Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Nhà Nước Hoạt Động Công Ích - Thực Trạng Và Các Giải Pháp.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.92 KB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUANG VỸ

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC HOẠT ĐỘNG CƠNG ÍCH - THỰC
TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 50515
Luận văn Thạc sỹ khoa học Luật
Hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Mẫn

HÀ NỘI, NĂM 2002


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn các thầy, cô giáo đang
công tác tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cùng các thầy, cô đã
giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và xây dựng luận văn.
Em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn Tiến sĩ luật học Nguyễn
Minh Mẫn - Vụ trưởng Vụ cải cách hành chính - Văn phịng Chính phủ
đã tận tình hướng dẫn, chỉ đạo, có nhiều ý kiến quý báu giúp em xây
dựng và nâng cao chất lượng luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Viện Nghiên cứu Hành chính - Học viện
Hành chính Quốc gia; Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương; Vụ
doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và xây
dựng luận văn.


Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình ủng hộ và
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và xây dựng
luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2002
Nguyễn Quang Vỹ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

DN
DNNN
SXKD
ĐKKD
XHCN
UBND
HĐQT
TNHH
NXB
TBTN

Doanh nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước
Sản xuất kinh doanh
Đăng ký kinh doanh
Xã hội chủ nghĩa
Uỷ ban nhân dân
Hội đồng quản trị
Trách nhiệm hữu hạn
Nhà xuất bản.
Tư bản tư nhân



MỤC LỤC

1.1
1.2
1.3

2.1
2.2
2.3

3.1
3.2

Lời mở đầu
Chương 1: Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhà
nước hoạt động cơng ích
Khái niệm, đặc điểm của DNNN hoạt động cơng ích
Vị trí, vai trị của DNNN hoạt động cơng ích ở nước ta
Một số mơ hình cung cấp hàng hố, dịch vụ cơng ích điển
hình trên thế giới.
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với doanh
nghiệp nhà nước hoạt động cơng ích
Những quy định của pháp luật về thành lập, giải thể, phá sản
và tổ chức hoạt động của DNNN hoạt động công ích
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của DNNN hoạt động cơng ích
Một số nhận xét và đánh giá đối với những qui định của pháp
luật về DNNN hoạt động công ích
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới pháp luật

về doanh nghiệp nhà nước hoạt động cơng ích
Phương hướng đổi mới pháp luật về DNNN hoạt động cơng
ích
Một số giải pháp đổi mới pháp luật về DNNN hoạt động cơng
ích
Kết luận
Tài liệu tham khảo

Trang
1
8
8
30
42
49
49
77
89
100
101
112
121
122


LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1986 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của sự phát triển mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội của đất nước ta. Với Đại hội này, Đảng ta đã chủ
trương chuyển nền kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo cơ chế
kinh tế mới, các chủ thể kinh doanh, trong đó có DNNN đã chuyển mình sang
một mơi trường kinh doanh mới với nhiều thuận lợi và thách thức. Một mặt,
loại hình doanh nghiệp này vừa được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận là hệ
thống doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế then chốt, giữ vai trò chủ đạo
của nền kinh tế. Mặt khác, DNNN cũng phải đương đầu với nhiều vấn đề do
bản thân nền kinh tế thị trường mang lại như: vấn đề bình đẳng cạnh tranh
giữa các loại hình doanh nghiệp, về trình độ, năng lực kinh doanh, cũng như
các vấn đề công nghệ, trang thiết bị và đặc biệt là trình độ quản lý doanh
nghiệp… Nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế xuất hiện, trong đó giải quyết có
hiệu quả những vấn đề đặt ra giữa mục tiêu kinh tế và xã hội đã trở thành một
đòi hỏi cấp bách.Trước tình hình đó, Nhà nước phải làm gì để thực hiện tốt cả
hai nhiệm vụ nói trên? Đây cũng là đề tài mà nhiều nhà quản lý, nhà kinh tế,
đặc biệt được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu.
Hiểu rõ DNNN hoạt động công ích là gì và phạm vi hoạt động của nó
đến đâu, vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với các hoạt động cơng ích
như thế nào đang là một chủ đề hấp dẫn cần được nghiên cứu đầy đủ và đưa
ra các giải pháp hiệu quả.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 20 tháng 4 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hồ XHCN Việt Nam
thơng qua Luật doanh nghiệp Nhà nước. Đạo luật này có hiệu lực từ ngày 30
tháng 4 năm 1995. Một trong những điểm mới của đạo luật này là lần đầu tiên
pháp luật nước ta có sự phân biệt rõ hơn giữa hai loại hình DNNN, đó là
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động cơng ích, trong đó, thuật
ngữ DNNN hoạt động cơng ích được ghi nhận trong Luật đã thể hiện được sự
1


quan tâm nhiều hơn, cũng như sự nhìn nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trị
của loại hình doanh nghiệp này. Hơn thế nữa, ngày 2 tháng 10 năm 1996,

Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/CP quy định chi tiết tổ chức và hoạt
động của các DNNN hoạt động cơng ích. Trên cơ sở Luật DNNN và Nghị
định 56, nhiều Bộ, ngành đã ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các
quan hệ liên quan đến DNNN hoạt động cơng ích. Thực tiễn hơn 6 năm thực
hiện đã chứng minh rằng: Luật doanh nghiệp nhà nước và các văn bản pháp
luật nói trên đóng một vai trị quan trọng trong hệ thống các văn bản pháp luật
Việt Nam từ trước đến nay điều chỉnh loại hình DNNN. Với việc áp dụng các
văn bản pháp luật này, DNNN nói chung, DNNN hoạt động cơng ích nói
riêng đã chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu
của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò
chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, từng bước đi vào hoạt động ổn
định, đóng vai trị là lực lượng quan trọng trong thực hiện chính sách xã hội,
khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ cơng ích
thiết yếu cho xã hội, quốc phịng, an ninh, ngày càng thích ứng với cơ chế thị
trường1…
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, quá trình thực
hiện Luật DNNN cũng như các văn bản dưới luật nói trên đã nảy sinh những
những vấn đề cần phải quan tâm: DNNN nói chung cịn nhiều hạn chế, yếu
kém, có mặt rất nghiêm trọng như: quy mơ cịn nhỏ, cơ cấu cịn nhiều bất hợp
lý, chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; trình độ cơng nghệ
cịn nhiều lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ2… Mặt khác, các
cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình điều hành đã gặp nhiều vướng mắc,
một số DNNN còn lúng túng trong việc xác định loại hình doanh nghiệp của
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ưong 3, Khoá IX.

2



mình, đặc biệt là việc xác định loại hình DNNN hoạt động cơng ích. Nhiều
doanh nghiệp về mơ hình tổ chức hoạt động sản xuất là DNNN hoạt động
kinh doanh, nhưng thực tế lại hoạt động vì lợi ích chung của xã hội; có những
doanh nghiệp được thành lập để thực hiện chức năng cơng ích cũng như một
số đơn vị hành chính sự nghiệp của Nhà nước lại có nguồn thu từ các hoạt
động của mình. Chính vì vậy, thời gian qua, Nhà nước ta đã có chủ trương sắp
xếp, đổi mới tổ chức hoạt động DNNN, trong đó có việc hồn thiện hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của DNNN hoạt
động cơng ích, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình doanh nghiệp
này.
Từ đó, một loạt các vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ
như sự cần thiết phải có DNNN hoạt động cơng ích; phân biệt giữa DNNN
hoạt động cơng ích và DNNN hoạt động kinh doanh; làm thế nào để nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN hoạt động cơng ích; về tổ chức, hoạt động của
DNNN hoạt động cơng ích như thế nào cho hiệu quả…
Xuất phát từ tình hình đó, chúng tôi chọn "Pháp luật về Doanh nghiệp
nhà nước hoạt động cơng ích - Thực trạng và các giải pháp đổi mới" làm Luận
văn Cao học luật vì tính bức xúc cả về phương diện lý luận và thực tiễn của
vấn đề.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Luật DNNN ra đời, ở nước ta chưa có sự nhận thức rõ ràng về
loại hình DNNN hoạt động cơng ích nên chưa có sự quan tâm nghiên cứu
thực sự nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách và
cơ chế quản lý riêng đối với loại hình doanh nghiệp này. Mặt khác, cơ chế
kinh tế thị trường còn là vấn đề mới đang đặt ra nhiều thách thức đối với cơ
chế quản lý ở Việt Nam. Các vấn đề kinh tế - xã hội trong những năm đầu của
3



nền kinh tế thị trường đang đặt ra một cách bức xúc đã hướng sự chú ý của
các nhà hoạch định chính sách kinh tế, pháp luật cũng như các nhà nghiên
cứu trước hết vào các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh của nền kinh
tế thị trường hoặc loại hình DNNN hoạt động kinh doanh. Nhu cầu về sự phát
triển đồng bộ giữa hai loại hình DNNN hoạt động cơng ích và DNNN hoạt
động kinh doanh trong những năm đầu đổi mới còn chưa bộc lộ rõ, chưa thực
sự gây chú ý đối với các nhà nghiên cứu. Vì vậy, cho đến nay, nhiều đề tài
nghiên cứu về DNNN mới chỉ tập trung vào DNNN nói chung hoặc DNNN
hoạt động kinh doanh nói riêng. Kiến thức và kinh nghiệm nước ngồi về
DNNN hoạt động cơng ích được giới thiệu ở nước ta chủ yếu là kết hợp lồng
ghép vào nội dung doanh nghiệp hoặc DNNN nói chung mà chưa có nhiều
cơng trình nghiên cứu, đề cập một cách có hệ thống và tập trung vào các quy
định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến DNNN hoạt
động cơng ích cũng như cơ chế quản lý đối với loaị hình doanh nghiệp này.
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây chưa địi hỏi
có sự phân tách giữa hai mơ hình DNNN hoạt động cơng ích và DNNN hoạt
động kinh doanh, trong khi cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
thực sự địi hỏi cần phải có sự phân định và chính sách quản lý riêng giữa loại
hình DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động cơng ích nhằm đảm
bảo không những quyền tự chủ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh mà còn phải đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Đặc biệt, trong vài
năm gần đây, với những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang có xu hướng
gia tăng, sự phân hố giàu nghèo, các lợi ích chung của xã hội khơng được
quan tâm đúng mức địi hỏi cần phải có sự điều chỉnh, định hướng của Nhà
nước. Pháp luật là một trong những công cụ rất quan trọng để nhà nước thực
hiện chức năng này. Việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh từng loại hình
4



doanh nghiệp là điều kiện để tạo lập nên một hành lang pháp lý cho doanh
nghiệp hoạt động, đặc biệt là những chính sách đảm bảo lợi ích chung của xã
hội được Nhà nước cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội liên quan đến DNNN hoạt động cơng ích.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Trong bản luận văn này, tác giả có ý định:
- Phân tích những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn đang đặt ra từ nội
dung của pháp luật về DNNN hoạt động công ích, cũng như từ thực tiễn thực
hiện các quy định pháp luật này.
- Trên cơ sở những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn triển khai thực
hiện pháp luật về DNNN hoạt động cơng ích, luận văn sẽ lần lượt giải quyết
các vấn đề đặt ra bằng việc đề xuất các kiến nghị cũng như các giải pháp tiếp
tục hoàn thiện và thực hiện pháp luật về DNNN hoạt động cơng ích.
Từ việc nghiên cứu đó, luận văn có những đóng góp chủ yếu như sau:
- Tổng hợp, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận chung như:
những quan niệm về DNNN, hoạt động cơng ích và DNNN hoạt động cơng
ích, vai trị và sự cần thiết phải có DNNN hoạt động cơng ích, vai trị của nhà
nước đối với hoạt động cơng ích nói chung, DNNN hoạt động cơng ích nói
riêng.
- Giúp phân biệt được giữa hai loại hình DNNN hoạt động kinh doanh và
DNNN hoạt động cơng ích, từ đó xây dựng cơ chế quản lý thích hợp đối với
từng loại hình doanh nghiệp.
- Tìm ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp trong pháp luật về DNNN
hoạt động cơng ích, từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh loại hình doanh nghiệp này.
5


4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài là lý

luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện
chứng duy vật và những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập đến
việc hoàn thiện và đổi mới hệ thống pháp luật về DNNN hoạt động cơng ích.
Đề tài cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê xã hội học và chứng minh;
phương pháp lịch sử, logíc pháp lý, phương pháp hệ thống, so sánh, quy nạp
và diễn dịch...
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
"Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước hoạt động cơng ích - thực trạng
và các giải pháp đổi mới" là một đề tài nghiên cứu tương đối mới và phức tạp,
bởi vì, nghiên cứu pháp luật về DNNN hoạt động cơng ích là: phải nghiên
cứu những vấn đề cơ bản của pháp luật về DNNN nói chung, đồng thời, phải
xem xét những đặc điểm pháp lý của DNNN hoạt động cơng ích, phân biệt nó
với loại hình DNNN hoạt động kinh doanh cũng như các loại hình doanh
nghiệp khác. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài tập trung
nghiên cứu các vấn đề pháp luật về DNNN hoạt động cơng ích trên cơ sở:
- Hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh loại hình DNNN nói
chung, pháp luật điều chỉnh DNNN hoạt động cơng ích nói riêng và các quy
phạm pháp luật khác có liên quan.
- Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về
DNNN hoạt động cơng ích kể từ khi Luật DNNN được ban hành và có hiệu
lực, làm căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc nghiên cứu.
6


Từ việc nghiên cứu này, đề tài tìm ra những điểm chưa phù hợp của
pháp luật với thực tiễn, những điểm pháp luật còn bỏ ngỏ nhằm đề xuất, kiến
nghị những phương hướng và giải pháp cơ bản cho việc hồn thiện pháp luật
về DNNN hoạt động cơng ích.

6. Bố cục của luận văn
Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu như
đã nêu trên, luận văn được trình bầy với những nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhà nước hoạt động
cơng ích
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp nhà
nước hoạt động cơng ích
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới pháp luật về doanh
nghiệp nhà nước hoạt động cơng ích.

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC HOẠT
ĐỘNG CƠNG ÍCH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC HOẠT
ĐỘNG CƠNG ÍCH

1.1.1. Khái niệm và những đặc trƣng cơ bản của DNNN
1.1.1.1. Khái niệm DNNN
DN - một loại chủ thể kinh doanh chủ yếu, có vai trị quan trọng và
khơng thể thiếu đối với sự hình thành và phát triển của bất kỳ nền kinh tế thị
trường nào. Nó cũng là một đối tượng được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu và có những cách lý giải, những quan niệm khác nhau về khái
niệm DN. Tuy nhiên, theo quan niệm chung nhất, thì DN là một tổ chức kinh
tế được thành lập để tiến hành các hoạt động kinh doanh, thực hiện các chức
năng sản xuất, chế biến, chế tạo sản phẩm hoặc mua bán hàng hoá, làm dịch
vụ cung ứng nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường, xã hội. Thơng qua đó,
DN có thể đạt được nhiều mục đích khác nhau, trong đó có mục đích căn bản

là thu lợi nhuận.
Trong thực tiễn đời sống kinh tế và pháp lý ở nước ta, cùng với sự hình
thành nền kinh tế thị trường, thuật ngữ DN được chính thức sử dụng lần đầu
tiên trong Luật Công ty được Quốc hội thông qua ngày 21.12.1990. Điều 3
Luật này định nghĩa “DN là một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục
đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Khi Luật doanh nghiệp
được Quốc hội thơng qua ngày 12. 06 .1999 thì thuật ngữ DN một lần nữa đã
được khẳng định và giải thích rõ hơn. Điều 3 Luật Luật doanh nghiệp định
nghĩa: “DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh được hiểu là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi. Như vậy, theo cách định nghĩa của Luật doanh nghiệp, DN được
hiểu là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục đích kinh doanh thu lợi
nhuận.
8


DNNN trước hết được hiểu là một loại hình DN của Nhà nước. Tuy
nhiên, không nên nhầm lẫn khái niệm DNNN với khái niệm DN nói chung
theo Luật DN năm 1999 bởi vì thuật ngữ DNNN được sử dụng để phân biệt
với các loại hình DN khác cùng tồn tại trong nền kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Khái niệm DNNN ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế giới
đều có những tiêu chí khác so với khái niệm DN nói chung. Xét về mặt lý
luận, cho đến nay, trên thế giới vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về
DNNN. Tuỳ theo những đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của riêng mình
mà mỗi quốc gia đưa ra những tiêu chí khác nhau để xác định DNNN. Chẳng
hạn, có người định nghĩa DNNN xuất phát từ mục đích thành lập, có người
định nghĩa căn cứ vào cơ cấu tổ chức, mức độ vốn của Nhà nước trong DN…
Theo khái niệm của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới cũng như của

Quỹ tiền tệ Quốc tế, DNNN là đơn vị SXKD do Nhà nước thành lập, đầu tư,
xây dựng. Nhà nước có quyền chi phối hoạt động SXKD dưới các hình thức
và mức độ khác nhau. Tức là coi các DNNN là thực thể kinh tế thuộc sở hữu
nhà nước và chịu sự quản lý vĩ mơ của Nhà nưóc đối với q trình hình thành
và hoạt động của DNNN. Theo đó, DNNN là "những DN do Nhà nước nắm
toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất
định quá trình ra quyết định của DN"3.
Một số nhà kinh tế học cho rằng: DNNN được coi là một tổ chức trong
đó kết hợp những yếu tố cơng ích và những yếu tố DN. Nói cách khác, DNNN
tự nó vừa có chức năng phục vụ, vừa có chức năng kinh doanh với tư cách là
một đơn vị kinh tế. Cụ thể:
Những yếu tố “cơng ích” phản ánh chức năng phục vụ, bao gồm:
- Những quyết định về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức
Nhà nước đảm nhận mà tiêu chí quan trọng trong các quyết định này không
thuần tuý chỉ là mục tiêu lợi nhuận.
- Lợi nhuận thu được là của Nhà nước chứ không thuộc về một nhóm
cá nhân nào khác.

3

Nguồn: Báo cáo về tình hình Kinh tế -xã hội thế giới năm 1985 của Liên hợp quốc.

9


- DN chịu trách nhiệm về việc bảo đảm các lợi ích xã hội trong phạm vi
hoạt động của mình.
Như vậy, yếu tố “cơng ích” trong DNNN là đặc điểm cơ bản thể hiện sự
khác biệt của DNNN với các loại hình DN khác trong nền kinh tế cũng như
vai trị của Nhà nước trong q trình tham gia vào hoạt động kinh tế thơng

qua hệ thống DN của mình với tư cách của người điều tiết, đảm bảo các lợi
ích kinh tế - xã hội của cộng đồng.
Những yếu tố “DN”, phản ánh chức năng kinh doanh bao gồm:
- DN có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo
các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường.
- Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí. Yêu cầu này xuất phát từ
địi hỏi giá cả phải bù đắp được tồn bộ chi phí.
Mặc dù có sự khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng cũng cần
phải khẳng định rằng, DNNN chính là một bộ phận của hệ thống DN nói
chung, được hình thành và phát triển trong nền kinh tế của từng quốc gia trên
thế giới và được xác định trên cơ sở 3 tiêu chí chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về quyền sở hữu tài sản của DN: Nhà nước là chủ sở hữu
hoặc là cổ đơng chính, cổ đơng có cổ phần chi phối trong DN. Theo đó, Nhà
nước có thể thực hiện quyền kiểm sốt những chính sách chung mà DN theo
đuổi, có thể bổ nhiệm hoặc cách chức Ban quản lý DN.
Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ: DNNN được thành lập nhằm thực
hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước trên nguyên tắc đảm bảo
những lợi ích chung, lợi ích xã hội.
Thứ ba, về trách nhiệm của DN trong việc quản lý, thu chi tài chính:
DNNN cũng như các loại hình DN khác trong nền kinh tế, phải chịu trách
nhiệm độc lập về hạch tốn, thu chi tài chính trong hoạt động SXKD của
mình.
Một DN nếu thiếu điều kiện thứ nhất sẽ là DN ngoài quốc doanh. Nếu
thiếu điều kiện thứ hai thì chỉ được coi như những DN kinh doanh đơn thuần
và nền kinh tế sẽ thiếu sự cạnh tranh lành mạnh nếu Nhà nước sử dụng vốn
của mình để tiến hành những hoạt động SXKD thuần tuý. Mặt khác, một
10


DNNN khơng chịu trách nhiệm độc lập về tài chính sẽ khơng cịn được coi là

một DN nữa mà chỉ có thể được xem là tổ chức cơng cộng hay tổ chức sự
nghiệp của Nhà nước.
Tuy nhiên, tuỳ theo chính sách kinh tế-xã hội của mỗi nước, những tiêu
chí cụ thể để xác định DNNN có những khác biệt.Ví dụ, xét trên tiêu thức về
quyền sở hữu của Nhà nước, DNNN ở các nước như Úc, Tây Ban Nha thì Nhà
nước phải chiếm trên 50 % giá trị tài sản của DN, trong khi đó, ở Italia là
25%, ở Malaysia là 20% và ở Hàn Quốc chỉ là 10%.

ở Việt Nam, việc xác định DNNN cũng có những tiêu chí riêng biệt so
với tiêu chí của các quốc gia khác trên thế giới. Trước khi Luật DNNN ra đời,
thuật ngữ DNNN được sử dụng chính thức trong Nghị định 388/HĐBT ngày
20.11.1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Qui chế về
thành lập và giải thể DNNN. Điều 1 của Nghị định số 388 đã định nghĩa:
“DNNN là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý
với tư cách là chủ sở hữu”. Theo đó DNNN được xác định dựa trên những
tiêu chí sau:
- Về hình thức sở hữu về vốn: DNNN được Nhà nước đầu tư vốn và là
chủ sở hữu toàn bộ số vốn của DN.
- Về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ và mơ hình tổ chức: DNNN là một tổ
chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức bộ máy quản lý DN, định hướng
hoạt động SXKD, DNNN được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ kinh
tế-xã hội do Nhà nước giao.
- Về chế độ quản lý thu chi tài chính: DNNN thực hiện chế độ hạch
tốn kinh doanh như các loại hình DN khác và chịu trách nhiệm độc lập trong
phạm vi phần vốn Nhà nước giao.
Như vậy, theo Nghị định trên, mục đích hoạt động của DNNN được
đồng nhất và có chung mặt bằng pháp lý với các DN khác là cùng kinh doanh
vì lợi nhuận và vì thế, chưa thể hiện được vị trí vai trị của DNNN là một bộ
phận của hệ thống kinh tế Nhà nước, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, cũng như chưa thể hiện tính chất đặc biệt của DNNN là cơng cụ để


11


Nhà nước điều tiết nền kinh tế và hoạt động của DNNN khơng chỉ đơn thuần
vì mục đích kinh tế mà cịn nhằm đảo bảo những lợi ích xã hội.
Để khắc phục những hạn chế trên, Điều 1, Luật DNNN được Quốc hội
nước ta thông qua ngày 20 tháng 04 năm 1995 định nghĩa:
“DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích, nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN
quản lý.
DNNN có tên gọi, có con dấu riêng có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt
Nam”.
Định nghĩa và quan niệm trên đã xác định vị trí đích thực của DNNN,
phù hợp với sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội trong cơ chế kinh tế
mới, tạo cơ sở pháp lý nhằm vừa phát huy vai trò chủ đạo của hệ thống
DNNN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của DNNN, tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với loại hình DN này vừa thúc đẩy hệ thống DNNN hoạt động có
hiệu quả và thực hiện đúng các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của DNNN:
Theo định nghĩa tại Điều 1, Luật DNNN, chúng ta thấy DNNN có
những đặc điểm sau:
- DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, chịu sự quản lý của
Nhà nước.
DNNN là một loại hình DN nói chung, bình đẳng trước pháp luật trong
hoạt động SXKD như đối với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, tất cả

các DNNN đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định
thành lập khi thấy việc thành lập DN là cần thiết. Đồng thời, DNNN được tổ
chức và hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của một cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo sự phân cấp quản lý của Nhà nước.
12


- DNNN do Nhà nước đầu tư vốn, tài sản trong DNNN là một bộ phận
của tài sản Nhà nước.
Khi DNNN được chính thức thành lập trong đó, vốn và tài sản của DN
do Nhà nước cấp. Nhà nước chính là chủ sở hữu trái quyền hay sở hữu về mặt
giá trị4 đối với số vốn và tài sản của DNNN. Với tư các chủ sở hữu, Nhà nước
giao vốn cho DNNN quản lý và sử dụng theo qui định của pháp luật trên
nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Song, vốn và tài sản của DNNN luôn là
một bộ phận của tài sản nhà nước.
Tuy nhiên, trong thời gian qua thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới
DNNN, nhiều DNNN đã thực hiện cổ phần hố trong đó có sự tham gia đầu
tư của các cá nhân, tổ chức thuộc khu vực tư nhân; một phần tài sản của
DNNN do các cá nhân, tổ chức này góp vốn với tư cách cổ đông của công ty.
Do vậy cần hiểu một cách đầy đủ hơn về đặc điểm này, hay nói một cách
chính xác hơn là: DNNN do Nhà nước đầu tư toàn bộ hay một phần vốn theo
những điều kiện mà pháp luật qui định.
- DNNN được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
do Nhà nước giao.
Nhà nước luôn phải thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất
định. Để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đó, Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập hệ thống DN của mình và với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước giao
cho từng DNNN thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, cụ thể DNNN có
nghĩa vụ phải thực hiện và đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu kinh tế xã
hội mà Nhà nước giao cho bởi vì đây chính là mục đích của việc Nhà nước

thành lập nên hệ thống DNNN. Thông qua phương tiện vật chất là hệ thống
DNNN, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế cũng như đảm
bảo các chính sách xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản trong hoạt động của
DNNN so với các loại hình DN ngoài quốc doanh.
- DNNN là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và là chủ thể
trong các quan hệ pháp luật kinh tế, dân sự.
Điều này được thể hiện ở các khía cạnh sau:
4

TS. Nguyễn Như Phát, Quyền tự chủ về vốn và tài sản của DNNN, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
3/1999, trang 25.

13


+ DNNN được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định
thành lập (được thành lập một cách hợp pháp).
+ DNNN được Nhà nước giao vốn (có tài sản riêng) và chịu trách
nhiệm một cách độc lập bằng tài sản đó khi tham gia vào các quan hệ kinh tế,
dân sự.
+ DNNN có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động
SXKD của DN.
+ Là một pháp nhân, DNNN nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật và là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các quan hệ tố tụng.
- DNNN chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn do DN quản lý.
Trên có sở số vốn được Nhà nước cấp, DNNN tự quyết định, tổ chức
hoạt động SXKD theo qui định của pháp luật trên nguyên tắc bảo toàn và phát
triển vốn. Trong các quan hệ kinh tế, DNNN chịu trách nhiệm trước pháp luật
trong phạm vi số vốn do DN quản lý (DNNN chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phạm vi số vốn điều lệ của DN).

1.1.1.3. Phân loại DNNN
DNNN có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy
nhiên, căn cứ vào quy định trong văn bản pháp luật hiện hành, DNNN ở nước
ta được phân loại như sau:
Căn cứ theo mục tiêu hoạt động, DNNN có thể phân thành hai loại,
gồm:
- DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục
tiêu lợi nhuận. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền và nghĩa vụ quản
lý và sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để
thực hiện các mục tiêu kinh doanh, nhằm thu lợi nhuận hoặc thực hiện những
nhiệm vụ đặc biệt của Nhà nước.
- DNNN hoạt động công ích là các DNNN hoạt động sản xuất, cung
ứng hàng hố, dịch vụ cơng cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, hoạt động chủ ú khơng vì
mục tiêu lợi nhuận. DNNN hoạt động cơng ích có quyền và nghĩa vụ qủan lý,
14


sử dụng có hiệu quả vốn, kinh phí và các nguồn lực khác do Nhà nước giao
để cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ cơng ích theo kế hoạch, đơn đặt hàng
của Nhà nước theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước qui định.
Căn cứ theo hình thức tổ chức hoạt động có thể chia DNNN thành 2
nhóm chính như sau:
- DNNN độc lập là DNNN khơng ở trong có cấu DNNN khác.
- Tổng cơng ty theo Luật DNNN là loại hình Tổng cơng ty được Nhà
nước thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết tự nguyện của nhiều đơn vị
thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, cơng nghệ,
cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động
trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng
cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm

vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Tổng công ty Nhà
nước theo Luật DNNN có thể có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập;
hạch toán phụ thuộc hoặc đơn vị sự nghiệp.
Căn cứ theo cơ cấu tổ chức, DNNN gồm hai loại:
- DNNN có HĐQT: DNNN độc lập qui mơ lớn và Tổng cơng ty thường
có HĐQT, có cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm HĐQT, Tổng giám đốc hoặc
Giám đốc và bộ máy giúp việc. HĐQT thực hiện chức năng quản lý hoạt động
của DN, chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước được
Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển DN theo mục tiêu Nhà nước giao.
- DNNN khơng có HĐQT: Những DNNN có qui mơ nhỏ thường được
tổ chức theo mơ hình gồm giám đốc và bộ máy giúp việc mà khơng có sự
quản lý của HĐQT.
Căn cứ theo qui mơ kinh doanh, DNNN có thể phân thành 3 nhóm sau:
- DNNN qui mô lớn;
- DNNN qui mô vừa;
- DNNN có quy mơ nhỏ.
Căn cứ theo mức độ đóng góp vốn của Nhà nước và mức độ chi phối
của Nhà nước, ta có:
15


- DN có 100% vốn của Nhà nước là DN do Nhà nước đầu tư toàn bộ số
vốn với tư cách chủ sở hữu duy nhất của DN.
- DNNN có cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của Nhà nước,
trường hợp này đã có sự tham gia đầu tư vốn của thành phần kinh tế khác,
nhưng cổ phần chi phối của Nhà nước chiếm từ 50% tổng số cổ phần của DN,
hoặc cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất
khác trong DN. Còn cổ phần đặc biệt của Nhà nước là cổ phần của Nhà nước
trong một số DN mà Nhà nước khơng có cổ phần chi phối, nhưng có quyền
quyết định một số vấn đề quan trọng của DN theo thoả thuận trong điều lệ của

DN.
Căn cứ theo các ngành kinh tế- kỹ thuật có thể phân DNNN theo nhóm
các ngành kinh tế kỹ thuật sau đây:
- DNNN thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và phục vụ sản
xuất nông, lâm nghiệp.
- DNNN thuộc các ngành công nghiệp - xây dựng và phục vụ sản xuất
công nghiệp.
- DNNN thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin liên
lạc.
- DNNN thuộc các ngành khác,
Căn cứ tinh thần Nghị quyết Trung ương ba Khoá IX của Đảng về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
ngày 26 tháng 4 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
58/2002/QĐ-TTg ban hành tiêu chí danh mục phân loại DNNN và Tổng công
ty nhà nước. Theo tinh thần Quyết định này, về cơ bản các DNNN cũng được
phân chia theo những tiêu chí như đã trình bầy ở trên; Cụ thể là được phân
chia thành các DNNN (bao gồm các DNNN độc lập và DN thành viên của các
Tổng công ty nhà nước) và các Tổng công ty nhà nước, DNNN độc lập và DN
thành viên của các Tổng công ty nhà nước, DNNN hoạt động kinh doanh và
DNNN hoạt động cơng ích, hoặc phân chia theo qui mơ, mức độ đầu tư vốn
(ví dụ: Tổng cơng ty nhà nước phải có mức vốn từ 500 tỷ đồng trở lên, đối với
16



×