UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
BÀI THU HOẠCH NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính
ĐỀ TÀI
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ NGA HẢI - HUYỆN NGA SƠN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Học viên:
Lớp:
Vũ Văn Tuấn
Trung cấp LLCT - HC tại chức huyện - Nga Sơn
Đơn vị công tác: Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nga Sơn
Thanh Hoá, ngày 10/12/2013
1
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ NGA HẢI, HUYỆN NGA SƠN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
2
Như chúng ta đã biết bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là dân chủ, theo đó
dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta. Từ lâu, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào dân, lấy dân làm gốc nên đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hoá
đời sống xã hội ở cơ sở.
Vì vậy, ngày 15/05/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29/1998/NĐ-CP
về “ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” nhằm phát huy
sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị- xã hội, tăng
cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng,
chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Qua quá trình triển khai thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực tế cho thấy kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy
vậy, vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân
còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, hách
dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến. Phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa đi vào thực chất.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục nêu rõ “Thực hiện tốt quy chế dân
chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức; xây dựng
luật trưng cầu ý dân”.
Để không ngừng tăng cường việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và góp
phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi sâu nghiên
cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc hay từng địa
phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Với ý nghĩa trên, tôi
mạnh dạn chọn vấn đề “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Nga
Hải, huyện Nga Sơn - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài bài thu hoạch thực tế lớp
Trung cấp LLCT hành chính, nhằm vận dụng kiến thức đã học để làm rõ hơn vấn
đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên một địa bàn xã cụ thể.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Những căn cứ lý luận và thực tiễn chủ yếu của việc ban hành quy chế dân chủ
ở cơ sở.
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị, “Dân
chủ” là một từ ghép và nghĩa là người bình dân, dân chúng hoặc có nghĩa là quyền
3
cai trị, là sức mạnh. Do vậy Dân chủ có nghĩa là chủ, quyền lực, là sự cai trị của
người bình dân. Theo đó, dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là
sự cai trị của nhân dân - nó được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài.
Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực chính
trị là quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải phóng
con người và giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bất công.
“Dân chủ” có nghĩa chung là quyền lực của người bình dân, quyền làm chủ xã
hội và làm chủ bản thân con người, là quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội.
Càng ngày, khái niệm dân chủ càng được mở rộng nhiều hơn, được gắn với ý thức
chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử của xã hội
loài người. Đồng thời, dân chủ còn là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu nấc thang
tiến bộ của xã hội loài người.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất kém phát triển, trước
sức mạnh của thiên nhiên hoang sơ, huyền bí, để tồn tại và phát triển, con người
phải gắn bó với nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh cộng đồng. Và họ đã
sử dụng sức mạnh ấy để thực hiện quyền sống, quyền tự do, bình đẳng.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu, xuất hiện
giai cấp và đối kháng giai cấp, để điều hoà quan hệ xã hội, một cơ quan quyền lực
đặc biệt đã ra đời - đó là Nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước
chiếm hữu nô lệ, là hình thái đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp.
Dân chủ, chủ nô đã đem lại cho loài người một mô hình về mặt tổ chức và cơ chế
vận hành của một thể chế dân chủ. Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ,
không phải chế độ dân chủ.
Thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa, dưới ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản đã
nhanh chóng lật đổ chế độ phong kiến với các khẩu hiệu “Tự do”, “Bình đẳng”,
“Bác ái”. Song trên thực tế, xã hội tư bản “chủ nghĩa tự do” cho toàn xã hội đã bị
thay thế bằng chủ nghĩa mất tự do cho giai cấp bị trị. C.Mác đã nhận xét rằng: chế
độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư bản biến thành “tự do” của nhân dân lựa chọn
những người thống trị mình. Tuyệt nhiên không phải là sự lựa chọn những người
đại diện cho lợi ích của bản thân mình. Lênin trong tác phẩm “Nhà nước và Cách
mạng” đã viết: “Chế độ đại nghị tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không
phải cho nhân dân) với chế độ quan liêu (chống nhân dân)”. Tuy nhiên, hình thức
dân chủ ấy cũng đạt được một bước tiến dài trên con đường giải phóng cá nhân.
Dân chủ tư sản vì thế không thể là mục đích cuối cùng của loài người hướng
tới. Chỉ có nền chuyên chính của giai cấp vô sản mới đem lại một nền dân chủ thực
sự, nền dân chủ được thiết lập trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
đối kháng giai cấp bị thủ tiêu, chỉ có như thế quyền lực của nhân dân mới được
thực hiện đầy đủ. Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể khái quát những nét cơ
bản về dân chủ như sau:
+ Dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, gắn với giai cấp và quá trình
đấu tranh giai cấp.
+ Dân chủ là một hình thái nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền ngang nhau
của dân cư trong việc xác định cơ cấu tổ chức nhà nước và quản lý xã hội.
4
+ Dân chủ cũng được xem xét với tư cách là phương thức của phong trào
chính trị - xã hội của quần chúng, quyền hiện thực của nhân dân.
+ Dân chủ với tư cách là hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của công
dân được quy định bởi hiến pháp và pháp luật, là hình thức nhà nước, hình thức tổ
chức và thực hiện quyền lực xã hội.
+ Dân chủ với tư cách là chế độ chính trị. Song với nghĩa chung nhất, dân chủ
là quyền lực thuộc về nhân dân. Vì vậy mà trình độ dân chủ của một chế độ nhà
nước được xác định bằng mức độ thực hiện nguyên tắc toàn quyền thuộc về nhân
dân, nhân dân tham gia quản lý nhà nước như thế nào.
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ,
quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị,
thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ
thâm nhập và chi phối mọi hoạt động của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội; mọi
công dân và mọi tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức và vận dụng các giá trị
dân chủ và biến thành những quy tắc phổ biến trong hoạt động và các mối quan hệ
xã hội.
Dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hoá - tư tưởng. Thực chất của nền dân chủ XHCN là sự tham gia một cách tích
cực, thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của người lao động vào quản lý công
việc của Nhà nước và xã hội. Dân chủ XHCN là một hình thái dân chủ do nhân
dân lao động thiết lập trong quá trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong chính trị của mình là Đảng Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân
dân lao động làm chủ”. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời, đó là nhà nước công nông đầu tiên
được thiết lập ở Đông Nam Á. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, chế độ ta là chế độ do nhân dân
ta làm chủ. Mỗi công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
Những luận điểm cơ bản ấy đã được nêu rõ trong các Nghị quyết của Đảng,
trong Hiến pháp của Nhà nước và được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật,
nhiều chính sách đã được ban hành từ trước đến nay. Những điều đó khẳng định
dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN nói chung, của Nhà nước ta
nói riêng.
Đảng Cộng sản Việt Nam với việc nhận thức về dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống lấy dân làm gốc, coi trọng
dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta, đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Hồ Chí Minh,
người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đã có nhận thức sâu sắc về vấn đề dân chủ và
vai trò của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, dân chủ được
hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, dân là chủ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân, vì dân là chủ”; thứ hai, dân chủ tức là dân làm chủ: “Nước ta là nước dân
chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”; dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích
5
đều thuộc về nhân dân: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi
ích của dân mà làm. Khắp nơi đều có đoàn thể nhân dân, như: Hội đồng nhân dân,
Mặt trận, công đoàn… những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân,
bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ”.
Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thức sâu sắc về sức mạnh của quần chúng nhân
dân; coi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người nói: “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” Hay: “Dân chúng đồng lòng, việc gì
cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.
Không chỉ có quan niệm dân chủ đúng đắn mà Người còn nhận thấy vai trò,
tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ. Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
việc thực hành dân chủ là nhằm đem lại ấm no, hạnh phúc, bình đẳng cho quần
chúng nhân dân một cách đích thực. Người nói: “Thực hành dân chủ là chìa khoá
vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Trong bản “Di chúc” để lại cho dân tộc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Như vậy, dân chủ luôn là nội dung
quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở lý luận, tư tưởng
giúp Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở
nước ta.
Hơn tám mươi năm qua Đảng lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta bao giờ cũng coi dân chủ là một nội
dung quan trọng trong đường lối cách mạng của mình. Mở rộng dân chủ XHCN,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân
dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược - vừa là bản
chất, vừa là đặc trưng của chế độ mới.
II. THỰC TRẠNG.
1. Đặc điểm tình hình.
Nga Hải là một xã nghèo thuần nông nghiệp của huyện Nga Sơn, trong những
năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế thế giới; bên cạnh đó, thời tiết diễn biến thất thường, sản
lượng lúa cũng như giá lúa, giá các vật nuôi cây trồng vụ mùa, vụ đông(khoai, ngô,
lạc, đỗ….) xuống thấp do không tìm được đầu ra, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự điều hành của UBND và sự phối
hợp chặt chẽ của Mặt trận và các đoàn thể, trong những năm qua tình hình kinh tế,
văn hoá - xã hội trên địa bàn xã có sự phát triển ổn định, xây dựng nông thôn mới
đạt được những kết quả quan trọng, hệ thống giao thông nông thôn được cải thiện
đáng kể, giáo dục có bước phát triển khá, trình độ dân trí được nâng cao, nhiều gia
đình đã mua sắm được các trang thiết bị phục vụ đời sống sinh hoạt, ý thức làm
chủ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng lên. Việc tổ chức thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở đã có tác động tích cực đến phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội, quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương.
2. Thực trạng.
2.1. Những kết quả đạt được.
6
Những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của xã là 15%/năm; cơ
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng đó là tăng tỷ trọng chăn nuôi, trồng
trọt, tiểu thủ công nghiệp nhưng vẫn chủ yếu là nông nghiệp. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2012 là gần 16 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí
mới) giảm bình quân 2,2%. Gắn với việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, thực
hiện chủ trương của Huyện uỷ Nga Sơn về dồn đổi ruộng đất, chuyển mục đích sử
dụng của một bộ phận đất khô cằn, vùng trũng sang trồng cây nhãn nuôi ong và
trang trại tổng hợp; tích cực cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống thuỷ lợi giữ
nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Công tác xã hội hóa y tế, giáo dục, thể dục thể thao luôn được chú trọng, các
hoạt động thông tin tuyên truyền; văn hóa văn nghệ, TDTT được tổ chức hàng
năm. Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, cơ sở hạ tầng cũng
như các trang thiết bị y tế được đầu tư, xây dựng; cán bộ y tế xã thường xuyên
được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ công tác khám,
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác tuyên truyền, giáo dục sức
khỏe cộng đồng, vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe
sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được quan tâm. Thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia về y tế; hàng năm trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ
văcxin, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm 2012 giảm còn 4,55%; tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên duy trì ở mức 2,1%. Cơ sở trường, lớp, trang thiết bị giảng dạy và học tập ở
các trường thường xuyên được đầu tư xây dựng ( trường chuẩn quốc gia: Mầm
non, Tiểu học dự tính đến năm 2014 chuẩn THCS) đội ngũ thầy cô giáo được
chuẩn hóa, chất lượng dạy và học ngày càng nâng lên. Công tác khuyến học,
khuyến tài đã kịp thời động viên, khuyến khích những học sinh giỏi, học sinh
nghèo hiếu học, giáo viên khó khăn vươn lên dạy giỏi, xuất hiện nhiều quỹ khuyến
học, dòng họ khuyến học với nguồn quỹ lên đến hàng chục triệu đồng ... công tác
đảm bảo an toàn giao thông, an ninh học đường trong các nhà trường được chú
trọng.
Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn xã cơ bản được giữ vững. Phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh, tuyên truyền về chính sách
pháp luật được quan tâm. Các nhà văn hoá ở 9 xóm đã có tủ sách pháp luật, có
nhiều đầu sách về pháp luật, hướng dẫn phát triển kinh tế… phục vụ nhu cầu của
nhân dân.
Sau khi có Nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của cấp trên,
xã đã tổ chức Hội nghị triển khai, quán triệt các văn bản của Trung ương, của Tỉnh
về Quy chế dân chủ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt. Xây dựng kế hoạch thực hiện,
thành lập ban chỉ đạo(BCĐ) thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Tổ chức hội nghị
CBCC đầu năm học.
Trong quá trình thực hiện Ban chỉ đạo Quy chế dân chủ thường xuyên được
củng cố kiện toàn, tổ chức hoạt động theo quy chế. Hàng năm, BCĐ thực hiện Quy
chế dân chủ xã đều tổ chức kiểm tra, chấm điểm, phân loại, sơ kết đánh giá tình
hình thực hiện Quy chế dân chủ. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh về thực hiện
dân chủ xã, phường, thị trấn, Nghị định 71/NĐ-CP của Chính phủ về triển khai
7
thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan và Quy chế dân chủ trong hoạt động
trường học thời gian đến.
Trong những năm qua cán bộ và nhân dân trên địa bàn xã đã phát huy tinh
thần thi đua yêu nước, đoàn kết giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống, động viên nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ, thường xuyên tham gia hội họp,
sinh hoạt, theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng để nắm bắt tình hình,
tham gia học tập, đóng góp ý kiến, bàn bạc, thống nhất và tham gia thực hiện đầy
đủ các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tích
cực tham gia thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Hoạt động của HĐND xã đã có nhiều đổi mới trong tổ chức tiếp xúc cử tri
trước và sau kỳ họp, trong các cuộc họp HĐND đã tổ chức lấy ý kiến chất vấn và
trả lời chất vấn... Công tác cải cách thủ tục hành chính luôn được quan tâm chỉ
đạo; hoạt động của bộ phận nhận và trả kết quả ngày càng đáp ứng yêu cầu giao
dịch của nhân dân. Công tác tiếp dân được tiến hành thường xuyên, công tác phối
hợp giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo, trả lời ý kiến của cử tri được tổ chức kịp
thời tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Thực hiện tốt công tác quản lý và chi trả trợ
cấp hàng tháng cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, đối
tượng hưởng trợ cấp xã hội; cấp tiền ưu đãi trong giáo dục và đào tạo, cấp thẻ bảo
hiểm y tế cho đối tượng thuộc hộ nghèo.
Mặt trận, các đoàn thể và các hội quần chúng đã có nhiều đổi mới về phương
thức hoạt động, đa dạng các hình thức tập hợp. Thông qua hoạt động của các đoàn
thể, các hội quần chúng đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân phát huy quyền
làm chủ của mình, góp phần tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch,
vững mạnh, tham gia tích cực các cuộc vận động, các phong trào lớn ở cơ sở như:
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, giúp nhau phát
triển kinh tế gia đình, “Sản xuất kinh doanh giỏi; chăn nuôi giỏi”; Phong trào
“Toàn dân phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy” và các tệ nạn xã hội,
phong trào “Quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc”; phong trào “Đền ơn
đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, ủng hộ thiên tai bão lũ. Phát huy vai trò phòng
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí; thực hiện có hiệu quả việc
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Ông bà, cha mẹ mẫu
mực, con cháu thảo hiền”; “Gia đình hiếu học”.
Tổ chức cho nhân dân tham gia góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992. Tổ chức lấy phiếu tín nhiệm chức danh theo quy định. Vận động nhân dân
tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và HĐND các cấp (nhiệm kỳ 20112016) đạt trên 99,8%. Trong 15 năm qua cán bộ và nhân dân đã tích cực tham gia
ủng hộ quỹ “Ngày vì người nghèo” quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” tham gia các hoạt
động nhân đạo, từ thiện, ngoài ra nhân dân còn tích cực tham gia các cuộc vận
động quyên góp giúp bà con bị thiên tai, lũ lụt...
Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, trong những năm qua, Xã
đã vận động nhân dân tham gia đóng góp hàng chục tỷ đồng để làm đường bê tông
nông thôn, nhân dân đóng góp công để xây dựng đường, nhà văn hóa, nạo vét kênh
mương nội đồng, bắt bóng điện thắp sáng các đường hẻm, … đã góp phần làm cho
bộ mặt nông thôn ngày một khang trang, sạch, đẹp, an toàn.
8
Cải tạo hàng chục hacta đất hoang dã để chăn nuôi, trồng trọt cụ thể tên phạm
vi xã có 4 trang trợi lợn, nhiều trang trại nuôi ong mật và trồng cây nhãn lồng. Một
số gia đình đã cải tạo vườn tạp đưa những cây trồng có giá trị kinh tế cao vào trông
như bưởi da xanh, bưởi diễn, chuối tây, đại táo, hồng xiêm… Đặc biệt, nhiều gia
đình đã trồng được cây cảnh có giá trị kinh tế cao góp phần vào sự phát triển kinh
tế địa phương trong những năm qua.
2.2. Những hạn chế, yếu kém.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế cần khắc phục đó là:
Nhận thức việc thực hiện QCDC của một số cán bộ, đảng viên chưa sâu, dẫn
đến việc triển khai thực hiện QCDC đạt hiệu quả chưa cao, có lúc còn mang tính
hình thức, chưa thật sự quan tâm đến việc thực hiện QCDC ở cơ quan, đơn vị, địa
phương mình.
Hoạt động của BCĐ thực hiện QCDC ở cơ sở chưa duy trì thường xuyên,
nhiều hoạt động chưa theo quy chế đề ra; các thành viên BCĐ hoạt động còn hạn
chế, thiếu sự phối hợp, ít sâu sát địa bàn. Chưa xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm
tra việc thực hiện QCDC ở các xóm.
Một số cán bộ và quần chúng nhân dân chưa nhận thức hết vai trò của việc
thực hiện QCDC ở cơ sở, đôi lúc còn xem nhẹ, thể hiện tỷ lệ tham gia họp dân ở
một số nơi còn thấp, nội dung các cuộc họp dân chất lượng chưa cao, do vậy một
số thông tin chưa đến được với người dân. Quyền làm chủ của cán bộ, nhân dân có
nơi chưa được phát huy đầy đủ.
Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng ở một
số đơn vị còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc tổ chức công khai những
điều dân biết, dân bàn, dân kiểm tra còn có nơi thực hiện chưa tốt.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TU của
Tỉnh ủy về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở một số địa phương, đơn vị chưa
sâu rộng, thường xuyên; chưa chủ động đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện
quy chế dân chủ gắn với việc cải cách thủ tục hành chính và nhiệm vụ chính trị của
từng cơ quan, đơn vị.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa xác định đúng vai trò trong việc xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Việc xây dựng và thực hiện quy chế có
nơi còn hình thức, chưa thường xuyên, chất lượng, hiệu quả thấp.
Việc triển khai, tuyên truyền, quán triệt các văn bản về Quy chế dân chủ ở cơ
sở của Trung ương, của tỉnh đôi khi chưa được thường xuyên, kịp thời, hình thức
tuyên truyền chậm đổi mới.
2.3. Nguyên nhân.
Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của Quy chế dân chủ của một bộ phận
cán bộ, đảng viên còn hạn chế và chưa đầy đủ. Chưa thực sự quan tâm đóng góp ý
kiến để xây dựng và hoàn thiện các Quy chế, quy định của địa phương.
Trình độ, năng lực của một số thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám
sát cộng đồng còn hạn chế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ của nhân
dân.
9
Việc triển khai các văn bản hướng dẫn, thi hành về thực hiện dân chủ ở cơ sở
chậm đi vào đời sống nhân dân; cơ quan quản lý địa phương chưa cụ thể hoá cho
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị.
III. GIẢI PHÁP
Để thực hiện tốt QCDC cơ sở trên địa bàn xã Nga Hải, huyện Nga Sơn cần
quan tâm đến một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
1. Tiếp tục nghiên cứu, quán triệt các quan điểm của Đảng về mở rộng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá và Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ huyện Nga Sơn lần thứ XXI gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng các cấp. Tiếp tục cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo trong Chỉ thị 30-CT/TW
của Bộ Chính trị, Chỉ thị 10-CT/TW của Ban Bí thư. Tiếp tục chỉ đạo việc triển
khai thực hiện tốt Kết luận số 65-KL/TW, ngày 4/3/2010 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Tuyên truyền, giáo dục trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân về nội dung Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, các nghị định của Chính phủ về ban hành QCDC ở cơ sở, qua đó nâng cao
ý thức làm chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
2. Thường xuyên củng cố, kiện toàn BCĐ thực hiện QCDC ở cơ sở, tổ chức
thực hiện nghiêm túc Quy chế của BCĐ đề ra, nhất là duy trì chế độ hội họp, giao
ban, phân công trách nhiệm cho các thành viên, tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá,
rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương tập thể, cá nhân làm tốt. Tổ chức tập huấn về
nội dung thực hiện QCDC cơ sở, thực hiện tốt công tác phân loại hàng năm. Tiếp
tục chỉ đạo việc bổ sung, sửa đổi nội dung hương ước, quy ước ở khu dân cư cho
phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Thường xuyên tiến hành kiểm tra tình hình
thực hiện QCDC ở cơ sở.
3. Tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất
lượng hoạt động tại bộ phận thu trả kết quả, nâng cao ý thức phục vụ nhân dân.
Chính quyền các cấp phối hợp thực hiện tốt công tác tiếp xúc cử tri, lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Phối hợp giải quyết có hiệu quả đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc ở cơ sở.
Không để xảy ra tình trạng khiếu kiện vượt cấp.
4. Thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, vận động nhân dân đóng góp xây dựng nhà văn hoá làng đạt chuẩn và trang
bị các thiết chế văn hoá phục vụ sinh hoạt, phát huy dân chủ của cán bộ, nhân dân
trong xây dựng nông thôn mới, xây dựng cơ sở hạ tầng.
5. Nâng cao vai trò đại diện của các đại biểu HĐND xã, vai trò của Ban Thanh
tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng nhằm tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát ở cơ sở. Phối hợp tổ chức có hiệu quả công tác tiếp dân, trả lời ý kiến cử
tri, giải quyết kịp thời các kiến nghị của cử tri; giữ vững ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
10
6. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể thường xuyên đổi mới phương thức hoạt
động nhằm tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia, thông qua đó tạo điều
kiện để người dân phát huy quyền làm chủ của mình. Phát huy tinh thần thi đua
yêu nước, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tích cực tham gia thực hiện các
nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
7. Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với đẩy mạnh việc “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4
BCH Trung ương Đảng (khoá XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”.
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.
1. Đối với cấp trên.
Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về triển khai thực hiện QCDC cho
CBCC phụ trách QCDC ở cơ sở.
Cung cấp tài liệu, thông tin về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
cho xã, thị trấn.
2. Đối với Đảng uỷ, chính quyền xã.
Tăng cường chỉ đạo hoạt động quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt việc
công khai minh bạch các vấn đề liên quan đến nhân dân.
Thường xuyên kiện toàn lại ban Chỉ đạo xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở,
hàng năm phải có kế hoạch kiểm tra ở các xóm.
PHẦN KẾT LUẬN
Việc tổ chức triển khai thực hiện QCDC xét về mặt lý luận và thực tiễn đều là
vấn đề cần thiết và cấp bách, từ những vấn đề trên có thể rút ra những kết luận cơ
bản như sau:
1. Thực hiện QCDC là vấn đề lớn và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta, nó thể
hiện bản chất tốt đẹp của nhà nước XHCN, việc xây dựng cơ thế cụ thể để thực
hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ
trương, chính sách lớn là rất quan trọng, trong khi trên địa bàn xã đang thực hiện
chương trình xây dựng Nông thôn mới, thực hiện dồn đổi ruộng đất cũng như cải
tạo ruộng hoang. Đảng, Nhà nước đã tạo mọi điều kiện cần thiết để phát triển kinh
tế, xã hội, chính trị tư tưởng để tạo điều kiện cho nhân dân sử dụng và phát huy
quyền làm chủ của mình và phát huy khả năng làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội
của mình.
2. Việc thực hiện quy chế dân chủ phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp.
Bởi nó được xem là yếu tố vật chất, cũng như yếu tố tinh thần việc tổ chức triển
khai thực hiện quy chế. Các phương hướng, giải pháp vừa có nội dung riêng, vừa
có những nội dung phối hợp với nhau để phát huy tối đa dân chủ.
3. Để thực hiện tốt QCDC phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thường
xuyên và định kỳ. Thực hiện QCDC đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao hoạt động
11
của hệ thống chính trị. Dân chủ hóa hệ thống chính trị là tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của nhà nước và phát huy quyền và khả năng làm
chủ của nhân dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, chương trình trung cấp LLCT-HC,
Nxb Chính trị - hành chính.
2. Báo cáo sơ kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của Huyện uỷ Nga Sơn.
3. Báo cáo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 2012 của Huyện uỷ Nga
Sơn.
4. Báo cáo năm 2012 của Đảng uỷ xã Nga Hải.
5. Niên giám thống kê huyện Nga Sơn.
6. Webside: ngason.gov.vn
-------------
12