Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

bài thu hoạch số 06 dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.52 KB, 11 trang )

KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BỘ MÔN LUẬT SƯ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ

BẢN THU HOẠCH
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS.DS - 06
Vụ án: TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ:
LUẬT SƯ ĐẠI DIỆN CHO NGUYÊN ĐƠN

Họ và tên : ………….
Vai diễn án : Nguyên đơn bà Chu Thị Thanh
Sinh ngày : ………….
Số báo danh : ………….
Lớp Luật sư : ………….

Hà Nội, ngày 03 tháng 4 năm 2022


MỤC LỤC
I. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU CỦA ĐƯƠNG SỰ........1
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp..................................................................................1
2. Yêu cầu của nguyên đơn........................................................................................3
3. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.....................................3
II. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TỊA.....................................................................3
1. Hỏi ngun đơn – ơng Chu Văn Sinh.....................................................................3
2. Hỏi nguyên đơn – bà Chu Thị Thanh.....................................................................3
3. Hỏi bị đơn – bà Đinh Thị Tám...............................................................................4
4. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan .......................................................5
5. Hỏi người làm chứng.............................................................................................5
III. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN.................................................................5



I. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU CỦA ĐƯƠNG SỰ.
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp.
- Nguyên đơn:
(1)- Bà Chu Thị Hồng Thanh (tên gọi khác: Chu Thị Thanh), sinh năm 1930
Người đại diện theo uỷ quyền: Chị Chu Thị Hồng Tâm, sinh năm 1970
Cùng địa chỉ: Số nhà 12 tổ 16, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ,
tỉnh Điện Biên.
(2)- Ông Chu Văn Sinh, sinh năm 1936
Địa chỉ: thơn Vạn Thắng, xã Hồ Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị đơn:
(1)- Bà Đinh Thị Tám, sinh năm 1930
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
(1)- Bà Chu Thị Loan, sinh năm 1935
Địa chỉ: Tổ 3, phường Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái
(2)- Bà Chu Thị The, sinh năm 1944
Địa chỉ: Đội 1, thơn Diên Điền, xã Bình Hòa, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam
Định.
Đại diện ủy quyền cho bà Loan và bà The: ông Chu Anh Quyết, sinh năm
1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
(3)- Ông Chu Khắc Hồng, sinh năm 1956
(4)- Bà Trần Thị Đắc, sinh năm 1957
(5)- Bà Chu Thị Mai, sinh năm 1952
Địa chỉ ông Hồng, bà Đắc, bà Mai: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam.
Nội dung vụ tranh chấp:
Ông Chu Khắc Trường (đã chết năm 1945) và bà Chu Thị Cúc (đã chết năm
1990) có với nhau 4 người con là Chu Thị Thanh (sinh năm 1931), Chu Thị Loan

(sinh năm 1934), Chu Văn Sinh (sinh năm 1939), Chu Thị The (sinh năm 1944).
Ơng Trường, bà Cúc có mảnh đất diện tích 777m 2 thuộc thửa số 40, tờ bản đồ
số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, Tp. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trên mảnh đất
này, ông Trường và bà Cúc đã xây dựng một căn nhà gỗ hai gian lợp ngói, vách đất
với diện tích là 183,4 m2.
Năm 1945, ông Trường mất. Bà Cúc tiếp tục ở lại mảnh đất và nhà nói trên.
Sau đó, lần lượt 4 người con bà Cúc rời quê lập gia đình và đi làm ăn xa. Năm 1990,

1


Bà Cúc mất khơng để lại di chúc, bà có để lại tài sản gồm một nhà gỗ hai gian lợp
ngói, vách đất và một số cây lâu năm trên diện tích đất 777m2.
Ngày 20/01/1994 ơng Chu Khắc Sinh tự ý lập giấy chuyển nhượng tài sản thừa
kế trên bao gồm: đất thổ diện tích 502m2, một nhà hai gian mái ngói vách đất, ao
cùng tồn bộ cây cối lưu niên trong vườn cho vợ chồng ông Chu Khắc Thuyên và bà
Đinh Thị Tám giá trị là 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) mà khơng có sự đồng
ý của các đồng thừa kế khác.
Tháng 4/1994, bà Chu Thị Thanh và bà Chu Thị The về q thì biết việc ơng
Sinh chuyển quyền thừa kế cho ông Thuyên nên đã làm đơn khiếu nại đến UBND xã
Phù Vân. Ngày 10/04/1944, UBND xã Phù Vân ra thơng báo số 05/TB-UB tạm đình
chỉ việc chuyển nhượng nói trên giữa ơng Sinh và vợ chồng ông Thuyên.
Ngày 15/04/1994, bốn chị em bà Thanh, ông Sinh, bà Loan, bà The đã thống
nhất làm giấy ủy quyền giao mảnh đất cho ông Thuyên và bà Tám để trơng nom,
quản lý với nội dung là: Để có nơi hương khói thờ phụng ơng bà, cha mẹ và cũng là
nơi anh chị em gặp mặt trong những ngày giỗ, tết hàng năm. Thời hạn giao là 05
năm bắt đầu từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999. Người được sử dụng phải có
giao ước sau: Nhà cửa tu sửa giữ để ở, không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản
phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ đối với nhà nước (trồng cây ngắn ngày). Không được
xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào

khoét, cây cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên
hằng năm phải có sự chứng kiến của 2 bên nội, ngoại. Số tiền đó ơng Thun được
hưởng 50% (năm mươi phần trăm), phần còn lại 4 chị em bà Thanh sử dụng (mã số
ở ngân hàng do bà Chu Thị Thanh đứng tên).
Đầu tháng 5/2016, bà Tám tiến hành xây dựng nhà trên mảnh đất diện tích nói
trên. Khơng đồng ý với việc xây cất trên, cuối tháng 5/2016, bà Thanh đã trở về quê
ngăn cản và báo chính quyền cơ sở thôn. Ngày 19/6/2016, UBND Xã Phù Vân đề
nghị giải quyết tranh chấp đất đai giữa 4 chị em bà Thanh với bà Đinh Thị Tám và tổ
chức hòa giải cho bà Thanh và bà Tám nhưng không thành. Ngày 25/10/2016,
UBND Xã Phù Vân tiếp tục tổ chức hòa giải cho bà Thanh, ông Sinh và bà Tám
nhưng vẫn không thành.
Ngày 05/11/2012, bà Thanh và ông Sinh gửi đơn khởi kiện đến TAND Thành
phố Phủ Lý, Tỉnh Hà Nam để yêu cầu bà Tám trả đất, trả nhà, cây cối trên đất và
50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994.
Ngày 09/11/2012, TAND Thành phố Phủ Lý, Tỉnh Hà Nam ra thông báo số
20/TB-TLVA về việc thụ lý vụ án. Ngày 23/02/2013, TAND Thành phố Phủ Lý,
Tỉnh Hà Nam tiến hành hòa giải lần 1 cho các đương sự.

2


Ngày 23/02/2013, ông Sinh làm đơn yêu cầu định giá tài sản, với tài sản định
giá là: thửa đất số 2 tờ bản đồ số 40 lập năm 1998, diện tích 777,4m 2, nhà cửa vật
kiến trúc, cây cối và hoa màu trên đất. TAND Thành phố Phủ Lý, Tỉnh Hà Nam ra
quyết định số 02/2012/QĐ-ĐG quyết định định giá tài sản. Ngày 01/3/2013, TAND
Thành phố Phủ Lý, Tỉnh Hà Nam đã tiến hành định giá tài sản tranh chấp.
Ngày 03/8/2013, TAND Thành phố Phủ Lý, Tỉnh Hà Nam ra quyết định số
65/2012/QĐST-DS đưa vụ án ra xét xử.
2. Yêu cầu của nguyên đơn
Nguyên đơn bà Chu Thị Hồng Thanh (Chu Thị Thanh), ông Chu Văn Sinh yêu

cầu bà Đinh Thị Tám phải:
(1)- Trả lại diện tích 777m2 đất tại thửa số 40 lập năm 1998, địa chỉ: thôn 6, xã
Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu Thị Thanh, ông Chu Văn
Sinh, bà Chu Thị Loan và bà Chu Thị The.
(2)- Tháo dỡ nhà và các cơng trình đã xây dựng trái phép trên thửa đất.
(3)- Trả lại nhà và cây cối trên diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 lập năm
1998 của gia đình và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể
từ ngày 15/4/1994 đến 15/4/1999 theo giấy gửi UBND xã Phù Vân, thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam (15/4/1994).
3. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn gồm có:
- Chứng minh nhân dân của bà Chu Thị Thanh;
- Chứng minh nhân dân của ông Chu Văn Sinh;
- Giấy chứng nhận ông Chu Khắc Trường đã chết (BL16);
- Giấy chứng tử của bà Chu Thị Cúc (BL17);
- Sổ hộ khẩu;
- Trích lục bản đồ thửa đất;
- Thông báo của UBND xã Phù Vân ngày 10/4/1994;
- Biên bản hòa giải của UBND xã Phù Vân ngày 19/6/2012, ngày 25/10/2012;
- Báo cáo số 79/BC-UBND ngày 25/10/2012 của UBND xã Phù Vân về kết
quả giải quyết tranh chấp;
- Giấy chứng tử của bà Cúc, giấy xác nhận ông Trường đã mất;
- Giấy uỷ quyền trông nom ngày 15/4/1994;
- Giấy giao quyền sử dụng ngày 22/11/2001;
- Thông báo số 05/TB-UB ngày 10/4/1994 của UBND xã Phù Vân về tạm đình
chỉ việc chuyển quyền thừa kế.
Các biên bản họp gia đình ngày 10/01/2007, ngày 05/6/2012
II. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TOÀ

3



Mục đích: Làm sáng tỏ các sự việc, đồng thời chứng minh yêu cầu của Nguyên
đơn – bà Chu Thị Thanh và ơng Chu Văn Sinh là có căn cứ và hợp pháp.
1. Hỏi nguyên đơn: Chu Văn Sinh
(1)- Ông hãy trình bày cho HĐXX biết, có phải ơng đã chuyển quyền thừa kế
cho ông Thuyên vào ngày 20/1/1994 đối với thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2 có diện
tích 777 m2?
(2)- Việc ơng chuyển quyền như vậy đã được sự đồng ý của các chị em ông
chưa?
(3)- Vào thời điểm ông làm đơn chuyển quyền thừa kế đó, bao gồm những tài
sản gì?
2. Hỏi ngun đơn: bà Chu Thị Thanh
(1)- Bà hãy cho HĐXX biết, trước ngày 20/1/1994 chị em bà có bao giờ thỏa
thuận hay bàn về việc chia di sản thừa kế của cha mẹ bà để lại không?
(2)- Khi biết việc ông Sinh chuyển quyền thừa kế như vậy, bà đã có những hành
động gì? Chính quyền địa phương có ý kiến gì với yêu cầu đình chỉ chuyển quyền
thừa kế của chị em bà?
(3)- Khi bốn chị em bà giao cho ông Thuyên trơng nom, quản lý thì thời điểm
đó trên thửa đất này có những tài sản gì? Của ai?
(4)- Giấy trơng nom này có được sự đồng ý của đầy đủ 4 chị em, ông Thuyên
và bà Tám hay không?
(5)- Khi biết được bà Tám xây nhà trên đất do bố mẹ mình để lại Ngun đơn
có phản ứng gì khơng?
(6)- Từ năm 1994 đến nay, bà Tám có thực hiện liên tục việc chia 50% lợi tức từ
việc thu hoạch các sản phẩm cây cối trên đất cho chị em bà như thoả thuận hay không?
3. Hỏi bị đơn: bà Đinh Thị Tám
(1)- Bà hãy trình bày cho HĐXX biết nguồn gốc thửa đất mà nguyên đơn kiện
đòi lại?
(2)- Thửa đất mà hai bên đang tranh chấp hiện tại do ai đứng tên?
(3)- Đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/01/1994 được lập giữa vợ chồng Bị

đơn với ông Sinh, tại buổi thực hiện việc chuyển quyền thừa kế Các bà Thanh, Loan,
The khơng có mặt và biết về việc này khơng?
(4)- Bà có ý kiến gì về việc UBND xã Phù Vân đã tạm đình chỉ việc giao quyền
thừa kế giữa ông Sinh và ông Thuyên chồng bà vào ngày 10/4/1994?
(5)- Bà hãy cho HĐXX biết, bà có biết nội dung trong tờ Giấy mà 4 người con
của bà Cúc (bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The) lập giao cho vợ chồng của bà
trong đất không? Vậy việc bà xây dựng nhà trên diện tích đó có nằm trong nội dung
tờ giấy đó khơng?
4


4. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
4.1. Hỏi bà Chu Thị Loan
(1)- Trước ngày 20/1/1994 chị em bà có bao giờ bàn về việc chia di sản thừa kế
của cha mẹ bà?
(2)- Vào thời điểm nào bà biết việc ông Sinh chuyển quyền thừa kế cho ơng
Chu Khắc Thun?
(3)- Chị, em bà có họp gia đình thống nhất giao cho ông Thuyên quản lý, thu
hoa màu có lập biên bản khơng?
(4)- Hiện nay nguyện vọng của bà như thế nào đối với việc giải quyết vụ án?
4.2. Hỏi bà Chu Thị Mai
(1)- Tài sản trên đất mà ơng Sinh, bà Thanh đang kiện địi mẹ đẻ bà (mẹ con bà
đang ở) là của ai?
(2)- Phần nghĩa vụ tài chính và thuế đối với thửa đất này từ trước đến nay ai nộp?
5. Hỏi người làm chứng: ông Phạm Trường Sinh
(1)- Những gì Bị đơn và bà Đinh Thị Tám vừa trả lời về việc chỉ có bà Tám và
gia đình bà chăm nom bà Cúc trước khi mất và lo mai táng cho bà Cúc, ông có đồng
ý khơng?
(2)- Có phải gia đình bà Tám vẫn quản lý và sử dụng thường xuyên thửa đất
trên kể từ khi bà Cúc chết?

III. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa: - Kính thưa Hội đồng xét xử (HĐXX)!
- Kính thưa vị đại diện Viện Kiểm Sát (VKS).
- Kính thưa các luật sư đồng nghiệp và tất cả các vị có mặt tại
phiên tịa ngày hơm nay.
Tơi là luật sư Thanh Hà, văn phịng luật sư A Đồn luật sư thành phố Hà Nội.
Tơi tham gia phiên tồ hơm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho Nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh trong vụ án ly hôn
được đưa ra xét xử ngày hôm nay.
Trước hết, tôi xin cảm ơn tới Q tịa đã tạo điều kiện tốt nhất cho tơi và cộng
sự trong q trình tiếp cận, thu thập thơng tin, sao chụp hồ sơ tài liệu, để tơi có thể
thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình trong vụ án này.

5


Sau q trình nghiên cứu tồn bộ hồ sơ vụ án, nội dung tại các bản tự khai và
lời khai của đương sự tại phiên tịa ngày hơm nay, tơi xin trình bày quan điểm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn về việc giải quyết vụ án như sau:
Kính thưa hội đồng xét xử.
Nguyên đơn bà bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh đã có đơn khởi kiện
ra TAND thành phố Phủ Lý yêu cầu về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
với bị đơn bà Đinh Thị Tám. Luật sư xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà Chu Thị
Thanh và ơng Chu Văn Sinh là hồn tồn chính đáng và có cơ sở pháp lý.
I. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý đã đảm bảo đúng các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giả quyết vụ án cho đến thời điểm diễn ra phiên

tịa ngày hơm nay, khơng phát sinh các tình tiết tố tụng làm ảnh hưởng đến quá trình
giải quyết vụ án.
II. CÁC VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Việc chuyển nhượng di sản thừa kế của ơng Sinh là trái pháp luật
Thứ nhất, diện tích đất tranh chấp là tài sản thừa kế thuộc sở hữu chung của 4
người, bao gồm bà Thanh, ông Sinh, bà Loan và bà The.
Ông Trường chết năm 1945, bà Cúc chết năm 1990, hai ơng bà có bốn người
con là Thanh, Sinh, Loan, The. Di sản để lại gồm mảnh đất diện tích 777 m 2 thuộc
thửa số 2, tờ bản đồ số 40 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam.
Theo Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, Mục 1 Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần
tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do
người chết để lại.”
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990,
Mục 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990 quy định:
“Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.
Từ các căn cứ nêu trên, khẳng định 4 người con của ông Trường, bà Cúc thuộc
hàng thừa kế thứ nhất, và di sản là mảnh đất 777m2 được chia làm bốn phần bằng nhau.
Thửa đất (bao gồm cả hoa lợi, lợi tức có được, phát sinh từ tài sản đó) là tài sản
thừa kế của bốn người con gồm Thanh, Sinh, The, Loan nên quyền sở hữu được xác
lập chung giữa bốn người.
Thứ hai, việc chuyển nhượng di sản thừa kế do ơng Sinh tự mình định đoạt,
không được sự chấp thuận của các đồng thừa kế.
6


Căn cứ vào biên bản lấy lời khai của bà Đinh Thị Tám ngày 21/11/2012 (BL

38-40), bà Tám thừa nhận rằng việc chuyển quyền thừa kế toàn bộ đất đai, nhà cửa
và cây cối trên thửa đất trên chỉ do ông Sinh chuyển cho vợ chồng bà Tám. Bà
Thanh, bà Loan và bà The khơng hề biết sự việc trên.
Ngồi ra, theo nội dung thỏa thuận ngày 15/04/1994 (BL 10-11) của bốn chị
em bà Chu Thị Thanh về việc giao quyền trông nom di sản thừa kế cho vợ chồng
ông Thun, bà Tám, thì vợ chồng ơng bà Thun - Tám chỉ thực hiện việc trôm
nom quản lý, không được làm thay đổi hiện trạng và thực hiện bất kỳ cơng việc gì
ngồi việc trơng nom, quản lý và thu hoạch cây trái.
Theo quy định tại Điều 681 BLDS năm 2005 về Họp mặt những người thừa kế:
Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được cơng bố, những người
thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận bao gồm nhưng không giới hạn về: Cử người
quản lý di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này và mọi thỏa thuận của
các đồng thừa kế đều phải lập thành văn bản.
Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định việc ông Sinh tự ý chuyển nhượng lại toàn
bộ di sản thừa kế cho ông Thuyên mà không hỏi ý kiến và chưa có sự đồng ý của
các anh chị em khác với tư cách là các đồng thừa là trái quy định pháp luật, dù có sự
đồng ý của trưởng thơn, trưởng tộc, xác nhận của UBND xã nhưng đều là không phù
hợp với pháp luật nên khơng có giá trị pháp lý.
Theo đó, vợ chồng ơng bà Thun – Tám chỉ có quyền trông nom, quản lý và
được phép khai thác hoa màu từ diện tích đất trên theo thỏa thuận của các bên trong
biên bản giao quyền trông nom (BL 10-11).
2. Hành vi chiếm hữu và xây dựng nhà trái phép trên đất Nguyên đơn của
Bị đơn
Việc 4 người con của ông Trường và bà Cúc ký thỏa thuận giao cho ông Thuyên
quyền quản lý, trông nom di sản thừa kế, căn cứ theo quy định tại Điều 638 BLDS
năm 2005 thì ơng Thun chính là người quản lý phần di sản đó. Ơng Thun có các
quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 639 BLDS năm 2005 về Nghĩa vụ của
người quản lý di sản và Điều 640 BLDS năm 2005 Quyền của người quản lý di sản.
Theo quy định tại Điều 639 BLDS năm 2005, người quản lý di sản không được
bán, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác nếu

không được những người đồng thừa kế đồng ý bằng văn bản.
Đến ngày 3/3/1999 thì ơng Thun mất, các đồng thừa kế vì ở xa nên chưa có
điều kiện để về chia di sản nên việc trông nom di sản do vợ ông Thuyên là bà Tám
tiếp tục thực hiện. Bà Tám có nghĩa vụ phải giao lại di sản theo yêu cầu của người
thừa kế là phù hợp theo quy định của pháp luật.
Đến tháng 6/2012, bà Tám thực hiện việc xây dựng trái phép trên mảnh đất di
7


sản. Ngày 19/6/2012, trong biên bản hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà Thanh và bà
Tám tại UBND xã Phù Vân (BL 25-26) đã kết luận:
1- Việc bà Tám xây dựng là xây dựng trái phép;
2- Đất đang tranh chấp là đất của bà Chu Thị Cúc chứ không phải là đất của bà Tám;
3- Việc xây dựng của gia đình bà Tám yêu cầu giữ nguyên hiện trạng.
Tuy nhiên bà Tám không chịu ký vào văn bản và vẫn tiếp tục hành vi xây dựng
trái phép.
Đến ngày 25/10/2012 theo đơn yêu cầu của ông Sinh về việc giải quyết tranh
chấp đất đai và hành vi xây dựng trái phép của bà Tám, UBND xã đã tiến hành mời
hai bên lên hòa giải lần hai, nhưng bà Tám cố tình vắng mặt mà khơng có lý do
chính đáng. Hành vi của Tám cho thấy sự bất chấp trước pháp luật, cố tình trì hỗn
việc trả lại đất cho các đồng thời kế.
Do đó, việc bà Tám tự ý xây dựng các cơng trình trên đất là vi phạm quy định
của pháp luật vì bản thân bà Tám khơng có quyền sử dụng đối với thửa đất trên.
Căn cứ theo quy định tại Điều 255 BLDS năm 2005 về Các biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu thì “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền u cầu Tồ án,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Căn cứ tại Điều 256 BLDS năm 2005 về Quyền đòi lại tài sản thì “Chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài

sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”.
Theo quy định tại Điều 599 BLDS năm 2005 về nghĩa vụ hồn trả thì “Người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì
phải hồn trả cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó”.
Mặt khác theo quy định tại điểm b, mục 2.4 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
TANDTC, trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế, nhưng các thừa kế
không trực tiếp sử dụng quản lý, mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu, quản
lý theo ủy quyền thì các thừa kế có quyền kiện địi tài sản.
Từ những căn cứ trên, kết luận việc chiếm hữu và xây dựng của bà Tám là
khơng có căn cứ pháp luật nên thân chủ tôi và các anh chị em của thân chủ tơi hồn
tồn có quyền u cầu bà Tám phải trả lại tài sản và tháo dỡ toàn bộ nhà và cơng
trình xây dựng trái phép trên thửa đất.
3. Bị đơn vi phạm thỏa thuận trông nom, quản lý di sản và thu hoa lợi, lợi tức
Theo thỏa thuận giao quyền trông nom, quản lý di sản ngày 15/4/1994 (BL 1011) có sự đồng tình của bên giao là bốn người con của bà Cúc và ông Thuyên là bên
8


nhận. Căn cứ thỏa thuận thì “Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994
đến tháng 15 tháng 4 năm 1999, với nội dung thỏa thuận: giao quyền trông nom,
quản lý cho người nhận trong nom, nhà cửa tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất
đai tự sản xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây
ngắn ngày) không được xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt
bằng không được đào khoét, các cây cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị
thu nhập cây lưu niên hàng năm phải có sự chứng kiến của hai bên nội ngoại. Số
tiền đó ơng Chu Khắc Thuyên được hưởng 50% (năm mươi phần trăm) phần còn lại
do bốn chị em bà Thanh sử dụng – mở tài khoản ở ngân hàng do bà Chu Thị Thanh
đứng tên)”.
Nhưng trong thời gian trơng nom, gia đình ông Thuyên dù có thực hiện việc
thu hoạch hoa lợi trên đất của bà Cúc nhưng cho đến nay ông Thun khơng hề trích

50% thu nhập từ hoa lợi trên đất cho bốn chị em bà Thanh và việc Nguyên đơn kiện
địi Bị đơn phải thanh tốn số tiền trên là có căn cứ.
Từ những phân tích và dẫn chứng nêu trên, cho thấy các yêu cầu của nguyên đơn
hoàn tồn có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:
1- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích 777m 2 đất tại thửa số 40 lập năm
1998, địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu Thị
Thanh, ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Loan và bà Chu Thị The.
2- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám tháo dỡ nhà và các công trình đã xây dựng trái
phép trên thửa đất.
3- Buộc bà Đinh Thị Tám phải trả lại nhà và cây cối trên diện tích 777m2 đất tại
thửa số 40 lập năm 1998 của gia đình và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị thu
nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 đến 15/4/1999 theo giấy gửi UBND xã Phù
Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (15/4/1994).
Trên đây là tồn bộ quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tôi cho
nguyên đơn bà Chu Thị Thanh tại phiên tịa ngày hơm nay, đề nghị HĐXX xem xét
trong khi nghị án đưa ra phán quyết đúng pháp luật, đảm bảo được sự thật khách
quan của vụ án.
Trân trọng cám ơn HĐXX và những người trong phòng xử án đã chú ý lắng nghe.

Hà Nội, ngày 03 tháng 4 năm 2022
Luật sư

Thanh Hà

9



×