Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Nguyên nhân đưa đến thời kỳ bộ phái phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.28 KB, 9 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM

Tiểu luận giữa học kỳ 8
Môn học: Phật giáo Nguyên thủy & Đại thừa

ĐỀ TÀI

Nguyên nhân đưa đến thời kỳ Bộ phái Phật giáo

Giảng viên phụ trách: TT.TS.T. Đức Trường
Sinh viên thực hiện:
Pháp danh:
Mã sinh viên:
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 202


1
A. DẪN NHẬP
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai
yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ. Khế lý là nhấn mạnh về tính tư tướng. Khế cơ là nhấn
mạnh về tính lịch sử. Nhờ khế lý, tư tưởng ln phong phú, thâm diệu mà mình vẫn là
mình. Do khế cơ nên mọi hình thái sinh hoạt, thể hiện, truyền bá ln đa dạng, gắn bó mà
khơng hề mất gốc. Giáo sư D.T.Suzuki (1870 -1966) nhà Phật học người Nhật nổi tiếng,
trong tác phẩm "Nghiên cứu kinh Lăng Già" nơi phần bàn về: "Tầm cỡ của Phật giáo đại
thừa" đã viết: "Chẳng hạn, Kinh Pháp Hoa đánh dấu thời kỳ lịch sử Phật giáo khi Đức
Thích Ca Mâu Ni khơng cịn được xem là một nhân vật lịch sử phải chịu số phận của mọi
chúng sanh giả tạm, vì Ngài khơng cịn là Đức Phật mang tính chất người mà chính là


một vị sống bằng sự vĩnh cửu đối với lợi ích của mọi chúng sanh". Khi quốc gia phát
triển lên tầm cao mới bên cạnh đó nhu cầu con người đòi hỏi quá nhiều, khiến cho Phật
giáo Ngun Thủy khơng làm tốt vai trị của mình và cho ra đời Phật giáo Bộ Phái để đáp
ứng những nhu cầu thích ứng đó, nhưng vào thời này Phật giáo Bộ Phái lại quá chú trọng
vào các về vấn đề chuyên môn hóa như phiên dịch kinh điển, cho ra đời hai học thuyết
thượng tọa bộ và đại chúng bộ, hai trường phái này có những tư tưởng, kinh nghiệm,
đường hướng và quan niệm tu tập bất đồng tức là các vị tu sĩ lớn tuổi có tư tưởng bảo thủ,
cố hữu chấp chặc những gì được xem là truyền thống rồi đi vào rừng sâu ẩn cư tu tập và
họ quan niệm tự độ mình trước sau đó mới độ người rồi truyền bá chánh pháp, còn các vị
tu sĩ trẻ tuổi có những tư tưởng phóng khống, nắm bắt thời đại họ quan niệm về đường
hướng tu tập khác hơn tức là vừa tự độ vừa độ tha thể hiện tinh thần nhập thế, đem giáo
lý để hóa độ chúng sanh thể hiện tâm hạnh của vị Bồ Tát đi vào đời cứu khổ ban vui cho
nhân loại. Như vậy họ vừa xem trọng giới xuất gia và tại gia vừa thể hiện tinh thần nhập
thế đưa con người ngang hàng với Phật và Bồ Tát, con người chính mình là Phật là Bồ
Tát nếu như biết tu tập và hai trường phái này trở nên đối lập nhau, hơn thế nữa Phật giáo
Bộ Phái quá xem trọng người xuất gia còn đới với q̀n chúng tín đồ phật tử tại gia lại lơ
là không quan tâm chính vì thế nên khơng thể tiếp xúc trực tiếp để duy trì và hướng dẫn
đạo cho họ. Ngoài ra các tôn giáo khác thừa cơ hội này siển dương giáo lý của mình
khiến cho Phật giáo có nguy cơ suy tàn và như vậy Phật giáo chịu nhiều sức ép của nhiều
phía tác động vào và thêm vào đó những xu hướng tiến bộ của đất nước và tinh thần hoạt
động vượt bậc không ngừng của thời đại, Bộ phái Phật giáo đã không có được sự thích
ứng thỏa đáng, từ đó đòi hỏi một khuynh hướng tư tưởng mới của Phật giáo ra đời gọi là
Phật giáo Đại Thừa sau này.Vì lý do đó học viên “Ngun nhân đưa đến thời kỳ Bộ phái
Phật giáo" làm đề tài nghiên cứu của mình.


2
B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI PHẬT GIÁO BỘ PHÁI
2.1.Sự bất hoà trong tăng đoàn ở Kosambi
Nhà học giả Ấn N.Dutt cho rằng: Bất hòa đầu tiên sảy ra trong lịch sử Tăng đồn Phật
giáo có mối xung đột giữa hai nhóm Tỳ Kheo tại thị trấn Kosambi do trưởng lão
Dhammadhara thông đạt về Kinh và trưởng lão Vinayadhara thông hiểu về Luật. Nguyên
nhân dẫn đến sự mâu thuẩn đó là do Dhammadhara vơ ý vi phạm lỗi nhỏ nhưng được các
Tỳ Kheo tha thứ. Tuy nhiên Vinayadhara đem bàn tán phê bình và chỉ trích giữa chúng
đệ tử của mình nên làm tổn thương lịng kính trọng giữa người đệ tử xuất gia với
Dhammadhara vì thế nên chia rẽ giữa hai nhóm Tỳ Kheo này” . Một thời Thế Tôn ở
Kosambi, tại tịnh xá Ghosita. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ở Kosambi sống cạnh tranh, luận
tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi. Họ không tự
thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm; họ khơng tự hịa giải, khơng chấp nhận
hịa giải. Trung Bộ Kinh-Majjhima Nikaya 48- Kinh Kosambiya.Như vậy thời gian này
trong Tăng đồn Phật giáo có sự bất hịa trong nội bộ giữa chúng xuất gia. Đây là sự
tranh cãi trong Tăng đồn, chia thành hai nhóm, thời gian này đức Phật ở Kosambi nhưng
Ngài không can thiệp được nên Ngài vào rừng. Sau đó hai chúng Tỳ Kheo này thấy được
lỗi của mình đến đức Phật sám hối nên trở lại sống lục hòa và cũng trong thời gian này
chúng tại gia đệ tử của hai chúng Tỳ Kheo này cũng chia rẽ. Do vậy, tuy khơng thể nói là
phá sự hịa hợp Tăng nhưng đây cũng là mầm móng sanh khởi, rạn nứt, chia rẽ trong nội
bộ Tăng đoàn Phật giáo lúc bấy giờ. Đây là nguyên nhân thứ nhất.
2.2. Năm điều thỉnh cầu và sự đố kỵ của Tôn giả Devadatta
Sau khi trực tiếp yêu cầu Đức Phật giao phó Tăng đồn cho mình lãnh đạo khơng thành,
ơng đã mượn thế lực của vua A-xà-thế để thực hiện âm mưu ám hại Đức Phật bằng cách
cử sát thủ đến, thả voi say, lăn đá từ sườn núi… Nhưng những sát thủ hay những chú voi
đều được Đức Phật cảm hóa hoặc run sợ trước uy nghi của Ngài, trở thành vơ hại, chỉ có
hịn đá lăn làm Ngài bị tổn thương nhẹ.Devadatta sau đó lập nhóm riêng và đề ra những
nguyên tắc “khổ hạnh”, thường được nhắc đến như biểu tượng chỉ cho những người giới
hạnh không nghiêm, gây chia rẽ hay nghi kỵ trong Tăng đoàn và trong quần chúng.Trong
thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, giữa bao chuyện nhiễu nhương, chúng ta vẫn
nghe, vẫn thấy trong những câu chuyện ngoài đời hay trên mạng xã hội những bình phẩm

về đạo hạnh của tu sĩ này nọ. Thậm chí cực đoan theo kiến thức đơn thuần rồi phủ nhận
các giá trị tâm linh, mà với Phật giáo, nếu khơng thực hành thì khó có thể lãnh hội
được.Hãy nhớ Devadatta xuất gia chân chánh, nhưng chưa chứng đắc các thánh quả, nên
tâm ông chưa thuần tịnh. Mỗi khi tâm đưa được điều phục cho thuần tịnh thì vẫn cịn có
thể bị danh, lợi, quyền thế chi phối và che lấp tâm trong sáng ban đầu. Vì tham vọng lãnh
đạo mà ông đánh mất lý tưởng xuất gia chân chánh của mình.Ở một góc độ khác, chúng
ta có thể nói rằng Phật tái sinh nơi nào thì Devadatta tái sinh nơi ấy. Nhưng đừng vì thế
mà hoảng hốt, lo lắng. Bởi như Đức Phật từng dạy: “Chính vì Ta thường gặp Devadatta
nên chóng chứng đạo Bồ-đề”. Cũng như bóng tối làm ánh sáng thêm nổi bật, Devadatta
chính là mặt tối trong mỗi người chúng ta.Bi kịch đời người xảy ra khi con người khơng
biết giới hạn lịng tham. Ai biết một người dù hạnh phúc và yên ổn nhưng khi tham dục


3
bị ngăn cản thì trở thành bất mãn và phẫn nộ. Trước khi nhập Niết-bàn, Ðức Thế Tôn đã
nhắc nhở: “Như thịt thúi nơi ung nhọt... Nếu bệnh nhân không sớm lo chạy chữa, để lâu
sanh trùng độc thì phải chết... phàm phu phải sớm lo điều trị tham ái, nếu chần chờ khơng
tinh tấn thì sẽ bị đọa” (Kinh Ðại Niết-bàn, phẩm Thanh hạnh, bản dịch của Hịa thượng
Thích Trí Tịnh).Bị vướng mắc vào tham dục, lúc nào con người cũng nghĩ về mình: làm
sao để đẹp đẽ, giàu sang, có địa vị cao..., từ đó họ bất chấp mọi thủ đoạn kể cả tước đoạt
hạnh phúc quyền lợi của người khác. Đó là nguồn cơn của tệ nạn tham nhũng, trục lợi và
phe nhóm như chúng ta thấy xảy ra gần đây, bất chấp lợi ích quốc gia và số đơng.Rộng
hơn, có kẻ mưu đồ chiếm lĩnh đất đai thiên hạ, ngang ngược xâm phạm chủ quyền, bất
chấp công luận thế giới.Vị ngọt của trần thế khiến chúng ta vọng tâm chạy theo tám ngọn
gió chướng, xa rời Phật tâm của mình như gã cùng tử quên mất hạt ngọc trong tay áo.
Trong kinh Khổ ấm thuộc Trung A-hàm, Ðức Phật cũng đã mô tả một cách rất sống động
về tai hại của tham ái: “Quả thật vậy, này chư Tỳ-kheo, do tham ái vua này gây chiến với
vua kia, hoàng tử với hoàng tử, tu sĩ với tu sĩ, dân với dân, mẹ gây gổ với con, con gây gổ
với mẹ, cha cãi với con, con cãi với cha, anh chị em với nhau, bạn bè với bạn bè... Họ
giành giật bêu xấu nhau, thậm chí cịn thù nghịch nhau, dùng các binh khí giết hại lẫn

nhau, để sau đó nhận lấy hậu quả kẻ chết, người sợ hãi, rồi sanh ra hối hận – đau đớn
khốn cùng”.Qua thế giới thông tin hôm nay, chúng ta đang chứng kiến hàng ngày hàng
giờ những tội ác trên. Nguyên nhân là do những tâm sở bất thiện, trong đó tham ái là
hàng đầu, gây ra những áp bức, bất công làm rối loạn xã hội. Luật pháp, các biện pháp
trừng trị cũng chỉ là tạm thời, chỉ có “… đào sâu và bứng tận gốc rễ của tham dục” mới là
giải pháp nền tảng và lâu dài cho chính trong mỗi người và sự ổn định của xã hội.Trở lại
câu chuyện Devadatta, Đức Phật chẳng xử phạt gì. Ngài chỉ nói với Tăng chúng là
Devadatta khơng cịn là thành viên của Tăng đồn nữa. Vì sao? Với tuệ giác, Đức Phật
nhìn thấy ơng trong nhiều kiếp, nhiều đời, nhìn thấy Phật tính và khả năng thành Phật của
ơng.Chuyện xưa kể rằng khi Devadatta gần chết, một nỗi hối tiếc khơng ngừng giày vị
tâm tư ơng. Ơng bước về hướng tịnh xá Kỳ Viên để xin Phật tha lỗi, nhưng chân ơng
bỗng dính chặt vào mặt đất, ngã quỵ, và lửa địa ngục đã phụt ra, phủ lên linh hồn lẫn thể
xác của ông. Sau khi nghe kể lại về cái chết ấy, Đức Phật nói “Mặc dù Devadatta có
nhiều hành động xấu, nhưng những phạm hạnh ông thực hiện trong thời gian đầu làm Tỳkheo, dưới sự hướng dẫn của Như Lai, vẫn trổ quả tốt trong tương lai”.Nghĩa là khả tính
thành Phật trong Devadatta vẫn cịn. Cũng như Phật tính trong lịng chúng ta ai cũng có,
chỉ vì vô minh và tham dục che lấp mà chúng ta không nhận ra được mà thôi. Phật biết
Devadatta trong vô lượng kiếp, cụ thể trong 60 kiếp, không đọa ba đường ác nữa, đi đến
trong cõi trời người, sau được thân người, cắt tóc râu đi tu, mặc ba pháp y, sau thành một
vị Bích-chi Phật...”.Việc Devadatta được thọ ký thành Phật cho chúng ta thấy rằng,
khơng có gì mà không cải thiện được. Vạn vật luôn luôn vô thường. Trở thành giác ngộ
giải thoát, hay trở thành sa đọa trầm luân, đều do chính ta. Đức Phật đã nhiều lần nhắc
nhở, “Ta là nơi nương nhờ của ta”(Attàhi attano nàtho), hay ta là đấng cứu tinh của chính
ta, và làm gương cho người khác. Câu chuyện của Devadatta có thể cho những ai, dù nhất
thời phạm tội, vẫn còn một hy vọng, rằng khi đã biết quay về nẻo chánh là có lối thốt!.
Như vậy, tuy khơng phải nói là phá hòa hợp Tăng nhưng đây cũng là được xem mầm
móng, nền tảng đưa đến sự chia rẽ trong Tăng đoàn. Đây là nguyên nhân thứ hai.

2.3.Bất đồng kết quả của Kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất
Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn khoản ba tháng có Tỳ Kheo Subhadda vui mừng nói
rằng: “Thơi đủ rồi thưa các ngài, đừng có than khóc thảm thiết nữa! Nay chúng ta đã



4
thốt khỏi sự kiềm chế của đại Sa-Mơn. Chúng ta sẽ khơng cịn bị đại Sa-mơn làm bực
mình bằng việc nói rằng cái này hợp với các ngươi hay cái này khơng hợp với các ngươi.
Nhưng nay chúng ta có thể làm bất cứ gì chúng ta thích và những gì khơng thích chúng ta
sẽ làm…” . Ngài Ca-diếp khi nghe nghe được vô cùng lo lắng về sự chia rẽ trong hàng
ngũ Tăng đoàn nên triệu tập 500 vị A-la-hán, lúc này được 499 vị còn thiếu ngài A-nan vì
chưa dứt các lậu hoặc và phải chờ A-nan dứt lậu hoặc sau đó mới kết tập kinh điển, cuộc
kết tập tại hang động Sattapanna trên núi Vebhàra trong thành Rajagaha, vua A-xà-thế
ủng hộ. Lúc này A-nan cũng vừa đắc quả vị A-la-hán nên đại hội bắt đầu khai mạc. Anan trùng tuyên kinh tạng. Còn Upàli trùng tuyên về giới luật. Như vậy, kỳ kết tập kinh
điển lần thứ nhất này với mục đích là ổn định Tăng đồn và quần chúng tín đồ. Ngồi ra
cịn có “Tỳ Kheo Puràna dẫn 500 vị Tỳ Kheo đến sau khi đại hội kết tập kinh điển lần thứ
nhất kết thúc và đưa ra 8 điều giới liên quan đến vấn đề thực phẩm vào trong Luật tạng
nhưng Ngài Ca-diếp và đại chúng từ chối” . Điều này khiến ông và 500 vị Tỳ kheo bực
tức. Nhưng do ông và 500 vị Tỳ Kheo đến trể nên không nghe rỏ và ông cho rằng những
gì được kết tập có nhiều sai trái là không đúng lời Phật dạy, nên ông đưa thêm 8 điều giới
nhưng hội chúng lại không đồng ý và ông cùng 500 vị Tỳ Kheo từ bỏ Tăng đoàn vào
rừng. Đây là nguyên nhân thứ ba đưa đến những hiện tượng chia rẽ trong Tăng đoàn Phật
giáo về sau.
2.4. Khơng có người lãnh đạo
Tăng đồn là một quần thể tu tập sống dựa trên một nguyên tắc, tính kỷ luật chung. Nghĩa
là có người lãnh đạo. Nhưng đạo Phật dựa trên tinh thần tự giác của mỗi thành viên Tăng
mà thực hành những lời Phật dạy, nên khi đức Phật nhập diệt thì Ngài A-nan thưa đức
Phật rằng: sau khi Ngài nhập diệt chúng con biết nương tựa vào ai để tu tập? đức Phật nói
rằng: “Hãy nương tựa mình và nương tựa nơi pháp…tự mình làm chổ nương tựa cho
chính mình, chứ khơng cầu tìm ai khác” . Nhưng trong Tăng đồn lúc này thường đặt
mình dưới sự chỉ dạy của một bậc trưởng lão lãnh đạo tinh thần có tu tập liễu đạt hay tâm
đắc một pháp mơn nào đó như Ngài Upàli chun về luật, Ngài Xá-lợi-phất chuyên về tu
tập trí tuệ…nên tiếp nhận đồ chúng và truyền đạt cái sở đắc của mình từ đó đồ chúng tơn

sùng và họ có sự phân tranh, so sánh cho rằng mình tu pháp mơn này giải thốt hơn pháp
môn kia tốt hơn…nên trong giới tu sĩ và cư sĩ không thống nhất về đường hướng tu tập
và nảy sanh sự tranh cãi, mâu thuẫn. Đây là điểm then chốt khiến cho giới tu sĩ và cư sĩ
Phật giáo tạo ra sự chia rẽ và đây cũng là nguyên nhân thứ tư đưa đến chia rẽ và phân
phái trong Phật giáo.
2.5. Chun mơn hóa các văn bản Pali
Khi nói đến Bali là chúng ta nói đến ngơn ngữ mà sau này được sử dụng phổ cập, phổ
thông nhất sau khi được hàng đệ tử đức Phật đi truyền đạo…vào thời gian này thì có các
ngài A-nan, Upàli…hay một nhóm Tỳ Kheo nào đó được giao nhiệm vụ tụng lại những
lời Phật dạy và những vị này thông tam tạng kinh điển. Cho nên“vào thời Ấn Độ cổ đại
việc tụng đọc giáo lý và ghi nhớ từng loại kinh, luật, luận được giao phó cho từng nhóm
Tỳ Kheo chuyên mơn hóa tụng đọc. Đây là sự khởi ngun của các hình dung từ như
Dìghabhànạka tức người tụng đọc kinh Trường bộ, majjhimabhànạka tức người tụng về
Trung bộ…hay Suttantikas tức bậc thầy về kinh tạng, Vinayadharas tức bậc thầy về luật
tạng, Màtikadhàra tức người thiện xảo về luận tạng” . Và những vị trưỡng lão cho rằng
mình tụng những bộ Kinh này là số một và khơng cịn ai hơn mình nữa, họ bảo thủ, họ cố


5
chấp, như thế trong nội bộ đồ chúng của các vị trưỡng lão ấy sảy ra sự tranh cãi. Do đó
đây cũng là nguyên nhân thứ năm đưa đến sự chia rẽ trong Phật giáo. Đó là chuyện của
những vị thông tam tạng Phật giáo đã sãy ra ở xã hội Ấn Độ cổ.Ngày nay ở những nước
như Miến Điện có những vị thơng cả tam tạng kinh điển như Ngài “Tipitakadhara,
Tipitakadhara Tipitakakovida, Maha Tipitakakawida, Dhammabhandāgārika” và họ được
kính quý như quốc bảo vậy. Cho nên ngày nay việc tụng thơng cả tam tạng Phật giáo
khơng có gì lấy làm lạ vậy.
2.6.Sự ảnh hưởng của các bậc thầy danh tiếng
Trong hàng Tăng đồn thời đức Phật lúc bấy giờ có nhiều vị trưỡng lão tu tập và chứng
đắc quả vị như “ tôn giả Xá-lợi-phất ca ngợi là bậc đại trí tuệ, tơn giả Upali là bậc thầy về
giới luật…” . Cho nên mỗi khi có người muốn xuất gia thì đức Phật xem căn cơ trình độ

chủng tánh của đối tượng đó nên chỉ định cho phép họ được thâu nhận ai làm thầy xuất
gia cho mình, vì thế việt làm này gián tiếp tạo sự phân loại, tranh giành đồ chúng cho
riêng mình của các vị trưỡng lão. Hiện nay chúng ta đang có những bậc thầy danh tiếng
có thể lập ra môn phái như hoà thượng Nhất Hạnh, hoà thượng Thanh Từ, hoà thượng Trí
Quảng, hoà thượng chuyên về luật Thích Minh Thông,… Đó là những vị uy tín có
chuyên môn và lượng tín đồ lớn. Chính những vị đó nhờ đức độ tu hành đã chuyển hoá
quần chúng, khiến quần chúng đi theo. Ví dụ, tín đồ của hoà thượng Trí Quảng thì đi đâu
cũng “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, còn những người theo hoà thượng Tịnh
Không thì “Nam mô A Di Đà Phật”, những vị đi theo hoà thượng Nhất Hạnh thì “thở ra
thở vào, tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, an trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt
vời”. Cứ như thế thành ra môn phái: thiền phái Trúc Lâm, pháp môn Pháp Hoa, pháp
môn Luật tạng…Đây là khuynh hướng cũng là yếu tố thứ sáu tạo ra sự chia rẽ và thành
lập các bộ phái Phật giáo sau này.
2.7.Do 10 điều phi pháp của tỳ kheo Vajji và 5 việc của Đại thiên
“Một vài khuynh hướng đề cao trí tuệ, thiền định và xem nhẹ việc nghiêm trì giới luật
như trường hợp Devadatta hay cuộc đối thoại giữa Ưu-ba-ly. Tín đồ của Nigantha
Nataputta cũng là nguyên nhân chính tạo ra việc tranh cãi về giới luật đưa đến sự ra đời
của một số bộ phái. Ví dụ Mahàsanghika. Theo Andre Bareau nguồn lợi kinh tế tại các
khu vật như Vesali, Kosambi…đưa đến hiện tượng “cát cứ lãnh địa” để tạo nguồn cung
cấp lợi dưỡng lương thực lâu dài, đây là nguyên nhân chính đưa đến sự phân phái, song
song đó cũng có những bất đồng của nhóm tỳ kheo thiếu phẩm hạnh như Bàhiyo đệ tử
tôn giả Anurudha ”. Như chúng ta đã biết người tu tập cái quan trọng là giới định tuệ,
trong ba yếu tố không thể tách rời. Nhưng căn cứ ở trên chúng ta thấy rằng: khi tu tập có
trí tuệ và đưa đến thiền định nhưng không giữ giới mà xem nhẹ giới bổn thì sẽ gây ra
những ngộ nhận khơng tốt của các bộ phái khác. Cho nên trong ba yếu tố này quan trọng
và khơng thể thiếu vậy. Dù có tu tập pháp mơn nào đi nữa nhưng khơng hành trì giới định
tuệ thì xem như rắng mất đầu, đạo đức suy đồi, mất tư cách phẩm hạnh của vị Tỳ Kheo.
Vì thế đừng vì lợi dưỡng trước mắt mà đánh mất tư chất của người tu. Đây cũng được
xem là nguyên nhân thứ bảy và cũng là nền tảng mở đường ra đời của các bộ phái trong
Phật giáo vậy.

2.8.Hiện tượng các cứ lãnh địa cho nguồn lợi kinh tế


6
Để duy trì đời sống Tăng đồn và một phần đáp ứng nhu cầu con người đương thời, đòi
hỏi họ mở ra các phương tiện, phương hướng nhằm để thích ứng, thích nghi và vơ tình
làm cho Tăng đồn bội thu, quá nhiều lợi dưỡng, Tăng đoàn lúc này chỉ lo mở mang các
lãnh địa và tạo nguồn lợi kinh tế mà lơ là việc tu tập thiền định, rèn luyện phẩm hạnh đạo
đức, khơng quan tâm hướng dẫn tín đồ đi đúng con đường chân lý. Từ đó một số tín đồ
họ thấy trong Tăng đồn khơng cịn chun tâm tu tập thiền định…đưa đến giải thoát mà
thây vào đó là làm lợi ích, lợi dưỡng cá nhân và tơ bồi bản thân nên họ bất mãn và tự
mình thành lập các đạo tràng tụng niệm, lo chùa chiền…thây vì những việc làm này của
chư Tăng nhưng giờ đây họ thế cho chư Tăng. Đây là nguyên nhân thứ tám đưa đến sự
phân chia, trong Tăng đoàn Phật giáo và cũng là mầm móng sinh khởi chia rẽ vậy.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY
2.1.Cá nhân
Những nhân tố nào làm cho Phật giáo có giá trị mãi mãi với thời gian? Trước hết đó là sự
nhận biết trách nhiệm của cá nhân. Đức Phật là một bậc Thầy tôn giáo nổi tiếng trong
lịch sử nhân loại, Ngài đã giải thoát con người ra khỏi tất cả mọi ràng buộc, những ràng
buộc siêu nhiên, một Thượng đế, sự sáng tạo vũ trụ, tội lỗi nguyên thủy hay một đặc tính
nào khác mà ta đã được di truyền từ một người nào đó (khác với bất cứ điều gì mà chính
ta đã làm). Vì vậy, Khi Đức Phật nói rằng mỗi người là chủ nhân ơng của chính mình,
Ngài tun bố một ngun tắc mà khả năng áp dụng trở nên mạnh hơn khi con người mỗi
lúc mỗi tự tin hơn trong việc kiểm sốt bản thân và mơi trường xung quanh. Vì thế, nếu
ngày nay, với khoa học và kỹ thuật phát triển, con người cảm thấy mình đã đến một điểm
mà trí tuệ của mình khiến cho mình siêu đẳng hơn vạn vật, hay cho mình có thể giải
quyết bất cứ vấn đề nào mà mình đã gặp dù vật chất hay đạo lý hay chính trị hay một tính
chất nào khác, thì ngun tắc con người là chủ của chính mình và chịu trách nhiệm cho

chính mình về bất cứ những gì mình đã làm. Nhận ra được điều đó rất quan trọng để tự
nhìn lại bản thân mình.Vì vậy, phương cách tiếp cận cơ bản này sẽ giúp cho con người
thoát khỏi mọi ràng buộc hoặc tinh thần hoặc có tính chất khác là một trong những giáo
lý quan trọng của Phật giáo mà nó đã góp phần cho tính khơng thời gian của tơn giáo này.
Khi chúng ta tiến tới với những tiến bộ lớn hơn của con người, sẽ có nhu cầu lớn hơn cho
con người khẳng định sự tự chủ của chính mình.
2.2. Trở về với Phật giáo Nguyên thủy
Phật giáo không phải là một trong những triết học hay lối sống hay tơn giáo đó, chúng ta
dùng danh từ "tơn giáo" vì khơng có sự phân loại nào khác để Phật giáo có thể được đặt
gọn vào, do đó khơng cần phải có một nhãn hiệu. Trong thời của Đức Phật, người ta đến
với Ngài và nếu họ hài lịng với Ngài, họ sẽ nói: "Con muốn trở về với Ngài, trở về với
lời dạy của Ngài và trở về với Tăng đoàn của Ngài, với cộng đồng và với những đệ tử đi
theo lối sống này". Ngay cả hiện tại cũng thế, đó là tất cả những gì cần thiết cho bất cứ ai
gọi mình là Phật tử. Như vậy sau khi đã biết rằng những gì Đức Phật dạy là thích họp với
những vấn đề dời sống của mình và cảm thấy rằng trong đó có một lối sống mà mình có
thể ứng dụng và đem lại lợi ích cho mình, người nào quy y với Phật, Pháp và Tăng với
niềm.tin như vậy thì họ sẽ trở thành người Phật tử mà khơng cần mộ lễ nghi nào, không


7
một loại hình thức nào, khơng đăng ký, khơng thể lệ nào để phải làm theo. Vì vậy mà,
F.L Woodword, một trong những dịch giả nổi tiếng về những lời dạy của Đức Phật, đã
từng nói Phật giáo là "tơn giáo tự mình làm lấy”. Trong tơn giáo tự làm này khơng cần
tên gọi mình là người Phật tử, có nguyên tắc hay các giới luật mà ta phải làm theo để trở
thành người Phật tử hay khơng? Ta có phải sống theo lối sống mà Đức Phật đã dạy
không?Điều tối quan trọng ngày nay là có thể có hàng ngàn người chưa bao giờ bước đến
một ngôi chùa Phật giáo nào, chưa bao giờ tham gia vào một lễ nghi nào của Phật giáo,
nhưng đã nhận biết trong tâm họ cái giá trị bức thông điệp của Đức Phật và đã sống theo
những lời dạy ấy. Trên thực tế, chúng ta thấy đại đa số các dân tộc trên thế giới đã quy
ngưỡng Đức Phật vì lý do này hay lý do khác. Đây là một trong những điều đáng chú ý

nhất mà người ta có thể xem gần như là một phép lạ. Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất
đơn giản, đối với người tại gia, chỉ áp dụng năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không
trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối và khơng uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc
thật sự rất đơn giản. Nhưng lối sống của Phật giáo, con đường mà Đức Phật đã mô tả
không ngừng lại ở luật tắc này. Lời dạy đó được đơn giản hóa theo một cách mà ai cũng
có thể hiện được và làm được là bố thí (dàna), trì giới (sila) và thiền định (bhàvana). Bố
thí (dàna) là cho người khác một cách rộng rãi. Rất quan trọng cho một Phật tử thực hành
bố thí này như một hạnh đầu tiên phải làm để đi vào con đường chân chánh, vì cho người
khác là một hành động hy sinh. Có khả năng cho ra một cái gì là sửa soạn tâm trí trọn vẹn
để từ bỏ vật sở hữu của mình, cái mình yêu q, cái mình đã buộc dính vào. Do đó, ta đối
mặt với một trong những nguyên nhân lớn nhất là dục vọng và tham lam. Thật là hấp dẫn
khi ta thấy lối sống này được hướng dẫn theo cách thức mà khi áp dụng từng bước một,
ta sẽ loại bỏ được một số nhược điểm và cá tính con người vốn đã tạo ra sự căng thẳng và
nhàm chán quấy nhiễu chúng ta hàng ngày. Thái độ rộng lượng, bao dung với người khác
là liều thuốc chống dục vọng, tham lam, keo kiệt và ích kỷ.Trì giới (Sila) là giữ một số
luật tắc.đạo đức và luân lý Đức Phật biết rõ là người ta không thể đặt những điều lệ hay
kỷ luật cho mọi người theo cùng một phương cách. Vì vậy chỉ có mọt số luật tắc cho
người tại gia. Có thêm một ít điều khác cho những người muốn sống ở tự viện trở thành
người xuất gia, những người tự nguyện đi theo con đường nghiêm khắc của luật tắc và
thanh tịnh hóa. Vì thế trì giới là một sự thực hành dần dần để mỗi người chọn theo khả
năng hiện tại của bản thân.Cuối cùng là Thiền định (Bhàvana), hay luyện tập tâm trí.
Bhàvana có nghĩa ngun thủy là phát triển, sự phát triển thêm trí tuệ. Đức Phật cho rằng
mọi sự đều phát nguồn từ tâm trí của con người, và Ngài là một trong những người đầu
tiên phát biểu về điều này. Hiến chương của Liên Hiệp Quốc mở đầu với câu "Vì chiến
tranh bắt đầu từ trong tâm trí của con người, cũng từ trong tâm trí con người mà sự bảo
vệ hịa bình được thiết lập". Câu này phản ánh đúng theo tinh thần lời dạy đầu tiên của
Phật trong kinh Pháp Cú: " Tam dẫn đầu cá pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác". Một tâm trí
có thể được kiểm sốt bởi ý chí, một tâm trì khơng chạy theo ngoại cảnh để đưa đến sự
căng thẳng và nhàm chán, ngược lại luôn được tỉnh thức, luôn tự phát triển, luôn tự khám
phá, một tâm trí như thế là kho báu lớn nhất của con người.Chúng ta khơng có gì ngạc

nhiên khi thấy trong các quốc gia phát triển khoa học kỹ thuật cao nhất có một nhu cầu
gần như cuồng nhiệt là luyện tập đủ các loại thiền định. Ai thuyết giảng điều gì, triết lý
gì, kỹ thuật nào được chấp nhận không phải là vấn đề quan trọng. Sự thật là người ta bắt
đầu nhận ra rằng mỗi lúc chiêm nghiệm trong yên tĩnh, mỗi lúc tư duy sâu lắng, mỗi lúc
tâm trí vận động có sự kiểm sốt đúng, có hướng dẫn đúng, là một điều thiết yếu cho
cách sống tốt của con người.


8

C. KẾT LUẬN
Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, Phật giáo trở thành
chỗ dựa trong đời sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng. Các chuẩn mực
của đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng
tích cực đến quần chúng. Với tư tưởng từ bi, cứu khổ, chùa đã dang rộng vịng tay đón
các bác xe ơm, xích lơ các bà bán hàng rong, các cháu bán báo, vé số, đánh giày, ăn xin...
vào nghỉ trưa ở ghế đá, dưới bóng mát của các tán cây và họ thường được mời ăn bữa
cơm chay đạm bạc cùng với tăng ni trong chùa. Hình ảnh đó đã trở thành quen thuộc với
nếp sống thường ngày của nhiều ngôi chùa, đặc biệt các ngôi chùa ở những nơi đông dân
cư. Nhiều người coi chùa là ngơi nhà thử hai của mình, những ngơi chùa ấy trở thành nơi
nghỉ ngơi, nơi chia sẻ bớt những khó khăn của họ lúc thiếu thốn, ốm đau, căng thẳng của
cuộc sống đời thường. Đạo Phật đã tạo được cảm tình, niềm tin và sự tơn trọng của nhiều
người dân. Đến nay, hầu hết chùa của Thành phố đều có phịng thuốc Đơng y - Nam y từ
thiện chữa bệnh miễn phí. Các tuệ tĩnh đường, trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật, cô nhi
viện lần lượt ra đời. Các hoạt động cứu trợ đồng bào bị thiên tai, xố đói giảm nghèo, xây
nhà tình nghĩa, trường học, trạm y tế diễn ra thường xuyên trong những năm qua thật sự
có ý nghĩa sâu sắc, xuất phát từ tư tưởng đại từ đại đức, từ bi, cứu khổ, cứu nạn của đạo
Phật. Chỉ trong năm 2004, Phật giáo Thành phố đã ủng hộ quỹ từ thiện với số tiền lên đến
47.041 triệu đồng (Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, 2004). Đây là số tiền
khơng nhỏ góp phần giải quyết phần nào cho những người gặp hồn cảnh khó khăn. Dù

chúng ta quyết định thế nào về việc đạt được mục đích có một điều mà chúng ta khơng
thể thốt khỏi, chúng ta khơng thể chối bỏ sự kiện tất cả những phát triển hiện đại khơng
mang lại điều gì ngồi sự bất an và sự đấu tranh không ngừng nghỉ của con người, Phật
giáo đã cống hiến một số phương pháp rất đơn giản và rất hữu hiệu để hóa giải những
điều đó. Vì vậy, người viết thấy rằng Phật giáo có một vai trị quan trọng trong đời sống
của chúng ta, một vai trò mà trong đó chúng ta, những người Phật tử, tham dự một phần
quan trọng vào đời sống xã hội. Bổn phận của chúng ta là chia sẻ những kinh nghiệm,
những hiểu biết của mình với càng nhiều người càng tốt để cuối cùng tất cả chúng ta thấy
được bức thông điệp của Đức Phật dành cho chúng sinh tiếp tục đến với loài người trên
khắp năm châu bốn bể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Thích Hoằng Trí (dịch), Khái Thuật Phật Giáo Ấn Độ, Nxb Phương Đông, 2009,
tr.252.
[2] Edward Conze, Tư Tưởng Phật Giáo Ấn Độ, Hạnh Viên (dịch), Nxb Phương Đông,
2011, tr.39-43.
[3] Viên Trí, Ấn Độ Phật Giáo Sử Luận, Nxb Phương Đơng, 2009, tr.176-183.
[5] Thích Hoằng Trí (dịch), Khái Thuật Phật Giáo Ấn Độ, Nxb Phương Đông, 2009,
tr.249.
[6] Kimura Taike , Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Thích Quảng Độ (dịch), tr.58.



×