháp nhân, , viện, viện hàn lâm, trường đại học, hiệp
hội, ty, bộ, trung tâm, xưởng thực nghiệm v.v
Theo Bách khoa toàn thư Liên xô (cũ) thì tổ chức NC&PT là các cơ quan tiến hành
nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật "là hình thức tổ chức cơ bản để thực hiện ho
ạt
động khoa học một cách có tổ chức" ở đại đa số các nước trên thế giới.
Ở Việt nam, khái niệm rộng hơn của tổ chức NC&PT là tổ chức KH&CN được xác
định trong Nghị định 35-HĐBT ngày 28/2/1992. Đó là các tổ chức chuyên thực hiện các
nhiệm vụ: nghiên cứu, thực nghiệm, triển khai áp dụng các công nghệ mới, các kỹ thuật
mới, các sản phẩm mới, các phương pháp mớ
i và biện pháp tổ chức mới; Sản xuất đơn
chiếc hoặc số lượng nhỏ các sản phẩm mới với trình độ công nghệ cao mà các cơ sở sản
xuất chưa có điều kiện thực hiện; Thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao
nghiệp vụ về khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý. Hiện vẫn tồn tại một quan điể
m coi
các cơ quan này là đơn vị hành chính sự nghiệp chuyên nghiên cứu khoa học và vì vậy nó
được điều chỉnh bởi các chế độ của một đơn vị hành chính sự nghiệp. Điều này ảnh
hưởng nhiều đến việc tự do hoá hoạt động cũng như đa dạng hoá loại hình tổ chức của các
tổ chức NC&PT và rộng hơn là các tổ chức KH&CN.
Theo chúng tôi, cần phải xem xét “tổ ch
ức NC&PT” dưới quan điểm là một tổ
chức có tư cách pháp nhân đầy đủ, chuyên sản xuất các sản phẩm khoa học và công nghệ
mới mà pháp luật không cấm; chuyển giao và áp dụng các sản phẩm đó vào sản xuất, đời
sống; giáo dục và đào tạo khoa học, công nghệ. Tổ chức NC&PT cần một môi trường thể
chế thích hợp, trong đó đảm bảo đầy đủ 3 chức năng củ
a thể chế.
2.2. Khái niệm mạng lưới tổ chức NC&PT và hệ thống tổ chức NC&PT
Thuật ngữ "mạng lưới" tổ chức NC&PT được hiểu là một tập hợp các tổ chức

NC&PT tương tác với nhau thông qua các quan hệ đa chiều, chính thức và phi chính thức,
quan hệ hợp tác/liên kết kinh tế, hợp tác/liên kết khoa học, quan hệ tổ chức, quan hệ thông
tin… không đơn thuần chỉ có quan hệ quả
n lý trên xuống/dưới lên, Ngoài ra, tập hợp đó
xác định trong một không gian, thời gian và khung khổ thể chế nhất định. Phân biệt giữa
hai khái niệm “mạng lưới” tổ chức NC&PT và “hệ thống” tổ chức NC&PT, “hệ thống”
tổ chức NC&PT được hiểu chặt chẽ hơn, với các quan hệ có thứ bậc, trật tự trên dưới,
trong khi “mạng lưới” mang tính mở hơn v
ới các quan hệ đa chiều. Khái niệm mạng lưới
bao trùm khái niệm hệ thống. Trong báo cáo, khi sử dụng khái niệm “mạng lưới” tổ chức
NC&PT với ý phân tích các quan hệ mở và đa chiều, trong khi khái niệm “hệ thống” tổ
chức NC&PT sẽ được sử dụng khi muốn nhấn mạnh tới các quan hệ có thứ bậc, trật tự
nhất định.
Như vậy, nếu coi hệ th
ống đổi mới quốc gia là một tập lớn thì mạng lưới/hệ thống
tổ chức NC&PT được coi là một tập con với các đặc tính tương đương, song mang những
đặc trưng nhất định về chức năng của mình, trong đó nhấn mạnh đến chức năng là nơi tạo
ra tri thức mới phục vụ quá trình đổi mới.
Sự phát triển của mạng lưới tổ ch
ức NC&PT có thể thấy qua phát triển đa dạng
loại hình theo quan hệ sở hữu, đa dạng loại hình theo lĩnh vực KH&CN, đa dạng loại hình

19
theo ngành kinh tế, đa dạng loại hình theo chức năng thực hiện nhiệm vụ KH&CN, thể
hiện ở phát triển chiều sâu của tổ chức như đầu tư tiềm lực hay đẩy mạnh thông tin hỗ trợ
liên kết, hay đơn giản là phát triển theo tiêu chí số lượng tổ chức.
Nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của mạng lưới/hệ thống tổ chức NC&PT
không đơn thu
ần chỉ xem xét bối cảnh kinh tế – xã hội tác động đến chính mạng lưới/hệ
thống này, mà còn đề cập đến so sánh phát triển các chức năng của mạng lưới/hệ thống

qua các thời kỳ, ứng với các thể chế khác nhau. Cách tiếp cận này phù hợp với quan điểm
như đã nêu trong cách tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia.
Trong bất kỳ một thể chế
nào, tại một không gian, thời gian nhất định, vai trò của
nhà nước-với tư cách là người tạo ra thể chế chính thức (khác với thể chế phi chính thức
như đã đề cập ở phần trên)- có vai trò quan trọng trong phát triển của một đối tượng quản
lý, trong đó có mạng lưới/hệ thống tổ chức NC&PT. Mạng lưới/hệ thống sẽ phát triển tốt
nhất ở một th
ể chế chính thức-một thể chế mà 3 chức năng của nó được đảm bảo một
cách tối ưu.
Là một thành phần tạo hệ của hệ thống đổi mới quốc gia, mạng lưới/hệ thống tổ
chức NC&PT phải được xem xét trên quan điểm là một thực thể sống động, hình thành và
phát triển tuân theo quy luật phát triển chung, có một đặc trưng là tính rất nhạy bén trướ
c
một quyết định của chủ thể quản lý cũng như tác động của trào lưu KH&CN bên ngoài.
Tác động đến mạng lưới/hệ thống tổ chức NC&PT nói riêng và rộng ra là mạng lưới/hệ
thống tổ chức KH&CN phải lưu ý đến các điểm đặc trưng sau:
- Mạng lưới/hệ thống các tổ chức NC&PT là một hệ thống và cũng như bất kỳ m
ột
hệ thống xã hội nào, nó có khả năng đặt cho mình mục tiêu, có khả năng tự điều
chỉnh, tự thích nghi.
- Cũng như tất cả các hệ thống có tổ chức, mỗi cơ quan NC&PT trong mạng lưới là
một phân hệ độc lập tương đối, hoạt động để đạt mục tiêu riêng khác với mục tiêu
chung của toàn hệ và của các thành phần khác. Mỗi một phân hệ
đều cần có bộ
phận quản lý riêng thể hiện qua các chế định pháp lý về hoạt động của mình, ví dụ
như chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức v.v
- Quyền tự trị về mặt khoa học là đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của cơ quan.
Mọi chỉ đạo mang tính hành chính trong khoa học hầu như chỉ mang đến kết quả
gượ

ng ép. Như vậy, một hệ thống công cụ quản lý bằng các cấp kinh phí theo đề
tài, cùng với cách cấp kinh phí theo quỹ sẽ phải được coi trọng hơn so với cách cấp
kinh phí theo tổ chức như đã thịnh hành ở Việt Nam cho đến nay.
- Mạng lưới/hệ thống tổ chức NC&PT và thể chế có mối tương quan chặt chẽ với
nhau. Mạng lưới/hệ thống tổ chức NC&PT ho
ạt động bên trong một môi trường
thể chế song các thể chế cũng hình thành ngay bên trong một tổ chức NC&PT. Hai
loại thể chế này mà ta tạm gọi là thể chế bên trong, thể chế bên ngoài. Thông
thường, thể chế bên trong thường là những cái cụ thể hoá của thể chế bên ngoài,
song nhiều trường hợp, thể chế bên trong lại thông thoáng hơn thể chế bên ngoài,
là một bài học kinh nghiệm bổ ích cho các nhà lập chính sách xây dựng thể chế
bên ngoài. Do vậy, khi xem xét một tổ chức NC&PT còn cần phải làm sâu thể chế

20
bên trong của chúng để làm rõ được mối liên kết giữa các thành phần tạo hệ trong
một không gian được mô hình hoá để có được các bài học kinh nghiệm cũng như
đáp ứng nhu cầu cho phát triển của các thực thể thành viên của mạng lưới.
- Mạng lưới/hệ thống tổ chức NC&PT một mặt là một hệ thống, một mặt cũng chỉ là
một thành phần tạo hệ củ
a hệ thống đổi mới quốc gia với các mối tương tác đa
chiều và luôn biến động. Do vậy, biện pháp phát triển hệ thống cơ quan NC&PT
kết hợp với những đảm bảo cho tính linh hoạt của hệ thống sẽ cho phép mức độ xã
hội hoá cao hơn về đầu tư tiềm lực KH&CN cũng như thực hiện nhiệm vụ
KH&CN, đưa khoa học gần hơn v
ới sản xuất.
- Một xu hướng chung trong quản lý KH&CN là sử dụng công cụ đánh giá, kể cả
đánh giá tổ chức KH&CN và đánh giá nhiệm vụ KH&CN là một công cụ hữu hiệu
cho quản lý tổ chức KH&CN với các quyết định tách nhập, giải thể, cũng như đầu
tư phát triển.
- Quan điểm ngày càng được thừa nhận rộng rãi hơn ở Việt Nam là cho phép mọi

thành ph
ần cá nhân/tổ chức tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
ở những vấn đề mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, nhận thức của nhiều cơ quan
quản lý nhà nước vẫn mang nặng quan điểm bao cấp, quan liêu, gây cản trở cho sự
phát triển của mạng lưới tổ chức KH&CN … Chính điều này cho thấy hiện có một
khoảng cách giữa chính sách KH&CN và thực tiễn quản lý KH&CN, do bởi
nguyên nhân năng lực quả
n lý KH&CN còn thấp và tư tưởng trì trệ còn làm một
sức ỳ tương đối trong các cơ quan công quyền.

21
CHƯƠNG II
NHẬN DẠNG LOẠI HÌNH TỔ CHỨC NC&PT CỦA TRUNG QUỐC
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

I. Lịch sử hình thành và phát triển các loại hình tổ chức KH&CN Trung Quốc
Các loại hình tổ chức NC&PT của Trung Quốc được hình thành và phát triển lâu
dài, qua nhiều giai đoạn trong nhiều bối cảnh, chịu tác động bởi nhiều sự kiện lịch sử. Các
sự kiện chủ yếu có thể liệt kê ra ở đây như việc thành lập nước Cộng hòa Trung Hoa,
chuyển tiếp sang thời đại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sau năm 1949, xây dựng các lo
ại
hình tổ chức NC&PT theo ảnh hưởng của mô hình Liên Xô, ảnh hưởng của cuộc đại nhảy
vọt và tác động của cuộc cách mạng văn hoá trong gần 10 năm đến hệ thống tổ chức
NC&PT, và gần đây là những nỗ lực cải cách chuyển đổi các tổ chức NC&PT sang hoạt
động theo cơ chế thị trường cùng những nỗ lực cải cách chính sách KH&CN.
1.1. Giai đoạn trước nă
m 1949
“Nước Cộng hoà Trung Hoa được thành lập năm 1912 là mốc đánh dấu sự hình
thành và phát triển các loại hình tổ chức NC&PT, ban đầu là những Học viện khoa học
hiện đại và Hiệp hội khoa học. Thành công quan trọng của Hiệp hội khoa học Trung quốc

là những ảnh hưởng về mặt khoa học góp phần xoá bỏ Nhà nước phong kiến quan liêu, tổ
chức ra các hội khoa học như Hội Y học Trung quốc (1915), Hộ
i Nông nghiệp Trung
quốc (1917), Hội Địa chất Trung quốc (1922), Hội thiên văn học Trung quốc (1924)…”
(Hoàng Trọng Cư, 2000).
Năm 1928-1929, quan điểm của Nhà nước Trung Hoa là cần thiết phải thành lập
đơn vị khoa học mang tính mũi nhọn nhằm tập trung nguồn lực và giải quyết các vấn đề
khoa học chủ chốt. Với quan điểm này, Trung Quốc đã thành lập 2 Viện Hàn lâm khoa
học ở Nam Kinh và Bắc Kinh, bao g
ồm nhiều tổ chức NC&PT trực thuộc. Nhiều nhà
khoa học được đào tạo cơ bản, đạt trình độ cao từ các nước phát triển được giao trọng
trách lãnh đạo các tổ chức NC&PT thuộc 2 viện hàn lâm này. Sau đó 19 năm, tức là vào
năm 1949, 2 viện hàn lâm này sáp nhập thành Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc, sau
sự kiện thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
1.2. Giai đoạn sau năm 1949 – cuối 1980
Giai đoạn hình thành và đặt nền móng ban đầ
u cho sự phát triển của các tổ chức
NC&PT
Sự kiện quốc khánh Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 1/10/1949 đã
đưa đất nước Trung Quốc vào một giai đoạn mới, thay đổi căn bản nền kinh tế, chính trị
và xã hội. Bối cảnh mới này tạo điều kiện thế và lực mới cho công cuộc xây dựng mới và
cải cách lại các loại hình tổ chức NC&PT Trung Quốc, hình thành nhiều tổ chức m
ới trên
cơ sở hệ thống tổ chức NC&PT hình thành và phát triển từ những năm 1912. Chủ trương
cách mạng tất cả các lĩnh vực đời sống, chính trị, văn hóa, khoa học,… mang nặng ý chí
chủ quan, với cơ chế kế hoạch hóa đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa. Các loại hình tổ

22
chức NC&PT hình thành ban đầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi mô hình Liên Xô. Trên cơ sở
đó, cấu trúc tổng thể của hệ thống này của Trung Quốc vào những năm 50 đã phân biệt

nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, phản ánh phân chia chức năng và nhiệm vụ
giữa Viện Hàn lâm khoa học và các Viện thuộc các Bộ, ngành, địa phương. Cơ chế kế
hoạch hóa cũng được áp dụ
ng trong việc xây dựng nội dung hoạt động khoa học, thông
thường được gọi là kế hoạch phát triển khoa học công nghệ và kế hoạch được lập cho 12
năm. Ban đầu, khoa học và công nghệ xác định trọng tâm vào các lĩnh vực bao gồm: máy
vi tính, công nghệ chất bán dẫn, điện tử và tự động hoá, năng lượng nguyên tử và công
nghệ phản lực. Từ đó nhiều Viện mới của Viện Hàn lâm khoa h
ọc được thành lập để đảm
trách những mục tiêu phát triển liên quan đến an ninh, quốc phòng, công nghệ vũ trụ và
công nghệ hạt nhân.
Với chủ trương cải cách và tập trung nguồn lực theo cơ chế kế hoạch hóa, tháng
11/1949, nhà nước Trung Quốc thành lập Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc trên cơ sở
sáp nhập 2 viện hàn lâm ở Nam Kinh và Bắc Kinh. Ban đầu, Viện Hàn lâm Khoa học
Trung Quốc bao gồm 21 Viện nghiên cứu khoa học trực thuộ
c, là cơ quan khoa học duy
nhất đại diện cho cộng đồng khoa học ở Trung Quốc. Viện Hàn lâm khoa học Trung
Quốc tham gia nghiên cứu cơ bản và những hoạt động nghiên cứu ứng dụng trên cơ sở kế
hoạch của Nhà nước, củng cố sự liên kết giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau, thúc đẩy
sự tác động qua lại giữa hoạt động khoa học, ứng dụng và tiếp thu những thành t
ựu khoa
học công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển trên thế giới. Đầu năm 1950, Viện Hàn lâm
Khoa học Trung Quốc còn được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch khoa học và công
nghệ, tham gia những dự án kinh tế quan trọng của đất nước. Tầm quan trọng của Viện
Hàn lâm Trung Quốc trong hệ thống khoa học của Trung Quốc có thể được thấy rõ từ
thực tế tỷ trọng đầu t
ư: chiếm 18% nguồn nhân lực khoa học và 70% tổng vốn nghiên cứu
khoa học của Trung Quốc.
Ngoài Viện Hàn lâm và các Viện, tổ chức NC&PT thuộc Bộ, ngành, địa phương,
Chính phủ cũng quan tâm phát triển các Hội khoa học. Các Hội chịu sự quản lý của Liên

đoàn các Hiệp hội khoa học quốc gia. Số lượng các Hội tăng liên tục, từ 12 Hội năm 1949
lên 35 Hội năm 1965 (Hoàng Trọng Cư, 2000).
Cùng với Viện Hàn lâm khoa h
ọc Trung Quốc, hoạt động nghiên cứu cơ bản ở các
trường đại học cũng được Chính phủ khuyến khích và hỗ trợ. Chính phủ chủ trương cho
hình thành những Học viện nghiên cứu thuộc các Bộ như Y tế, Nông nghiệp, Giao thông,
Cơ khí, Luyện kim v.v ngoài ra còn hình thành các Viện nghiên cứu, Sở nghiên cứu ở
các tỉnh, khu tự trị, đặc biệt việc phát triển các Viện nghiên cứu trong khu vực quốc
phòng, an ninh.
“Cao trào
đại nhảy vọt”, “đại cách mạng văn hóa” và những ảnh hưởng tới
KH&CN Trung Quốc
Theo Hoàng Trọng Cư (2000), “ý tưởng của cao trào đại nhảy vọt (Great leap
forward) là nhấn mạnh sự phát triển công nghiệp cũng như nông nghiệp thông qua việc
ứng dụng và phổ biến những thành tựu khoa học và công nghệ trong công nghiệp và nông
nghiệp”. Chủ trương này do Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra, với ý muốn chủ quan cả
i
tạo tư tưởng vừa phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ KH&CN, đã đưa các nhà khoa học từ

23
thành phố về các vùng nông thôn để hỗ trợ cho phong trào cải tạo và đổi mới. “Từ đó việc
tổ chức lại cấu trúc khoa học công nghệ theo kiểu thí điểm, mô hình thực nghiệm để lấp
những chỗ trống giữa lao động trí óc và lao động chân tay” (Hoàng Trọng Cư, 2000). Sự
kiện này được tổ chức dưới hình thức của một hoạt động mang tính phong trào, xuất phát
t
ừ tư tưởng chủ quan hơn là tạo cơ chế để KH&CN đi vào đời sống. Vì vậy, sau một thời
gian “cao trào đại nhảy vọt” đã bị thất bại, đội ngũ cán bộ KH&CN bị nhiều thiệt hại, đòi
hỏi nhiều nỗ lực chính sách nhằm khôi phục lại cộng đồng khoa học.
Tuy nhiên, thất bại của phong trào này lại là tiền đề để cải tổ l
ại nền khoa học và

công nghệ của Trung Quốc. Trung Quốc đã thành lập Uỷ ban năng lượng hạt nhân quốc
gia, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, với nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu
phục vụ quân sự. Nhiều nhà khoa học giỏi, đầu đàn của Viện Hàn lâm được tập trung
sang phục vụ công nghiệp quốc phòng, nhằm tạo nên sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh
v
ực công nghệ cao và công nghệ phục vụ quốc phòng. Trên cơ sở đó, ngày 16/10/1964,
Trung Quốc đã nổ thử thành công quả bom nguyên tử, và thử tiếp quả thứ hai vào ngay
năm sau đó. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu và phát triển công nghệ vệ tinh cũng đạt
được những thành tựu nhất định và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao nỗ lực đó.
Một trong những thành tựu đáng kể trong cải cách th
ời kỳ này là hoạt động
KH&CN không mang màu sắc chính trị, tách quan điểm chính trị ra khỏi hoạt động nghề
nghiệp và hoạt động chuyên môn. Tuy nhiên, thành tựu này không tồn tại lâu, bị xóa bỏ
bởi cuộc đại cách mạng văn hóa do Chủ tịch Mao Trạch Đông phát động năm 1966. Ảnh
hưởng bởi cuộc đại cách mạng văn hóa, các tổ chức nghiên cứu và phát triển được xây
dựng của 15 năm về tr
ước bị huỷ bỏ, giải thể theo những chỉ thị mang tính chất mệnh lệnh
của “Bộ tư lệnh cách mạng văn hoá”. Phần lớn đội ngũ trí thức bị phê phán, các giáo sư,
cán bộ nghiên cứu khoa học được đưa một cách bắt buộc về các vùng nông thôn xa xôi,
các nông trại, nhà máy và những doanh nghiệp công cộng nhỏ liên quan đến sản xuất thủ
công để lao động cải tạo bằng nh
ững công việc chân tay. Viện Hàn lâm khoa học Trung
quốc bị xoá sổ tới 60% các học viện nghiên cứu chính, chỉ để lại khoảng 30% viện có liên
quan đến công nghệ quốc phòng. Các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu cơ
bản đều bị tố là ăn bám, vô tích sự và còn được xem như là tội ác và còn bị dư luận xã hội
coi thường (Hoàng Trọng Cư, 2000).
Sau sự kiện đại cách mạng văn hóa 10 năm, Trung Quốc dần b
ước vào giai đoạn
khôi phục lại nền kinh tế và tiềm lực của khoa học và công nghệ. Các nhà khoa học dần
được phục hồi các chức vụ khoa học, Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc dần từng bước

được ổn định, đồng thời thành lập thêm Viện Hàn lâm khoa học xã hội Trung quốc trên
cơ sở tách Ban Khoa học xã hội, Ban Triết học của Viện Hàn lâm khoa học và sáp nhập
với Ban tuyên truyền của
Đảng Cộng sản Trung quốc.
Ngày 13/3/1985 Trung ương Đảng cộng sản Trung quốc quyết định cải cách thể
chế khoa học và công nghệ, trong đó có một số vấn đề liên quan cải cách hệ thống nghiên
cứu và phát triển:
- Tạo cho các Viện nghiên cứu và phát triển nhiều quyền lực trong tổ chức và hoạt
động khoa học và công nghệ:
- Thiết kế cấu trúc hệ thống nghiên cứu và phát triển g
ắn kết giữa nghiên cứu - sản

24
xuất và đào tạo. Đối với đơn vị sản xuất phải tăng cường năng lực để tiếp thu và
phát triển công nghệ.
- Thúc đẩy thương mại hoá các thành tựu công nghệ và khai thác thị trường công
nghệ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng cải cách và những tác động mang tính tiền đề tới nền KH&CN Trung
Quố
c
Kế thừa những nỗ lực khôi phục lại nền KH&CN Trung Quốc và rút kinh nghiệm
sâu sắc từ những thất bại của việc áp đặt ý chí chủ quan lên một đối tượng quản lý mà bỏ
qua các quy luật vận động khách quan của nó, KH&CN Trung Quốc đã dần dần được cải
cách. Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế cũng như những thay đổi quan trọng của
bố
i cảnh chính trị thế giới đã giúp Trung Quốc nhận thức sâu sắc hơn về các quy luật vận
động khách quan của KH&CN. Về cơ bản, các tư tưởng cải cách đã được thấm nhuần với:
- Xây dựng và phát triển nền khoa học và công nghệ toàn diện, ngang tầm với các
nước phát triển trên thế giới, các hoạt động nghiên cứu và phát triển phải bao gồm
hầu hết các lĩnh vự

c khoa học.
- Công tác quản lý phải tập trung hơn, mang bản sắc xã hội chủ nghĩa với sở hữu
toàn dân. Trong thực tế hiện nay do sự phát triển mất cân đối nên Chính phủ trung
ương phải tiến hành cải cách sâu sắc hơn.
- Cải cách các tổ chức NC&PT thuộc Chính phủ với hai loại tổ chức NC&PT thuộc
Chính phủ và NC&PT thuộc doanh nghiệp, tập trung đầu tư cho KH&CN ở mức
0,7-2% GDP, nhiề
u hơn cho các tổ chức NC&PT thuộc Chính phủ. Tỷ lệ chi cho
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ sẽ là: 10 - 12%;
25- 35%; 40 - 65%.
- Sử dụng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hoạt động NC&PT, dần dần
nâng tỷ lệ đầu tư cho KH&CN từ khu vực sản xuất. Áp dụng cơ chế này phải có
thời gian và theo các bước đi thích hợp.
- Quán triệt quan
điểm “Phát triển kinh tế phải dựa vào khoa học và công nghệ và
khoa học và công nghệ phải hướng tới phục vụ cho phát triển kinh tế”.
- Nghiên cứu áp dụng cơ chế tự chủ, tự quản trong NC&PT, kết hợp với việc sử
dụng các phương pháp đánh giá tổ chức và đánh giá hoạt động NC&PT từ các mô
hình Anh-Mỹ…
1.3. Giai đoạn những năm cuối 1980 trở lại
đây
Nền KH&CN của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt từ
những năm 90, nhiều lĩnh vực KH&CN đã đạt tới trình độ cao và đã khẳng định thứ bậc
KH&CN trên thế giới. Năm 1997 có thể xem là một năm bội thu, với 2727 đề tài nghiên
cứu trong lĩnh vực lý thuyết, 26244 trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng và 1595 trong
các lĩnh vực khác. Riêng 7000 ch
ương trình ứng dụng công nghệ đã đem lại cho tổng thu
nhập quốc dân 104 tỷ nhân dân tệ, tương đương 12,5 tỷ USD (Đinh Ngọc Lân, 1998).
Trong quá trình phát triển, Trung Quốc đã phải trải qua những thời kỳ khó khăn và

×