Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

TÁC ĐỘNG của AFTA đối với nền KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.8 KB, 8 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA AFTA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam
1. Nội dung cơ bản của AFTA
AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN Free
Trade Area).
Quyết định thành lập Khu vực thương mại tự do này được đưa ra tại Hội nghị Thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ chức vào tháng 1/1992 tại Singapore. Theo kế hoạch ban đầu,
AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng
cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế
giới". Tuy nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế toàn
cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm 1994, khối này
quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003.
Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành viên mới là Việt
Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về thực chất, CEPT là một thỏa thuận
giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống còn 0-
5% thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức
thuế ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu
và những hàng rào phi quan thuế khác.
Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là:
Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003.
Với Việt Nam: từ 1996 đến 2006
Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008.
Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân loại tất cả hàng hóa
của mình vào một trong các danh mục sau:
Danh mục giảm thuế (IL)
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL)
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL)
Danh mục nhạy cảm (SL)
Danh mục nhạy cảm cao


Danh mục giảm thuế (IL) bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế quan để đến
khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%. Ngay sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN
phải đưa ra IL của mình để bắt đầu giảm thuế quan từ năm 1993. Trên thực tế, không
phải mặt hàng nào trong IL cũng thực sự phải giảm thuế quan, vì có những mặt hàng
trước khi đưa vào IL đã có thuế suất dưới 5%, thậm chí bằng 0%.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế
quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản
xuất trong nước thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế gia tăng.
Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu chuyển dần các mặt
hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế quan đối với những mặt hàng này. Quá
trình chuyển từ TEL sang IL được phép kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được
20% số mặt hàng. Điều đó có nghĩa là đến hết năm thứ tám thì IL đã mở rộng bao trùm
toàn bộ TEL, và TEL không còn tồn tại.
Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình giảm thuế quan
của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành CEPT.
Ví dụ: Khi tham gia CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao gồm 50 mặt hàng, TEL của
nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996, nước A phải bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu
mỗi năm chuyển đều 20% thì năm 1996, IL của nước này có 50 + (100*20%) = 70 mặt
hàng và TEL giảm đi còn 100 - (100*20%) = 80 mặt hàng. Năm 1997, IL sẽ là 90 và
TEL sẽ là 60. Ba năm tiếp sau đó, các con số tương ứng sẽ là 110/40, 130/20 và 150/0.
Đến năm 2000, IL của nước A sẽ bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không còn mặt hàng
nào nữa.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) bao gồm những mặt hàng không có nghĩa vụ phải
giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng
này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khỏe con người, động thực
vật; bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ
GEL không phải là Danh mục các mặt hàng Chính phủ cấm nhập khẩu (NK). Một số mặt
hàng có trong GEL vẫn được NK bình thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu đãi như
các mặt hàng trong danh mục giảm thuế.
Ngoài cơ chế này, để hiện thức hóa AFTA, các nước ASEAN còn ký kết hàng loạt các

thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên,
công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hóa của nhau, tăng cường hợp tác trong
lĩnh vực hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp và xây dựng Khu
vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - AIA).
2. Quá trình tham gia của Việt Nam
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN và cam kết
tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu
thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt
hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế
suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm
2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số
mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các
mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006.
Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế suất trung bình
của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là nước có mức thuế suất trung
bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và Brunei.
Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức tại
Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc
cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.
Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa số đó là những mặt
hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao (30-100%), hoặc đang được quản
lý bằng hạn ngạch như xi măng , giấy , hàng điện tử, điện gia dụng , cơ khí, vật liệu xây
dựng
II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam
Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có của nó đối với các
nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ thể và tiến trình thực hiện AFTA
của Việt Nam, AFTA có thể có những tác động trên các mặt chính sau:
1. Thương mại

1.1. Nhập khẩu:
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25% kim
ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT.
Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới việc NK những mặt hàng này.
Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy
chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác
động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục loại trừ tạm
thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dần các hàng rào phi thuế
quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể NK, nhất là
những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên nếu những mặt
hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh lại được.
1.2. Xuất khẩu:
a. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác:
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan.
Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt
Nam sang các nước này không lớn do các nguyên nhân sau:
Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu (XK):
Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20-23% kim ngạch xuất khẩu (XK)
của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những mặt hàng được hưởng thuế suất
CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch XK sang ASEAN, tương đương với dưới 4%
tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm 2001. Và mức tăng XK của những mặt hàng này
sang các nước ASEAN khác cũng không lớn.
Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình độ thua
kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của
chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác.
Xét về bạn hàng:
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với Singapore. Phần

lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái xuất sang các nước khác. Nhưng ở
nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTA vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do
vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại
của Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều XK Việt Nam nếu
xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ cấu sản xuất và
XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong
danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về yếu
tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN.
b. Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN:
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt Nam sang các
thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất XK với giá rẻ hơn từ các
nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện
để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.
Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Mỹ (General
System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định "giá trị một sản phẩm được sản xuất tại
một nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì
được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu
"giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau khi hoàn
thành thủ tục hải quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành viên
khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên
liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và
thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị trường thế
giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng được hưởng những lợi ích tương tự.
Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với
các thành viên khác trong hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực.
Cũng cần nói thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ chức Hợp tác Kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương ( APEC ) tháng 11/1998 là những sự chứng minh, là bước chuẩn bị,

tập dượt để gia nhập WTO.
2. Đầu tư nước ngoài
2.1. Đầu tư từ các nước ASEAN khác
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng hợp lý hóa.
Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của một số nước sẽ bộc lộ sự thua kém
về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà kinh
doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các nước ASEAN khác có các yếu tố thuận
lợi hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các nhà đầu tư
ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ có nhiều thuận lợi về thủ
tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam.
2.2. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác
Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài khu vực. Đó là
bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một số nước và đưa ra tiêu thụ ở
tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị trường tiềm năng rộng
lớn hơn nhiều lần nước đó.
Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư
vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với 80 triệu dân, mà còn tính đến
cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.
Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem xét để đi đến quyết
định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài nếu không đi kèm với
sự ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động giá rẻ
và có tay nghề cao Có thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia hiện nay. Mặc dù Indonesia đã
hoàn thành AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhưSony , Matsushita đã và
đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo ngại và thất vọng
trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền lực và tham nhũng
Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên của AFTA. Vì nếu như trước đây,
Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để vượt qua hàng rào thuế
quan và các hạn chế NK vào thị trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư nước

ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên AFTA, nếu
môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư Việt Nam, các nhà đầu
tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ cần
mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các nước AFTA, đặc biệt
là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt, rồi từ đó
bán hàng sang Việt Nam.
Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác mà AFTA đem
lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu
tư.
3. Công nghiệp
Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên không còn được bảo
hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp khu vực theo hướng chuyên môn hóa và
phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý hơn. Nhưng đây là sự thay đổi và phân bổ mang
tính động và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ quan của từng nước.
Singapore sẽ đẩy mạnh phát triển các ngành hóa chất, trang thiết bị vận tải và linh kiện
điện tử, trong khi đó sẽ bỏ ngỏ các ngành cần nhiều lao động và khoáng sản. Malaysia thì
có sự sắp xếp ngược lại. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu
như công nghiệp giấy, chế biến gỗ, may mặc và dệt sẽ tăng nhanh. Trong khi đó, các
ngành thiết bị vận tải, hóa chất, đồ gỗ, thực phẩm đã qua chế biến sẽ giảm mạnh.
Cũng giống như tại các nước ASEAN, ở một mức độ nào đó, AFTA sẽ làm thay đổi cơ
cấu công nghiệp của Việt Nam. Trong đó, một số ngành sẽ phát triển, một số ngành sẽ bị
thu hẹp.
Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và thời gian để chuẩn bị và vươn lên để
có thể đứng vững và phát triển vì:
Thứ nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối với Việt Nam được
cộng thêm 3 năm;
Thứ hai, cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần phải đưa ngay một lúc
tất cả các danh mục hàng hóa vào chương trình giảm thuế. Những mặt hàng nào có tỷ
trọng NK cao và có khối lượng giá trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa có thể sẽ đưa
vào giảm thuế chậm hơn;

Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi thuế quan (nếu có đối
với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa bỏ;
Thứ tư, việc cắt giảm thuế NK đối với một số nguyên liệu, sản phẩm đầu vào sẽ làm giảm
chi phí sản xuất và do vậy, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm
công nghiệp.
Vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà kinh doanh là làm
thế nào để tận dụng được những cơ hội và thời gian một cách có hiệu quả, định hướng cơ
cấu công nghiệp và mặt hàng kinh doanh như thế nào để có thể phát huy được lợi thế so
sánh của Việt Nam trong phân công lao động khu vực.
Trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp theo cơ chế kinh tế mở, Nhà nước cần tạo
môi trường thuận lợi và đầu tư thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý
trong thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh không
những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, mọi sự bảo hộ của Nhà nước đều có giới hạn. Để đứng vững và phát triển, các
doanh nghiệp cần phải khẩn trương nghiên cứu nhu cầu thị trường trong nước và khu
vực, khả năng cạnh tranh của các nước ASEAN trong cùng lĩnh vực để kịp thời điều
chỉnh cơ cấu sản xuất, đổi mới trang thiết bị và công nghệ, nâng cao năng lực quản lý khi
sự bảo hộ không còn nữa, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam về cơ bản sẽ
hoàn thành AFTA vào năm 2005.
4. Ngân sách nhà nước
Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT chắc chắn sẽ
tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít nhất là trong giai đoạn đầu khi Việt Nam thực sự
cắt giảm thuế quan, tức là từ 1/7 năm nay. Theo số liệu những năm gần đây, NK từ các
nước ASEAN chiếm khoảng 20-23% kim ngạch NK của Việt Nam, trong khi đó, thuế
NK (trừ dầu thô) đóng góp khoảng 25% tổng số thu ngân sách. Như vậy, về mặt số học
đơn thuần, khi cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm.
Về dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. Như vậy, cơ sở để tính toán
rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do thực hiện CEPT sẽ được bù lại bằng tăng thu
do kim ngạch buôn bán tăng và tăng thu từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập công ty

Tuy nhiên, đây cũng chỉ là lý thuyết, thực tế còn phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất
trong nước, hiệu quả của hệ thống thuế và bộ máy thu thuế.
Tóm lại, tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam trên con
đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội
mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi sự
nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để khai thác triệt để các cơ hội và hạn chế đến mức thấp
nhất ảnh hưởng tiêu cực do các thách thức đưa đến.
Không nên coi việc thực hiện AFTA như một quá trình hay hành động riêng biệt, mà phải
đặt nó trong lộ trình hội nhập và tự do hóa thương mại tổng thể, trong đó, mục tiêu nhất
quán được xác định bởi khuôn khổ WTO.

×