Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

123docz day hoc kien thuc nuoc ngoai trong chu diem tren doi canh uoc mo tieng viet 4 tap 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.72 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình giáo dục phổ thông ở nước ta đã qua ba lần cải cách (vào các
năm 1950, 1956, 1981) với những mục tiêu giáo dục ngày càng được nâng cao.
Bước vào thế kỉ XXI - thế kỉ của nền tri thức với khoa học công nghệ hiện đại mục tiêu giáo dục trong các nhà trường hiện nay là đào tạo học sinh (HS) phát
triển tồn diện, có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe, thẩm mĩ. Trước mục tiêu
mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành cuộc cải cách giáo dục lần thứ tư:
biên soạn chương trình Tiểu học và Trung học cơ sở cho những năm 2000.
Chương trình và sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 4 (2000) được triển khai đại
trà toàn quốc từ năm học 2006-2007 nên việc nghiên cứu phương pháp dạy học
các phân môn Tiếng Việt lớp 4 vẫn là một việc làm có tính thời sự và cần thiết.
Ở trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí vơ cùng quan trọng,
chiếm số tiết nhiều nhất trong tất cả các môn học. Tổng số tiết Tiếng Việt trong
5 năm là 1.610 tiết, so với mơn Tốn có 864 tiết. Dạy Tiếng Việt ở Tiểu học
nhằm giúp HS sử dụng tiếng Việt vào hoạt động giao tiếp và học tập. Học Tiếng
Việt, học sinh được phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt trên cơ sở những
tri thức cơ bản. Đồng thời môn Tiếng Việt cịn góp phần bồi dưỡng cho các em
tình yêu cái đẹp, yêu quê hương đất nước, hình thành và phát triển nhân cách tốt
đẹp của con người trong thế kỉ mới.
Văn học nước ngồi trong chương trình Tiểu học với các truyện đọc,
truyện kể và những bài học trong sách Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5 đã đem đến
cho học sinh những cốt truyện hay, những hình tượng đẹp, làm giàu cho trí
tưởng tượng của các em. Văn học nước ngồi trong chương trình Tiểu học cũng
đem lại cho các em những hiểu biết về đất nước và con người của nhiều quốc
gia trên thế giới như Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Nga, Đức, Anh, Pháp... Đó
là những tri thức vô cùng phong phú và đa dạng cho lứa tuổi của các em. Dạy
học các tri thức nước ngoài và các tác phẩm văn học nước ngoài nói chung
trong chương trình Tiểu học là đem lại cho các em những hiểu biết về đất nước
và con người của nhiều quốc gia trên thế giới, bồi đắp cho HS những tình cảm,
những ước mơ mới mẻ, giàu tính nhân văn.
Dạy học kiến thức nước ngoài trong nhà trường nói chung, bậc Tiểu học


nói riêng là cơng việc khơng đơn giản. Để có thể khai thác được cái hay, cái đẹp
và chiều sâu tư tưởng, tâm hồn của dân tộc khác ẩn chứa trong các văn bản
ngôn từ, người dạy (và cả người học) phải có sự hiểu biết rộng rãi về văn hóa,
văn học của chính các dân tộc ấy. Bởi thế, người dạy văn học nước ngoài, ngoài
nhiệm vụ nghiên cứu văn bản, tác phẩm cần giảng dạy, còn cần đọc nhiều tư
liệu tham khảo xung quanh nó. Trong khi đó, ở nước ta hiện nay, điều kiện tự
tìm hiểu, tra cứu các tư liệu tham khảo về tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài


cịn nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với HS.
Tuy nhiên, giảng dạy văn học nước ngoài trong nhà trường nói chung, bậc
Tiểu học nói riêng khơng chỉ hướng tới việc tìm hiểu những đặc sắc của một
nền văn hóa, văn học khác mà cịn góp phần hiểu thêm về văn hóa, văn học của
dân tộc mình. Bởi vậy, trong bối cảnh thế giới đang tăng cường các hoạt động
giao lưu, hội nhập như hiện nay, dạy - học kiến thức nước ngồi trong chương
trình Tiểu học dù cịn hạn chế về điều kiện song có nhiều có ý nghĩa nên rất cần
được nghiên cứu để hoạt động này có hiệu quả tốt hơn.
Vì những lý do trên, chúng tơi chọn đề tài: Dạy - học kiến thức nước
ngoài trong chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1).
2. Lịch sử vấn đề
2.1. về một số tác giả, tác phẩm Văn học nước ngoài
Các tác phẩm văn học nước ngoài được dịch và nghiên cứu khá nhiều tại
Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng cơng trình đặt vấn đề nghiên cứu và giảng dạy
văn học nước ngoài trong các nhà trường, nhất là ở bậc Tiểu học khá hạn chế.
Hầu hết các cơng trình, luận án, luận văn nghiên cứu về văn học nói chung, văn
học nước ngồi nói riêng đều là các nghiên cứu chuyên sâu, thiên về lý luận,
hoặc khái quát hoặc phân tích các phương diện giá trị nội dung và nghệ thuật
của các tác phẩm cụ thể. Phổ biến hơn cả là các bài viết, bài nghiên cứu về đổi
mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học
như Toán, Mỹ thuật, Âm nhạc... ở trường Tiểu học được trình bày tại các hội

thảo, hội nghị khoa học. Tuy không liên quan đến đề tài, nhưng các nghiên cứu
này cũng thực sự là những tư liệu bổ ích vì nguồn tư liệu tham khảo để thực
hiện đề tài khá hạn hẹp.
Hiện chỗ dựa chủ yếu của việc thực hiện luận văn chỉ là cuốn sách Cảm
thụ và giảng dạy Văn học nước ngoài của GS.Phùng Văn Tửu (xuất bản năm
2007, Nhà xuất bản Giáo dục). Đúng như tác giả cuốn sách đã viết: “.đây không
phải là hướng dẫn giảng dạy men theo từng bài trong SGK như kiểu “sách giáo
viên”, nhưng vấn đề cảm thụ và giảng dạy bộ phận văn học này về mặt lý thuyết
và ứng dụng vẫn luôn luôn khiến nhiều người quan tâm, không chỉ ở Trung học
phổ thông, Trung học cơ sở và hệ thống các trường Đại học Sư phạm và Cao
đẳng Sư phạm nữa” (Lời nói đầu). Khơng đề cập trực tiếp đến việc giảng dạy
các tác phẩm văn học nước ngoài trong chương trình bậc Tiểu học, cơng trình
này đã cung cấp các nguyên tắc tiếp cận và những điểm đáng lưu ý khi giảng
dạy chương trình nói chung và qua các tác phẩm cụ thể nói riêng.
Đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục Tiếp cận và giảng dạy các tác
phẩm văn học nước ngoài ở trường Tiểu học, tác giả Đỗ Việt Nga đã cung cấp
một cái nhìn khái quát và cụ thể về thực trạng giảng dạy các tác phẩm văn học
nước ngồi trong chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc giảng dạy bộ phận văn học này từ các
phương diện lý thuyết và đặc thù. Qua đó, góp phần vào việc nâng cao năng lực


cảm thụ và giảng dạy các tác phẩm văn học nói chung, văn học nước ngồi nói
riêng trong nhà trường Tiểu học hiện nay.
Tuy nhiên, cơng trình này cũng mới dừng lại ở việc dạy và học các tác
phẩm văn học, tức là phân môn Tập đọc, chưa đề cập đến các phân môn khác
như Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện, Chính tả...
2.2. về danh từ riêng nước ngồi
Giáo trình Từ loại tiếng Việt hiện đại của tác giả Lê Biên (1999), Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội, là tài liệu được viết theo tinh thần chương trình mới của

Bộ Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng những yêu cầu của cải cách giáo dục. Giáo
trình cung cấp một cách hệ thống những kiến thức cơ bản, cần yếu nhất về Từ
loại tiếng Việt - một nội dung quan trọng của ngữ pháp tiếng Việt.
Giáo trình nhấn mạnh danh từ là một trong ba từ loại cơ bản của tiếng
Việt: danh từ, động từ, tính từ. Bộ phận tên riêng nước ngồi được đề cập khơng
nhiều nhưng người học, người đọc cũng có thể hình dung ra nó nằm trong tiểu
loại danh từ riêng, cách cấu tạo và sử dụng cơ bản của nó. Cách viết tên riêng
nước ngồi này cho đến nay vẫn cịn là vấn đề thời sự nên trong q trình chuẩn
hóa tiếng Việt, người học và người dạy cần tìm hiểu, học tập để sử dụng và
giảng dạy cho đúng quy tắc và đúng chuẩn của tiếng Việt.
Hoàng Văn Thung - Đỗ Xuân Thảo (2007) trong cuốn Dạy học Chính tả ở
Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục đã bàn về việc kĩ năng chính tả thực sự cần
thiết đối với mọi người, không chỉ với học sinh Tiểu học. Cuốn sách này là một
tài liệu tham khảo cho các thầy giáo, cô giáo dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học,
các thầy giáo, cô giáo dạy môn Tiếng Việt - Văn ở Trung học cơ sở và Trung
học phổ thông, sinh viên ngành ngữ văn các trường Sư phạm. Cuốn sách đã đề
cập đến vấn đề Chính tả các từ phiên âm như sau: Phiên âm, chuyển tự theo
nguyên dạng tiếng nước ngoài và Chính tả tên riêng và thuật ngữ theo các quy
định về cách viết phiên âm và chuyển tự.
Hiện nay vẫn tồn tại hai cách xử lý chính tả khi viết các tên riêng và thuật
ngữ tiếng nước ngồi. Đó là: cách viết liền các âm tiết trong từ nguyên ngữ và
cách viết rời từng âm tiết trong từ nguyên ngữ (cách viết tiếng Việt).
2.3. về chương trình SGK Tiếng Việt bậc Tiểu học
Về SGK Tiếng Việt bậc Tiểu học đã có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu
và thể hiện rõ quan điểm của mình qua những cơng trình nghiên cứu.
Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học của tác giả Lê A Thành Thị Yên Mĩ, Lê Phương Nga, Nguyễn Trí, Cao Đức Tiến (1998), Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội cũng như giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng
Việt ở Tiểu học của Lê Phương Nga, Nguyễn Trí (1999), Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội viết cho sinh viên các trường Sư phạm dành trọn một chương
3 để nghiên cứu về chương trình và SGK Tiếng Việt Tiểu học. Giáo trình cung

cấp những kiến thức về mục tiêu môn học Tiếng Việt, cơ sở xây dựng chương
trình, các nguyên tắc xây dựng chương trình và các nguyên tắc biên soạn SGK


Tiếng Việt, chương trình mơn Tiếng Việt ở trường Tiểu học.
Đề cập riêng đến phương pháp dạy học các môn học lớp 4 nói chung, mơn
Tiếng Việt nói riêng, cuốn Phương pháp dạy học các môn học lớp 1,2,3,4,5 tập
hợp, bổ sung, hoàn thiện bộ tài liệu đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng để
bồi dưỡng giáo viên (GV) Tiểu học trên toàn quốc nhằm thực hiện tốt yêu cầu
đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện ở cấp Tiểu học.
Tác giả Nguyễn Trí trong cuốn sách Dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học theo
chương trình mới viết năm 2008, Nhà xuất bản Giáo dục đã nhấn mạnh vào hoạt
động dạy và học của thầy và trò trong trường Tiểu học khi áp dụng chương trình
mới có những thay đổi tích cực về nội dung lẫn phương pháp đem lại hiệu quả
giáo dục cao.
Chương trình Tiểu học (2008, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội) do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành thống nhất chương trình các mơn học ở cấp Tiểu học
nói chung, mơn Tiếng Việt nói riêng. Qua đó, giúp người GV Tiểu học có cái
nhìn khái quát cũng như cụ thể về nội dung, cách phân bố chương trình Tiểu
học. Từ đó, họ có định hướng đúng đắn hơn trong quá trình dạy học các lớp ở
Tiểu học.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học, tạo điều kiện thuận lợi cho GV và
cán bộ quản lý, chỉ đạo chuyên môn, năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức biên soạn Bộ tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các
môn học ở Tiểu học (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội). Chuẩn kiến thức, kĩ năng
được cụ thể hóa ở các chủ đề của môn học theo từng lớp, ở các lĩnh vực học tập
cho từng lớp và cho cả cấp học. Chuẩn kiến thức, kĩ năng là cơ sở để biên soạn
SGK, đánh giá kết quả giáo dục ở từng môn học và hoạt động giáo dục bảo đảm
tính thống nhất, tính khả thi của Chương trình Tiểu học, đảm bảo chất lượng và

hiệu quả của quá trình giáo dục ở Tiểu học.
Riêng đối với cuốn Tiếng Việt và phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu
học (Đinh Thị Oanh - Vũ Thị Kim Dung - Phạm Thị Thanh, Dự án phát triển
giáo viên Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006), ngoài việc cung cấp cho bạn
đọc những phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình và
phương pháp mới cịn cung cấp cho bạn đọc những vấn đề về lý thuyết hội
thoại, về từ Hán Việt, về câu trong văn bản. Mặc dù được biên soạn bởi các
nhóm tác giả khác nhau nhưng cả hai cuốn sách này đều hướng đến việc nâng
cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; cập nhật những đổi mới về nội dung,
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục Tiểu học theo
chương trình, SGK Tiểu học mới. Cả hai cung cấp cho bạn đọc những kiến thức
và kĩ năng để dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học theo hướng đổi mới như: phương
pháp dạy học học vần, tập viết, chính tả, tập đọc,. Sách được biên soạn nhằm
góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học theo chương trình và SGK
mới, theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học. Cả hai cuốn sách đều rất


có ích đối với bạn đọc, đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập
của cán bộ quản lý giáo dục Tiểu học, giảng viên, sinh viên.
Theo GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn
hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, người tham gia viết
SGK và nghiên cứu về việc làm SGK của nhiều quốc gia: “So với 3 lần cải cách
giáo dục trước đây, thì lần đổi mới SGK năm 2002 là bài bản nhất. Năm 2002,
chúng ta xây dựng chương trình trước, biên soạn trong tài liệu dạy thử nghiện
bốn năm mới hồn thành chương trình, rồi mới làm SGK chính thức. Chúng ta
cũng có điều kiện tiếp thu được nhiều kinh nghiệm biên soạn SGK của nước
ngoài. ”[35]
Những cơng trình nghiên cứu trên tuy chưa bàn đến một cách cụ thể những
vấn đề mà luận văn quan tâm song đó là gợi ý cần thiết định hướng cho việc
nghiên cứu luận văn Dạy - học kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên

đơi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1).
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra phương pháp phù hợp để nâng cao chất lượng dạy - học các bài học
có kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4,
tập 1).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định những vấn đề lí luận làm cơ sở cho đề tài.
- Khảo sát chương trình, SGK Tiếng Việt lớp 4 và thực trạng dạy học
những bài có liên quan đến đề tài.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học các bài học
có kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4,
tập 1).
- Thực nghiệm sư phạm.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc dạy - học các bài học có kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên
đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Các bài học có kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đơi cánh ước
mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1). Cụ thể:
Tập đọc:
Ở Vương quốc Tương Lai (Theo Mát-téc-lích)
Điều ước của vua Mi-đát (Theo thần thoại Hy Lạp)
Kể chuyện:
Kể chuyện đã nghe, đã đọc
Luyện từ và câu: Cách viết tên người, tên địa lỷ nước ngoài
Động từ (Bài tập 2)
Tập làm văn:
Luyện tập phát triển câu chuyện (tiết 2)
Chính tả:

Nghe - viết Gà Trống và Cáo (theo La-phông-ten)


Chú dế sau lò sưởi (Theo Xư-phe-rốp, Bài tập 2b)
Phạm vi TN tại hai trường: Tiểu học Việt Nam - Cu Ba, quận Ba Đình (nội
thành Hà Nội) và Tiểu học Đại Mỗ, huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội)
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Luận văn sử dụng phương pháp này nhằm thống kê cụ thể các bài học có
kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập
1), phân loại theo phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện,
Chính tả. Nhờ đó nắm được nội dung, cấu trúc phân mơn và có cơ sở nêu lên
những nhận xét khái quát về nội dung, cấu trúc, những ưu, nhược điểm để đề ra
phương pháp giảng dạy có hiệu quả.
Phương pháp này cịn được sử dụng để thống kê, phân loại các phiếu khảo
sát của HS để rút ra những kết luận cần thiết của luận văn.
Việc phân loại dựa trên cơ sở đặc điểm về nội dung và cấu trúc của
chương trình Tiếng Việt lớp 4.
6.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Sau khi phân loại, cần tiến hành so sánh, đối chiếu các bài học có kiến
thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” và các bài học trong
chương trình Tiếng Việt 4 để tìm ra điểm giống và khác nhau, phần kiến thức
nào hay, mở rộng, có ích cho việc thu nhận kiến thức của HS.
6.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp này được vận dụng để tìm hiểu những kiến thức về ngơn ngữ
nước ngồi, cụ thể là bộ phận tên riêng nước ngoài và việc tiếp cận, giảng dạy
một số tác phẩm văn học nước ngoài trong SGK Tiếng Việt lớp 4. Chỉ ra mối
quan hệ giữa ngơn ngữ và văn học nước ngồi (giống mối quan hệ giữa tiếng
Việt và văn học Việt Nam). Từ đó, tác giả luận văn đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả việc dạy - học kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đơi

cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1).
6.4. Phương pháp điều tra - thực nghiệm
Bằng TN quan sát, phân loại, nêu và tìm hiểu việc dạy học các bài có kiến
thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1) ở
các trường Tiểu học để từ đó tìm ra phương pháp dạy học có hiệu quả, gây hứng
thú cho HS.
Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả (bằng phiếu khảo sát) của HS cả trong
và sau quá trình học tập có so sánh với lớp đối chứng (ĐC). Cơng cụ kiểm tra
đánh giá phải cụ thể và có thể đo được. Công cụ đánh giá dùng cho cả bài học
thực nghiệm (TN) và bài học ĐC.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận., luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy- học kiến thức nước


ngồi trong chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1)
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
8. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài nghiên cứu thành công sẽ tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu
quả việc dạy - học các bài học có kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên
đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1).

NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. về văn học nước ngoài

1.1.1.1. Tác giả Mát-téc-lích và tác phẩm kịch “Con chim xanh ”

a. Tác giả Mát-téc-lích
Maurince Polydore Marie Bernard Maeterlinck (1862-1949) - nhà thơ, nhà
văn Bỉ, nói và viết bằng tiếng Pháp, sinh ở Găng (Gand). Theo mong muốn của
gia đình, ơng học và hành nghề luật sư nhưng vẫn rất thích thơ ca.
Năm 1887, ông đi Paris sáu tháng và quen biết một số nhà thơ của trường
phái tượng trưng chủ nghĩa. Trở về Bỉ, ơng làm luật sư ít lâu nữa rồi bỏ hẳn để
chuyển sang sáng tác. Tập thơ đầu tay Những nhà kính ấm nóng (Serres
chaudes, 1889) được dư luận chú ý. Tiếp đó là các vở kịch Cơng chúa Malen
(La Princesse Maleine, 1889), Bảy nàng công chúa (Les Sept Princesse, 1891),
Pelêax và Mêlizăng (Pelléas et Mélisande,1982)... và tập thơ trữ tình Mười hai
bài ca (Dauze chansons, 1894). Các vở kịch thuộc giai đoạn này của ông mang
đậm dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng với các màu sắc bi quan khá rõ. Tiêu
biểu hơn cả là vở Pelêax và Mêlizăng, kịch 5 hồi bằng văn xuôi, dựng lên mối
tình của Trixtăng (Tristan) và Yzơ (Yseult).
Năm 1896, Mát-téc-lích sang sống ở Pháp, tiếp tục sáng tác nhiều thơ và
kịch. Mở đầu cho giai đoạn kịch thứ hai này là vở Monna Vanna (Monna Vanna,
1902) một vở kịch bằng văn xi, chất kịch thì ít mà chất thơ thì nhiều. Màu sắc
bi quan ngày càng mờ dần đi và ngày càng ánh lên âm điệu tin yêu vào cuộc
sống và con người. Vở kịch Con chim xanh là tác phẩm tiêu biểu cho thời kì
này.
Thời kì Đại chiến I, ơng dùng ngòi bút để phục vụ đất nước, viết nhiều bài
được tập hợp trong Những tàn tích của chiến tranh (Lé Débrí de la guerre,
1916) và vở kịch Viên Thị trưởng Xtilơmông (Le Bourgmestre de Stilmonde,
1918) về đề tài quân Đức chiếm đóng nước Bỉ. Vở Lễ đính hơn (Lé Fiancailles,
1922) mở đầu cho giai đoạn kịch thứ ba, đặc biệt chú trọng đến kỹ thuật xây
dựng kịch. Có thể kể các vở Nỗi bất hạnh đi qua (Le Malheur passe, 1925),


Quyền lực của những người chết (La Puissance des morts, 1926), Mari-Victoa
(Marie-Victoire, 1927), Cơng chúa Izaben (La Princese Íabelle, 1935). Trong

đại chiến II, Mát-téc-lích lánh sang Mỹ. Ơng cịn là người u thích thiên nhiên
và nhất là các lồi vật, viết một số sách về loài ong, loài kiến, được giải thưởng
Nơben về văn học năm 1911.
Mát-téc-lích được trao giải nhờ những tác phẩm kịch mang nội dung
phong phú, giàu tưởng tượng đầy thi vị. Ông thường sử dụng thể loại cổ tích bởi
vì cổ tích là biểu hiện sâu nhất và giản dị nhất của nhận thức tập thể, khơi dậy
những cảm xúc con người.
b. Tác phẩm “Con chim xanh”
Con chim xanh (L’Oiseau bleu) của Mát-téc-lích được sáng tác năm 1906,
diễn lần đầu ở Mat-xcơ-va năm 1908 và in năm 1909, không những tiêu biểu
cho giai đoạn sáng tác thứ hai của Mát-téc-lích mà cịn cho cả sự nghiệp sáng
tác của ơng. Đây cũng chính là tác phẩm giúp nhà văn đạt giải Nobel năm 1911.
Vở kịch mang dáng dấp thần tiên với 6 hồi và 12 cảnh.
Bé trai Tyltyl và bé gái Mytyl là con của một tiều phu theo lời tiên
Bérylun đi tìm Chim xanh. Nhưng con chim mà họ cho là Chim xanh, thực ra
không phải như họ nghĩ. Chim xanh ở trong xứ sở Hoài Niệm đã chết từ lâu. Bà
ngoại cho họ con chim sáo mà họ cứ ngỡ là Chim xanh nhưng khi họ giã từ xứ
sở này thì Chim xanh trở thành đen. Ở trong vương quốc Bóng Tối, họ tìm thấy
trong vườn Ước Mơ và Ánh sáng ban đêm rất nhiều Chim xanh nhưng những
con chim mà họ bắt được đều chết. Đi qua Xứ sở Hồi ức, Lâu đài Đêm tối,
Rừng Chết chóc, Vườn Hạnh phúc, Vương quốc Tương lai, Tyltyl và Mytyl đều
khơng tìm được con Chim xanh có thể mang lại ánh sáng ban ngày.
Con chim xanh được ngợi ca là một câu chuyện thần tiên rực rỡ chất thơ
của tuổi thơ ấu, dù còn mang nặng suy tư nên khơng giữ vẹn được tính hồn
nhiên thuần khiết. Trong tác phẩm, con chim xanh của hạnh phúc chỉ tồn tại ở
bên kia thế giới phù du, nhưng với những người có trái tim trong sáng, họ sẽ
khơng bao giờ tìm kiếm nó một cách vơ ích, bởi cuộc sống tình cảm và trí tưởng
tượng của họ sẽ làm phong phú và thanh tẩy họ trong chuyến du hành qua xứ sở
những giấc mơ.
Với ý nghĩa ấy, vở kịch Con chim xanh đã trở thành một điển cố văn học

biểu tượng cho hạnh phúc tình u.
Tác giả La-phơng-ten và bài thơ ngụ ngôn “Gà Trống và Cáo ”
a. Tác giả La-phông-ten
Jean de La Fontaine (1621 - 1695), nhà ngụ ngôn và nhà văn cổ điển
Pháp ; sinh tại Satô-Chieri. Mẹ mất sớm, được sự giáo dục đầy tinh thần tự do
và sâu rộng của cha, Sac đơ La-phông-ten, một viên chức quản lý khu rừng ở
địa phương. Nhờ cha, cậu bé Jăng (Jean) đã sớm nảy nở những tình cảm đẹp đẽ
với cảnh rừng núi nơi quê hương và có kiến thức rộng. Học xong ở Pari, Laphơng-ten trở về quê, tiếp tục nghề của cha hai mươi năm trời, sống giữa thiên


nhiên và những người nông dân. Cuộc sống này đã ảnh hưởng sâu đậm đến
những sáng tác của La-phông-ten : ngụ ngơn của ơng đầy tính thơ ca, hiện diện
nhiều hình ảnh của cỏ cây, gió mây, sơng núi, con thỏ, con cừu, cả voi và sư tử
nữa... ngòi bút của ơng rất sắc sảo mỗi khi nói đến những người nghèo khổ.
La-phông-ten giao thiệp rộng rãi, lui tới những nhóm trí thức tự do, u
cuộc đời dễ dãi ; chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Gaxăngđi (P. Gassendi,
1592-1655). Ơng tuy có làm thơ ca ngợi nhà vua nhưng vẫn sống cuộc sống độc
lập, không gần gũi cung đình như nhiều nhà văn cổ điển khác.
Ơng viết nhiều thể loại : Truyện thơ (1665-1675), tiểu thuyết Xisê (16641674), kịch. nhưng tiêu biểu hơn cả vẫn là ngụ ngôn.
Văn phong của La-phơng-ten mang tính thơ nhẹ nhàng, mơ mộng, tươi
vui, dí dỏm và đa dạng. Bút pháp của ơng thay đổi từ tác phẩm này sang tác
phẩm khác, khi dí dỏm, khi châm biếm, khi mơ mộng, lúc phóng túng. Truyện
này giống như một vở kịch hề, truyện khác có dáng dấp một phabiơ thời trung
cổ. La-phơng-ten, con người thích những đổi thay, thường được hình dung là
một người tốt bụng, mơ màng, vô tâm, say sưa quan sát khơng biết chán một
con cị hay một đàn kiến tha mồi. Có thể tưởng như La-phơng-ten là một nhà
văn độc lập, đi bên lề văn học cổ điển. Nhưng không phải, ơng chính là một nhà
văn cổ điển tiêu biểu, bên cạnh Môlie, Raxin, Boalô. Ten (H. Taine, 1828-1893)
viết : “Theo người ta nói lại, khi Platơng (Platon, 427-347 tr. CN) được biết đức
Đại đế muốn hiểu người Aten, ông đồng ý rằng cần trình bày lên ngài những hài

kịch của Arixtôphan. Nếu Đại đế muốn hiểu biết chúng ta (tức là người Pháp),
chúng ta sẽ phải trình lên ngài sách của La-phông-ten”. Cũng như Cornây sáng
tạo bi kịch, La-phông-ten đã sáng tạo ngụ ngơn Pháp với đầy đủ tính dân tộc
của nó. Thế kỷ XVII, thế kỷ của sự thống nhất quốc gia Pháp, đã thành lập một
nền văn học dân tộc - văn học cổ điển.
Như các nhà văn cổ điển khác, La-phơng-ten có vốn kiến thức cổ kim sâu
rộng, ông bắt chước Cổ đại, song “không là nơ lệ”; và ơng coi mục đích của văn
học là răn dạy người đời bằng nghệ thuật ngôn ngữ.
La-phông-ten được bầu vào Viện Hàn lâm năm 1683. Từ 1692, sức khỏe
của ơng giảm sút nhiều và mấy năm sau thì mất.
b. Bài thơ ngụ ngôn “Gà Trống và Cáo”
Truyện ngụ ngơn La-phơng-ten do Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin ấn hành
năm 2007 là cuốn sách gồm hơn 100 bài thơ. Mỗi bài là một câu chuyện kể về
các con vật, đồ vật, cỏ cây. Các nhân vật này được tác giả gán cho những tính
cách tốt xấu, chất phác, khờ khạo, khôn ngoan, quỷ quyệt. Nội dung chủ yếu rút
ra từ hiện thực cuộc sống, mang ý nghĩa khuyên răn, dạy bảo người đời: hãy
làm việc bằng chính khả năng và sức lực của mình, chớ trơng cậy vào người
khác; hãy yêu mến và kính trọng mọi người; hãy khôn ngoan trong cách ứng xử,
chớ nên vong ân, kết oán...
Bằng cách dẫn chuyện bằng thơ với những chi tiết cụ thể, sinh động, La-


phông-ten đã đưa người đọc đến gần với cuộc sống hơn, nhất là giáo dục các em
thiếu nhi những điều hay lẽ phải, luân lý đạo đức đời thường, từ hình ảnh lồi
vật, đồ vật gần gũi xung quanh...
Bài thơ Gà Trống và Cáo được in trong tập sách ấy. Bài thơ cũng được đưa
vào SGK Tiếng Việt 4, tập 1 trong phân mơn Tập đọc, Chính tả. Gà Trống và
Cáo là câu chuyện kể về cuộc đấu trí giữa hai nhân vật: Gà Trống thông minh
và Cáo gian ngoan, xảo trá. Qua câu chuyện, nhà thơ muốn khuyên con người
hãy cảnh giác, thông minh như Gà Trống, chớ tin lời lẽ ngọt ngào của kẻ xấu

như Cáo.
Thần thoại Hy Lạp
Thần thoại Hy Lạp là những truyện thần thoại của người Hy Lạp, bao gồm
các truyền thuyết về các vị thần và các vị anh hùng của người Hy Lạp. Ban đầu,
thần thoại Hy Lạp là những câu chuyện thơ truyền khẩu qua nhiều thế hệ. Các
câu chuyện đó tồn tại đến ngày nay là nhờ các ghi chép về các câu chuyện
truyền miệng nói trên, đơi khi chúng được bổ sung thêm các lời giải thích về các
ý nghĩa biểu tượng hoặc các hàm ý khác có thể là hiện đại hoặc cổ điển. Nhiệm
vụ của các nhà nghiên cứu là tìm ra những ý nghĩa ban đầu được ẩn giấu trên
các hình vẽ trên các bình gốm sứ, các bức họa,... hoặc đằng sau những nghi lễ
tôn giáo còn tồn tại đến ngày nay.
Trong các truyền thuyết, câu chuyện và trường ca, tất cả các vị thần của Hy
Lạp cổ đại đều được miêu tả giống như hình dáng của con người, ngoại trừ một
số sinh vật nửa người nửa thú như các nhân sư, số còn lại đều có nguồn gốc từ
vùng Cận Đơng và vùng Thổ Nhĩ Kỳ. Các vị thần Hy Lạp có thể sinh con nhưng
trẻ mãi không già, không bị thương tổn, không ốm đau, có thể tàng hình, có thể
di chuyển rất nhanh và có thể dùng người là phương tiện truyền đạt ý tưởng của
họ mà người đó có thể biết hoặc khơng biết. Mỗi vị thần có một hình dáng, một
nguồn gốc, một sở thích, một cá tính và một lĩnh vực chuyên môn mà họ quản
lý; tuy nhiên, việc miêu tả các thần thường xuất phát từ các dị bản khác nhau
nên không phải lúc nào cũng ăn khớp với nhau. Khi các vị thần được vinh danh
trong thơ ca hoặc khi cầu nguyện thì họ được coi như là một ý nghĩa tổng hợp
gồm tên và trách nhiệm của các vị để phân biệt với các hình ảnh khác của các
thần. Trách nhiệm của một vị thần có thể phản ánh một khía cạnh đặc biệt về vai
trị của vị thần đó, Ví dụ (VD): Apollo, vị thần thơ ca là tên dành cho thần
Apollo, được coi là người bảo trợ cho nghệ thuật: thơ, ca, nhạc, họa; người cầm
đầu các tiên nữ thơ ca muse.
Nhưng trách nhiệm của một vị thần cũng có thể dùng để phân biệt một khía
cạnh đặc biệt nào đó của một vị thần.
Trong các truyện thần thoại Hy Lạp, các vị thần được miêu tả là những

người thuộc cùng một gia đình đa thế hệ. Vị thần già nhất tạo ra thế giới, nhưng
các vị thần trẻ hơn đã thay thế các vị thần già. Mười hai vị thần trên đỉnh
Olympus là các vị thần quen thuộc nhất với tôn giáo Hy Lạp và nghệ thuật Hy


Lạp và được miêu tả trong các sử thi có hình dáng của con người trong Thời đại
của các anh hùng. Đó là các bài học mà tổ tiên người Hy Lạp phải học để có
được các kỹ năng cần thiết, lịng kính sợ thần thánh, đề cao đức hạnh và trừng
phạt tội lỗi. Các vị thần nửa người, nửa thần được gọi là các “anh hùng” và cho
đến khi thiết lập được thể chế dân chủ, các hậu duệ người Hy Lạp xây dựng trên
cơ sở của tổ tiên.
Tác giả Xư-phe-rốp và đoạn trích “Chú dế sau lị sưởi ”
Đoạn văn được đưa vào là một phần của bài tập chính tả, mơn Tiếng Việt
lớp 4. Tác giả soạn sách đã chọn đoạn văn này nói về nhạc sĩ thiên tài, một thần
đồng trong lịch sử âm nhạc thế giới. Tài năng âm nhạc của ông được công nhận
khi mới ba, bốn tuổi. Đoạn văn được trích trong SGK là câu chuyện ngắn nói về
một trong những động lực đã thúc đẩy Mô-da sớm trở thành một thiên tài âm
nhạc, được nhiều người biết đến. Qua việc điền những tiếng có vần iên, yên hay
iêng, bài tập giúp hoc sinh phân biệt cách dùng những từ chứa tiếng có vần dễ
lẫn, góp phần giúp các em nắm được cách viết đúng chính tả.
1.1.2. về lý luận ngơn ngữ học
Trong hệ thống từ tiếng Việt, có thể phân chia các từ thành hai mảng lớn:
thực từ và hư từ. Trong đó, danh từ, động từ, tính từ và số từ là những lớp thực
từ. Trong khuôn khổ luận văn này, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu nên chỉ
đề cập đến từ loại danh từ.
Theo tác giả Lê Biên (Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội, 1999), danh từ là một trong ba từ loại cơ bản của tiếng Việt. Chiếm một
số lượng từ rất lớn trong kho từ vựng tiếng Việt, danh từ có vai trị bậc nhất
trong cấu tạo ngữ pháp. Danh từ cùng với động từ tạo n ên cái trục mà quay
quanh nó là những vấn đề chủ yếu về ngữ pháp và cú pháp của tiếng Việt.

Theo truyền thống và thói quen ngơn ngữ, ở tiếng Việt cũng như các ngôn
ngữ khác, phạm trù danh từ được chia thành hai mảng lớn, căn cứ vào tác dụng
và phạm vi sử dụng, đó là: danh từ riêng và danh từ chung.
Danh từ riêng là những danh từ dùng làm tên gọi cho một người, một sự
vật, một hiện tượng tự nhiên (một vùng đất, dịng sơng, ngọn núi...) riêng biệt,
để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Nó là tên gọi riêng cho từng người,
từng vật, từng địa danh. VD: anh Nam (Nam là tên gọi một người) ; Pa-ri : tên
gọi của một thành phố lớn, thủ đô nước Pháp.
Xét về cấu trúc của danh từ riêng có hai bộ phận:
- Bộ phận chỉ tên riêng Việt Nam như: Lê Quý Đôn; rừng Cúc Phương;
con Vàng; tập thơ Từ ấy....
- Bộ phận chỉ tên riêng nước ngoài (tên người, loài vật và tên địa danh).
Bộ phận này có những cách cấu tạo, sử dụng sau:
+ Tên riêng được vay mượn gián tiếp (qua cách đọc phiên âm Hán Việt,
qua tiếng Pháp) như: vịnh Ba Tư (vịnh Péc-xích), Lê-nin...
+ Cấu tạo tên riêng bằng cách phiên âm trực tiếp cách phát âm của tiếng


nước đó, như: Béc-lin, Ca-na-đa, Na-pơ-nê-ơng,...
Xu thế này được nhiều người tán thành, sử dụng. Địa hạt tên riêng chỉ
người, tên địa danh nước ngồi, hiện nay vẫn cịn những trường hợp là một tên
người, một địa danh lại có hai, ba cách gọi khác nhau, như Mạc Tư Khoa và
Matxcơva, Nã Phá Luân và Na-pô-nê-ông...
Tuy nhiên, cần lưu ý cách viết tên riêng đến nay còn là vấn đề thời sự, đã
và đang được bàn luận để tìm cách viết hợp lý, giản tiện, đảm bảo tính khoa
học. Trong q trình chuẩn hóa tiếng Việt, bước đầu đã có những quy định để
dần dần thống nhất cách viết tên riêng trên sách báo, và dùng trong nhà trường.
Cần tìm hiểu, học tập để sử dụng và giảng dạy cho đúng quy tắc và đúng chuẩn
của Tiếng Việt.
Trong cuốn Dạy học Chính tả ở Tiểu học, xuất bản năm 2007, tác giả

Hoàng Văn Thung - Đỗ Xuân Thảo đã đề cập đến vấn đề Chính tả các từ phiên
âm như sau:
Phiên âm là cách đọc tiếng nước ngoài sang tiếng Việt bàng cách ghi âm
của tiếng Việt. Những tiếng nước ngồi thường phiên âm là tên riêng, tên tổ
chức chính trị - xã hội, địa danh, tác phẩm khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội.
Theo nguyên tắc chung, phiên âm dựa trên cách đọc nguyên ngữ rồi ghi
âm bằng chữ viết tiếng Việt, để tái tạo lại cách đọc nguyên ngữ của các từ được
ghi âm.
Trong thực tế, cách viết ghi âm chỉ có thể phản ánh cách đọc tương đối
đúng so với cách đọc nguyên ngữ. Các chữ cái ở bảng chữ cái tiếng Việt vốn
phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt, có nhiều điểm khơng theo sát hệ thống
những âm khơng có ở hệ thống ngữ âm tiếng nước ngoài, và trong hệ thống ngữ
âm tiếng nước ngoài, và trong hệ thống ngữ âm tiếng nước ngồi cũng có những
âm khơng có ở hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Ngun nhân đó dẫn đến tình trạng
vừa thừa vừa thiếu chữ cái trong cách viết phiên âm. Để khắc phục tình trạng
đó, buộc phải sử dụng thêm một số chữ cái (chủ yếu là chữ La-tinh - cùng
nguồn gốc với chữ Việt) để ghi những câu khơng có trong hệ thống ngữ âm
tiếng Việt. Cách viết ghi âm bằng chữ viết La tinh để áp dụng khi tiếng nước
ngoài cũng dùng chữ viết La tinh như tiếng Việt (tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng
Tây Ba Nha v.v..)
Đối với các ngôn ngữ dùng chữ viết riêng-không phải là chữ viết La tinh,
thì có thể căn cứ vào cách đọc nguyên dạng để ghi trực tiếp bằng chữ Việt (tiếng
Nga, tiếng Lào, tiếng Hán, tiếng Cam-pu-chia .v.v..)
Chuyển tự là chuyển cách viết tiếng nước ngoài sang cách viết bằng chữ
Việt. Chuyển tự được thực hiện đối với những tiếng nước ngoài cùng sử dụng
chữ La tinh như tiếng Việt.
Đối với các nước dùng chữ viết không phải là chữ La tinh (chữ Hán, chữ
Nhật, chữ Thái v.v..) thì phải chuyển tự sang chữ La tinh để viết tiếng Việt.



Chính tả tên riêng và thuật ngữ theo các quy định về cách viết phiên âm và
chuyển tự (ban hành kèm theo quyết định số 240/QĐ ngày 5-3-1984 của Bộ
giáo dục) cần chú ý một số điểm cụ thể sau:
a) Viết các tên riêng và thuật ngữ chủ yếu theo dạng chữ viết La tinh (chữ
viết chính thức hay phiên âm từ nguyên ngữ) vận dụng vào từng trường hợp cụ
thể được quy định trong văn bản trên.
b) Tuy nhiên, hiện nay vẫn tồn tại hai cách xử lý chính tả khi viết các tên
riêng và thuật ngữ tiếng nước ngoài:


Các trường hợp

- Chữ viết của nguyên
ngữ là chữ cái La tinh

Cách viết ròi từng âm
Cách viết liền các âm
tiết trong từ nguyên
tiết trong từ nguyên ngữ ngữ (cách viết tiếng
Việt)
Pa-ri
Paris (Pháp) London
(Anh) Petofi (Hungari)
Latin

- Chữ viết nguyên ngữ
là chữ ghi âm không
phải là chữ La tinh
chuyển sang chữ La tinh


Luân-đôn
Pê-tơ-fi (phi)
La tinh (tin)

Lomonosov (Nga)

Lô-mô-nô-xốp

Moskva (Nga)

Mát-xcơ-va

Shakespeare (Anh)

Sếch-xpia

-Chữ viết nguyên ngữ
không phải là chữ ghi
âm-phiên âm và chuyển
tự sang chữ La tinh

Tokyo

Tơ-ki-ơ

- Chữ viết ngun ngữ
có hình thức phiên âm
Hán Việt (viết theo cách
đọc Hán Việt)


Ý (Italia) Úc (Autralia)

Ý, I-ta-li-a

Anh Pháp

Úc, Ốt-xtra-li-a
Anh
Pháp

- Các thuật ngữ khoa
học

acid

a-xit

gram

gam

sulfur parabol

sun-fua pa-ra-bon vi-

video

đi-ô


1.1.3. về dạy học theo chủ điểm trong chưong trình Tiếng Việt ở Tiểu học


Sách Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5 thể hiện hướng tích hợp thơng qua hệ
thống các chủ điểm học tập. Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn (Tập đọc,
Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn) trước đây ít được gắn bó với nhau,
nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc; các nhiệm vụ
cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.
Ngồi ra, SGK Tiếng Việt còn được xây dựng dựa trên nguyên tắc tích hợp
theo chiều dọc, nghĩa là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới với
những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm (còn gọi
là đồng trục hay vịng trịn xốy trơn ốc), cụ thể là: Kiến thức và kĩ năng của lớp
trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới,
nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kĩ năng của lớp dưới. Có thể lấy một VD
trong cuốn sách Tiếng Việt để làm rõ điều này: Trong bộ SGK, chủ điểm được
chọn làm khung cho cả cuốn sách (chủ điểm Gia đình, Nhà trường, Xã hội,
Thiên nhiên và đất nước...). Mỗi chủ điểm ứng với một đơn vị học tập. Ở lớp 1,
thời gian dành cho mỗi đơn vị học là một tuần; các chủ điểm lần lượt trở đi trở
lại theo kiểu đồng tâm xốy trơn ốc; mỗi lần trở lại là một lần được khai thác
sâu hơn. Từ lớp 2 đến lớp 3, mỗi chủ điểm được dạy trong hai tuần; vịng đồng
tâm xốy trơn ốc ở đây thưa hơn: Phải sau một năm, học sinh trở lại với chủ
điểm đã học. Đến lớp 4 và lớp 5, mỗi chủ điểm được dạy trong 3 tuần và chỉ
xuất hiện một lần.
Về nội dung, cả ba lớp đầu cấp, toàn bộ các bài học đều được xây dựng
theo các chủ điểm: Nhà trường, Gia đình, Xã hội và Thiên nhiên. Tuy vậy , các
chủ điểm được mở rộng và nâng cao dần ở mỗi lớp. VD ở lớp 2, các chủ điểm
trên được chia nhỏ với các tên gọi như: Em là học sinh, Bạn bè, Trường học,
Thầy cơ, Cha mẹ, Anh em, Ơng bà, Bạn trong nhà, Bốn mùa, Chim chóc,
Mng thú, Sơng biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân dân. Đến lớp 3, các chủ điểm từ
tuần 1 đến tuần 6 (Măng non, Mái ấm, Tới trường) tuy quen thuộc nhưng đã

được mở rộng và nâng cao một bậc so với lớp 2; các chủ điểm từ tuần 7 đến
tuần 32 (Cộng đồng, Quê hương Bắc - Trung - Nam, Anh em một nhà, Thành
thị- nông thôn, Bảo vệ Tổ Quốc, Sáng tạo, Văn hóa - Nghệ thuật, Lễ hội, Thể
thao, Ngôi nhà chung, Bầu trời và mặt đất) thể hiện nội dung hoàn toàn mới so
với lớp 2.
Trong dạy học Tiếng Việt, tích hợp hiểu một cách đơn giản là dạy đọc,
viết, nghe, nói, Làm văn, Luyện từ và câu... hợp nhất, hòa trộn và nhau, học cái
này thông qua cái kia và ngược lại. Như thế mới tránh được những vướ ng mắc
dư thừa hay chồng chéo nội dung trong quá trình dạy học Tiếng Việt và Làm
văn, Luyện từ và câu như trước đây. Có thể khẳng định ở đây là dạy học Tiếng
Việt hướng tới mục tiêu chung là hình thành, rèn luyện bốn kĩ năng nghe, nói,


đọc, viết cho HS và đều dựa vào một chủ điểm. Với sự mở rộng việc lựa chọn
các chủ điểm như thế trong SGK sẽ tạo cơ hội và cơ sở tích hợp trong dạy học
Tiếng Việt đậm đặc hơn. Tuy nhiên, sự lựa chọn chủ điểm không thể tùy tiện.
Tiêu chuẩn đầu tiên để chọn chủ điểm được dùng chung này là phải đảm bảo
mọi thuộc tính riêng của Tập đọc, Làm văn, Chính tả phải được hịa kết với
nhau thì mới tạo nên “tam vị nhất thể” rõ ràng, nổi lên trên mọi thuộc tính đa
biệt. Như vậy, từ bốn kĩ năng được dạy tách biệt đã được hợp nhất về một mơn
có tên gọi Tiếng Việt.
Có thể nói rằng tác phẩm văn học là một yếu tố cấu thành SGK Tiếng Việt
Tiểu học. Ở chương trình Tiểu học 2000, kiến thức về Ngữ chiếm tỉ lệ nhiều
hơn kiến thức về Văn và được tích hợp thành một môn, được thể hiện chung
trong một cuốn sách - sách mơn “Tiếng Việt”.
Từ nội dung chương trình, từ chủ điểm, tác giả SGK đi tìm tác phẩm văn
học và biên soạn thành bài học giáo khoa sao cho vừa phải đảm bảo tính giáo
dục vừa cung cấp kiến thức ngơn từ, kiến thức về đời sống xã hội cho trẻ thơ.
Những bài thơ, bài văn, văn bản tác giả SGK phải tìm buộc phải thỏa mãn
khơng ít u cầu, như phải gắn với chủ điểm, phải vừa có giá trị thẩm mĩ, giá trị

giáo dục cao, vừa phù hợp đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm nhận thức của học
sinh Tiểu học, vừa góp phần rèn luyện nhân cách vừa góp phần rèn luyện lời ăn
tiếng nói cho HS... Chương trình, đề cương mà chủ biên và hội đồng xây dựng
cũng yêu cầu tác giả SGK phải chọn thơ, văn sao cho phong phú về nội dung,
đa dạng về thể loại, đặc sắc về cấu trúc, tinh tế hàm súc về ngơn từ,... Đồng
thời, với việc tìm chọn những văn bản đảm bảo giá trị nội dung và giá trị nghệ
thuật, tác giả SGK cịn phải chú trọng tính đa dạng, đặc trưng của vùng miền,
của các thế hệ nhà văn, nhà thơ',... Có thể nói mà khơng hề q rằng tìm được
bài thơ, bài văn làm ngữ liệu cho việc biên soạn các bài học, người viết SGK
Tiếng Việt tiểu học 2000 đã hồn thành hơn 90% cơng việc được giao.
Tỷ lệ thơ so với văn xuôi ở mỗi lớp và mỗi phân mơn khơng hồn tồn
như nhau. Điều này tùy thuộc vào thế mạnh của mỗi thể loại trong sự gắn với
nhiệm vụ chuyển tải các đơn vị kiến thức.
Văn bản từ các nguồn từ sách in, báo in đến sách báo trên mạng Internet;
từ tác phẩm trong nước đến tác phẩm nước ngồi, đến tìm lại từ SGK cũ,... đều
được tác giả SGK Tiếng Việt Tiểu học tìm tịi, lục sốt với nhiều phương thức,
trong đó có cả tìm cách tiếp cận, gặp gỡ các nhà thơ, nhà văn để đặt hàng sáng
tác bài vở cho chủ điểm mình cần.
Có thể mở bất cứ trang sách nào của SGK Tiếng Việt Tiểu học, ở mỗi tuần
mỗi chủ điểm, ta đều dễ dàng bắt gặp những câu thơ, đoạn văn được làm dẫn
liệu cho các kiểu rèn luyện chính tả, bài tập luyện từ và câu, bài tập làm văn


v.v..
Chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng Việt 4, tập 1) cũng theo cấu trúc
như vậy. Trong tổng số 24 bài học của chủ điểm có 6 bài dạy - học kiến thức
nước ngoài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn việc dạy - học phân môn Tiếng Việt theo chủ điểm
Dựa vào mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học, SGK đã tích hợp kiến

thức Tiếng Việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và
xã hội thông qua các chủ điểm học tập theo nguyên tắc đồng quy. Bằng việc tổ
chức hệ thống bài đọc, bài học theo chủ điểm, SGK dẫn dắt HS đi dần vào các
lĩnh vực của đời sống, qua đó tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về
nhà trường, gia đình và xã hội, đồng thời mở rộng cánh cửa cho các em bước
vào thế giới xung quanh và soi vào thế giới tâm hồn của chính mình.
Ở lớp 1, HS được học theo các chủ điểm tương đối rộng: Nhà trường, Gia
đình, Thiên nhiên và Đất nước. Lên lớp 2, các chủ điểm được chia nhỏ hơn.
VD: chủ điểm Nhà trường và Gia đình ở lớp 2 được chia thành 8 chủ điểm nhỏ:
Em là học sinh, Bạn bè, Trường học, Thầy cô, Cha mẹ, Anh em, Ơng bà, Bạn ở
trong nhà. Lớp 3, ngồi các chủ điểm đã học ở lớp 1 và 2, HS được tiếp cận với
các chủ điểm mới mở rộng hơn như Quê hương, Cộng đồng, Bắc Trung Nam,
Ngôi nhà chung, Khoa học, Thể thao, Lễ hội... Lớp 4: Thương người như thể
thương thân, Măng mọc thẳng, Trên đôi cánh ước mơ, Có chí thì nên, Người ta
là hoa đất, Những người quả cảm, Khám phá thế giới, Tình yêu cuộc sống...
Lớp 5: Việt Nam - Tổ quốc em, Cánh chim hồ bình, Con người với thiên nhiên,
Giữ lấy màu xanh, Vì hạnh phúc con người, Vì cuộc sống thanh bình, Nhớ
nguồn, Những chủ nhân tương lai...
Việc chia nhỏ các chủ điểm phù hợp với sự phát triển nhận thức của trẻ và
giúp trẻ duy trì hứng thú học tập, loại trừ cảm giác nhàm chán dễ xảy ra khi học
một chủ điểm trong một thời gian quá dài.
Các chủ điểm là bộ khung cho cả cuốn SGK. Ở lớp 1, thời gian học dành
cho mỗi đơn vị học là 1 tuần; các chủ điểm lần lượt trở đi trở lại theo kiểu đồng
tâm xoáy ốc; mỗi lần trở lại là một lần khai thác sâu hơn. Từ lớp 2 trở lên, mỗi
chủ điểm được dạy trong 2 tuần, vòng đồng tâm xoáy ốc thưa hơn. Phải sau một
năm, học sinh mới trở lại với chủ điểm đã học.
Tính tích hợp của bộ sách còn thể hiện ở sự gắn bó giữa các bài học trong
phân mơn học, sự gắn bó các phân mơn trong mơn học. Quan điểm tích hợp thể
hiện rõ trong SGK Tiếng Việt Tiểu học có thể theo chiều ngang hoặc theo chiều
dọc.

* Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp kiến thức giữa tiếng Việt với các
mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc


đồng quy. Chẳng hạn hướng tích hợp này được SGK Tiếng Việt lớp 4 thể hiện
thông qua hệ thống 10 chủ điểm:
- Tập 1: Thương người như thể thương thân - Măng mọc thẳng - Trên đôi
cánh ước mơ - Có chí thì nên - Tiếng sáo diều
- Tập 2: Người ta là hoa đất - Vẽ đẹp muôn màu - Những người quả cảm Khám phá thế giới - Tình yêu cuộc sống .
SGK đã hướng dẫn các lĩnh vực vào đời sống. Qua đó tăng cường vốn từ,
khả năng diễn đạt về mọi lĩnh vực Nhà trường - Gia đình - Xã hội giúp các em
hiểu được thế giới xung quanh soi vào thế giới tâm hồn mình.Theo quan điểm
tích hợp, các phân mơn (Tập đọc, Kể chuyện, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập
làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp lại xung quanh trục
chủ điểm và các bài đọc; các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng
cũng gắn bõ chặt chẽ với nhau hơn trước.
SGK Tiếng Việt lớp 2 có chủ điểm: “Em là học sinh”. Mở đầu chủ điểm là
bài: “Lý lịch” để giáo dục HS biết những điều cơ bản và rất gần gũi về bản thân,
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS. Đây là chủ điểm mới thể hiện rất rõ
tính nhân văn, rất gần gũi với HS.
* Tích hợp theo chiều dọc là tích hợp một đơn vị kiến thức và kỹ năng với
đơn vị kiến thức và kỹ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm. Nghĩa
là: kiến thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm cả kiến thức và kỹ
năng của lớp dưới, nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kỹ năng của lớp dưới,
bậc học dưới. Điều này ở phân môn Tập đọc thể hiện rất rõ.
VD: Về mặt kiến thức: Ở lớp 1 cũng như lớp 2, toàn bộ các bài học đều
được xây dựng theo các chủ điểm Nhà trường, Gia đình, Xã hội và Thiên nhiên.
Ở lớp 1, thời gian dành cho mỗi đơn vị học là một tuần; các chủ điểm lần lượt
trở lại theo kiểu đồng tâm xốy trơn ốc; mỗi lần trở lại là một lần được khai thác
sâu hơn. Đến lớp 2, mỗi chủ điểm nói trên được chia thành nhiều chủ điểm nhỏ,

tạo điều kiện cho HS hiểu biết sâu hơn nữa. VD: chủ điểm Nhà trường bao gồm
4 chủ điểm nhỏ là Em là học sinh, Bạn bè, Trường học, thầy cô. Mỗi chủ điểm
nhỏ được học trong 2 tuần và chỉ xuất hiện 1 lần. Đến lớp 4 và lớp 5, mỗi chủ
điểm được dạy trong 3 tuần và chỉ xuất hiện một lần.
Trên cơ sở định hướng của Chương trình và SGK ta thấy SGK Tiếng Việt
thực hiện việc tích hợp theo các hướng chính sau:
- Tích hợp kiến thức thông qua các hệ thống chủ điểm (nội dung các bài
đọc được thiết lập theo chủ điểm và chương trình là một hệ thống các chủ điểm
về các vấn đề gần gũi với trẻ như gia đình, trường học).
- Tích hợp các kỹ năng học tập (các bài học đều chú ý rèn luyện cả 4 kỹ
năng: nghe- nói- đọc- viết, kết hợp dạy thực hành các kỹ năng trên với dạy tri
thức: ở lớp 4,5 tuy đã có bài dạy tri thức Tiếng Việt riêng, song các bài này vẫn
được thực hiện trên cơ sở thực hành đọc, viết, nghe, nói. Tuy nhiên trong đó có
một kỹ năng trung tâm, các kỹ năng khác được rèn luyện phối hợp và có tác


dụng bổ trợ cho kỹ năng chính).
- Các phân mơn như Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện...tập hợp
quanh trục chủ điểm và các bài đọc.
1.2.2. Thực tiễn việc dạy - học chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” (Tiếng
Việt 4, tập 1)
Là chủ điểm thứ ba trong SGK Tiếng Việt 4, tập 1. Giống như các chủ
điểm khác, chủ điểm "Trên đôi cánh ước mơ” được dạy trong ba tuần 7,8,9. Mỗi
tuần học là tám tiết: hai tiết Tập đọc, hai tiết Luyện từ và câu, hai tiết Tập làm
văn, một tiết Chính tả và một tiết Kể chuyện. Nhìn chung, các bài Tập đọc xoay
quanh chủ đề cuộc sống có biết bao khó khăn, thử thách nhưng con người vẫn
có thể vượt qua bằng nỗ lực, bằng cả sự lạc quan và biết ước mơ. Thế nên
những bài thơ, bài văn, văn bản mà các tác giả SGK lựa chọn cũng đề cập đến
chủ điểm xuyên suốt đó. Khơng những thế, hầu hết các bài Tập đọc trong chủ
điểm là ngữ liệu cho bài viết Chính tả trong tuần như: Gà Trống và Cáo, Trung

thu độc lập, Thợ rèn. Phân môn Luyện từ và câu tập trung vào nội dung về từ
loại: Cách viết tên người, tên địa lỷ Việt Nam; cách viết tên người, tên địa lỷ
nước ngồi. Thêm vào đó là một tiết Mở rộng vốn từ về ước mơ, một bài về
Dấu ngoặc kép và một bài về Động từ. Phân môn kể chuyện bên cạnh việc tiếp
tục hướng HS vào kĩ năng kể chuyện đã nghe, đã đọc, biết lựa chọn những câu
chuyện phù hợp với chủ điểm: những ước mơ đẹp hay những ước mơ viển
vơng, phi lý để kể. SGK cịn cung cấp cho HS một số câu chuyện mới ở tuần 8
như: Lời ước dưới trăng mang một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đó là những ước
mơ đẹp mang đến niềm vui và hạnh phúc cho mọi người. Ngoài ra, trong chủ
điểm còn giới thiệu một kiểu bài kể chuyện mới: Kể chuyện được chứng kiến
hoặc tham gia tuy khơng phải là mới hồn tồn vì các em đã được làm quen với
kiểu bài này trong phân môn Tập làm văn lớp 3 nhưng trong chủ điểm này lại đi
sâu vào khai thác những câu chuyện là những ước mơ có thực, đẹp đẽ của mình
hoặc bạn bè, người thân. Qua bài học, HS có kĩ năng sắp xếp các sự việc thành
một câu chuyện, sau đó biết trao đổi với các bạn về ý nghĩa câu chuyện của
mình.
Riêng với phân môn Tập làm văn, trong ba tuần học chủ điểm "Trên đôi
cánh ước mơ” chủ yếu tập trung dạy, học các dạng bài Luyện tập phát triển câu
chuyện, chiếm 4 tiết/6 tiết tập làm văn. Các dạng bài tập làm văn này hướng tới
mục tiêu làm quen với hoạt động phát triển câu chuyện, sắp xếp các sự việc theo
trình tự thời gian hoặc khơng gian. 2/6 bài tập làm văn còn lại, một bài Luyện
tập xây dựng đoạn văn kể chuyện dựa vào cốt chuyện cho sẵn, HS biết tạo dựng
các đoạn văn của bài kể chuyện. Đây có thể coi là một bài làm nền móng, mở
đầu cho các kiểu bài luyện tập phát triển câu chuyện, khiến cho các em có thể
thực hành tốt hơn dạng bài này. Kết thức chủ điểm là một dạng bài hoàn toàn
mới: Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân. Sau bài này, HS có khả năng
thực hiện các cuộc trao đổi có mục đích với thái độ tự tin, thân ái, lời lẽ có sức


thuyết phục. Góp phần rèn khả năng sử dụng lời lẽ, cử chỉ thích hợp để thuyết

phục người khác trong một việc nào đó.
Tuy nhiên, chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” chưa được người GV, học
viên lựa chọn để làm đề tài khoa học. Chỉ có một số bài được lựa chọn để dạy
chuyên đề, hội giảng như bài: Điều ước của vua Mi-đát, Nếu chúng mình có
phép lạ (Tập đọc), Cách viết tên người, tên riêng Việt Nam, Mở rộng vốn từ:
Ước mơ (Luyện từ và câu)... Có lẽ là vì ở phân mơn Luyện từ và câu có bài nội
dung kiến thức tương đối rộng và khó như bài Cách viết tên người, tên địa lỷ
nước ngoài. Các bài tập làm văn, kể chuyện thì địi hỏi HS phải chủ động, tự tin
trong các hoạt động học thì giờ dạy mới thành cơng được. Điều này khiến người
GV luôn phải cân nhắc, cẩn trọng khi chọn bài để lên tiết dạy mẫu hay thi GV
dạy giỏi.
Tiểu kết chương 1
Các tác phẩm, trích đoạn tác phẩm được chọn để giảng dạy hoặc làm ngữ
liệu giảng dạy đều thuộc các tác phẩm tiêu biểu của một số nền văn học nước
ngồi; có nội dung dễ hiểu, đơn giản, gần gũi, phù hợp với tâm lý của trẻ thơ
đồng thời phù hợp với định hướng giáo dục tâm lý, đạo đức của giáo dục Việt
Nam.
Vấn đề lý luận ngôn ngữ học làm cơ sở cho luận văn là những vấn đề về
danh từ. Trong đó, đặc biệt là vấn đề danh từ riêng và cách đọc, cách viết danh
từ riêng nước ngồi. Về vấn đề thứ hai, đã có quy định chung về cách viết phiên
âm và chuyển tự trong chính tả tên riêng và thuật ngữ (ban hành kèm theo
Quyết định số 240/QĐ ngày 05-3-1984 của Bộ Giáo dục). Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng hiện nay vẫn tồn tại hai cách xử lý chính tả khi viết các tên riêng và thuật
ngữ tiếng nước ngồi, đó là cách viết liền các âm tiết trong từ nguyên ngữ và
cách viết rời từng âm tiết trong từ nguyên ngữ (cách viết tiếng Việt).
Chương trình Tiếng Việt Tiểu học - 2006 gồm các bộ phận là kỹ năng sử
dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói); tri thức Tiếng Việt (một số hiểu biết cơ
sở, tối thiểu về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp...); Tri thức về văn học,
về tự nhiên và xã hội (một số hiểu biết tối thiểu về sáng tác văn học và cách tiếp
cận chúng, về con người, về đời sống tinh thần và vật chất của họ, về đất nước

và dân tộc Việt Nam...). Cấu trúc này được sắp xếp theo hai giai đoạn phát triển
của HS lứa tuổi Tiểu học.
Trong thực tế, hoạt động dạy học dựa trên cơ sở của nguyên tắc tích hợp,
đồng quy: Tích hợp kiến thức thơng qua các hệ thống chủ điểm; Tích hợp các
kỹ năng học tập.
“Trên đơi cánh ước mơ” là chủ điểm thứ ba trong SGK Tiếng Việt 4, tập 1.
Các bài Tập đọc trong chủ điểm này đều xoay quanh việc nêu gương, cổ vũ con
người vượt qua những khó khăn thử thách, cám dỗ để vươn tới những điều tốt
đẹp trong cuộc sống. Những bài tập đọc trở thành ngữ liệu cho các bài Chính tả,
Luyện từ và câu...


Như vậy, Chương 1 của luận văn đã trình bày khái quát những cơ sở lý
luận và thực tiễn cần thiết cho đề tài luận văn.


Chương 2:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY - HỌC KIẾN THỨC NƯỚC NGỒI
TRONG CHỦ ĐIỂM “TRÊN ĐƠI CÁNH ƯỚC MƠ”
(TIẾNG VIỆT LỚP 4, TẬP 1)
2.1. Khái quát về chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” trong chương
trình mơn Tiếng Việt lớp 4, tập 1
2.1.1. Vị trí của chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” trong chương trình
mơn Tiếng Việt lớp 4, tập 1
Trong bộ SGK, chủ điểm được chọn làm khung cho cả cuốn sách (chủ
điểm Gia đình, Nhà trường, Xã hội, Thiên nhiên và đất nước...). Mỗi chủ điểm
ứng với một đơn vị học tập. Ở lớp 1, thời gian dành cho mỗi đơn vị học là một
tuần; các chủ điểm lần lượt trở đi trở lại theo kiểu đồng tâm xốy trơn ốc; mỗi
lần trở lại là một lần được khai thác sâu hơn. Từ lớp 2 đến lớp 3, mỗi chủ điểm

được dạy trong hai tuần; vịng đồng tâm xốy trơn ốc ở đây thưa hơn: Phải sau
một năm, HS trở lại với chủ điểm đã học. Đến lớp 4 và lớp 5, mỗi chủ điểm
được dạy trong 3 tuần và chỉ xuất hiện một lần.
SGK Tiếng Việt 4 (tập 1, tập 2) dạy cho cả năm học được chia làm 10 chủ
điểm. Trong đó, chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” được xếp ở vị trí thứ ba, sau
2 chủ điểm: Thương người như thể thương thân, Măng mọc thẳng. Chủ điểm
“Trên đôi cánh ước mơ” được dạy trong ba tuần học: tuần 7, 8, 9 của học kỳ I.
Cách sắp xếp chủ điểm như vậy là phù hợp với nhận thức, tâm lý lứa tuổi của
học sinh. Sở dĩ các chủ điểm được sắp xếp như vậy là vì ngay từ những chủ
điểm đầu tiên, chương trình SGK đã chuẩn bị và định hướng cho các em một
số tính cách tốt đẹp của con người trong thế hệ mới. Đó là
nhân hậu, đồn kết, tình yêu thương con người “Thương người như thể thương
thân trung thực, tự trọng trong “Măng mọc thẳng ” và biết ước mơ và vươn tới
thực hiện ước mơ của mình trong “Trên đơi cánh ước mơ”. Các tính cách tốt
đẹp đó được tiếp nối và tạm kết thúc vào cuối học kỳ I ở chủ điểm thứ tư, đó là:
nghị lực, ý chí quyết tâm, vượt khó của con người. Các chủ điểm tiếp sau đó ở
học kỳ hai đi sâu vào chủ yếu khám phá các năng lực, sở thích... của con người.
2.1.2. Nội dung của chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” trong chương
trình mơn Tiếng Việt lớp 4, tập 1
Tính phù hợp lứa tuổi, trình độ nhận thức của đối tượng tiếp nhận luôn là
tiêu chí tối cao cho việc lựa chọn tác phẩm để đưa vào chương trình dạy và
học. Hiệu quả giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, bước đầu nâng cao tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của HS Tiểu học phụ thuộc vào yếu tố này. Dạy văn ở Tiểu


học là dạy theo chủ điểm. Bởi thế, các nhà biên soạn, khi lựa chọn giới thiệu,
giảng dạy các tác phẩm văn học trong nước và nước ngoài trong chương trình
Tiểu học đều quan tâm trước hết đến ý nghĩa giáo dục của nó. Các khía cạnh
khác như tính khái quát, tính nghệ thuật, tính hệ thống, tính lịch sử. của tác
phẩm cũng quan trọng nhưng chưa cần thiết phải giới thiệu kỹ vì chúng quá

trừu tượng với các em.
Trong chương trình Tiểu học có khoảng hơn 100 truyện dân gian cùng với
các bài, các đoạn trích văn thơ của các tác giả nổi tiếng trên thế giới. Các tác
giả và tác phẩm ấy đã để lại những dấu ấn khó phai trong tâm trí của bạn đọc ở
lứa tuổi Tiểu học về những kiến thức phong phú của đời sống, về những khát
vọng cao cả của con người từ ngàn xưa cho đến bây giờ trên khắp trái đất của
chúng ta.
Việc chia nhỏ các chủ điểm phù hợp với sự phát triển nhận thức của trẻ và
giúp trẻ duy trì hứng thú học tập, loại trừ cảm giác nhàm chán dễ xảy ra khi
học một chủ điểm trong một thời gian quá dài
Về nội dung, cả ba lớp đầu cấp, toàn bộ các bài học đều được xây dựng
theo các chủ điểm: Nhà trường, Gia đình, Xã hội và Thiên nhiên. Tuy vậy các
chủ điểm được mở rộng và nâng cao dần ở mỗi lớp. VD ở lớp 2, các chủ điểm
trên được chia nhỏ với các tên gọi như: Em là học sinh, Bạn bè, Trường học,
Thầy cô, Cha mẹ, Anh em, Ông bà, Bạn trong nhà, Bốn mùa, Chim chóc,
Mng thú, Sơng biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân dân. Đến lớp 3, các chủ điểm từ
tuần 1 đến tuần 6 (Măng non, Mái ấm, Tới trường) tuy quen thuộc nhưng đã
được mở rộng và nâng cao một bậc so với lớp 2; các chủ điểm từ tuần 7 đến
tuần 32 (Cộng đồng, Quê hương Bắc - Trung - Nam, Anh em một nhà, Thành
thị - nông thôn, Bảo vệ Tổ Quốc, Sáng tạo, Văn hóa - Nghệ thuật, Lễ hội, Thể
thao, Ngôi nhà chung, Bầu trời và mặt đất) thể hiện nội dung hoàn toàn mới so
với lớp 2.
Lên lớp 4, các chủ điểm vẫn trở lại theo kiểu đồng tâm xoáy ốc, nhưng
khai thác sâu hơn. Nội dung các chủ điểm là những vấn đề về đời sống tinh
thần như tính cách, đạo đức, năng lực, sở thích... Trong SGK Tiếng Việt 4, tập
1 HS làm quen với 5 chủ điểm: “Thương người như thể thương thân” (nói về
lịng nhân ái), “Măng mọc thẳng” (nói về tính trung thực, lịng tự trọng), “Trên
đơi cánh ước mơ” (nói về ước mơ của con người), “Có chí thì nên” (nói về
nghị lực của con người), “Tiếng sáo diều” (nói về vui chơi của trẻ em). Sang
đến học kỳ 2, các em tiếp tục khám phá các chủ điểm như: “Người ta là hoa

đất” (nói về năng lực và tài trí), “Vẻ đẹp mn màu” (nói về óc thẩm mĩ),
“Những người quả cảm” (nói về lịng dũng cảm), “Khám phá thế giới” (nói về
du lịch, thám hiểm), “Tình u cuộc sống” (Nói về lịng lạc quan, u đời)
Trong khn khổ có hạn, luận văn đi sâu vào chủ điểm thứ ba - “Trên đôi


cánh ước mơ”. Cuộc sống có biết bao khó khăn, thử thách, nhưng con người
vẫn có thể vượt qua bằng nỗ lực, bằng sự lạc quan và biết ước mơ. Mở đầu chủ
điểm là bài Tập đọc Trung thu độc lập, HS được biết đêm trung thu đầu tiên
của đất nước, anh chiến sĩ đứng gác và mơ ước về tương lai đẹp đẽ của các em
nhỏ và của đất nước. Sau đó là câu chuyện Lời ước dưới trăng với ý nghĩa:
những ước mơ đẹp sẽ mang đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Ước
mơ của các bạn nhỏ về một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, có những phát minh
độc đáo của trẻ em là nội dung của vở kịch Ở Vương quốc Tương Lai. Ngoài
ra, bài thơ Nếu chúng mình có phép lạ cho các em thấy những ước mơ ngộ
nghĩnh, đáng yêu của bạn nhỏ bộc lộ khát khao về một thế giới tốt đẹp. Hay
ước mơ giản dị của một bạn nhỏ trong tương lai là trở thành người thợ rèn và
thuyết phục mẹ rằng nghề nào cũng đáng quý trong câu chuyện Thưa chuyện
với mẹ. Tự có những ước mơ tốt đẹp của riêng mình nhưng cũng biết quan tâm
và tơn trong ước mơ của người khác như trong bài Đôi giày ba ta màu xanh.
Và bài học sâu sắc những ước muốn tham lam không đem lại hạnh phúc cho
con người sau câu chuyện Điều ước của vua Mi-đát... Tất cả những tác phẩm,
những câu chuyện, bài thơ, vở kịch của các tác giả văn học nổi tiếng trong
nước và đặc biệt là trên thế giới được chọn trong chủ điểm đều nhằm giáo dục
nhằm hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho con người. Ngoài việc đem lại
các tác phẩm văn học nước ngồi, chủ điểm cịn đem lại cho HS các bài học
Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả liên quan đến kiến thức nước ngồi.
Đó là: cách viết tên người, tên địa lý nước ngoài - một trong những nội dung
dạy học hay, mở mang tầm hiểu biết về từ loại không hề dễ và gần gũi đối với
HS Tiểu học.

Trong chủ điểm đặc biệt có bài: “Ở Vương quốc Tương Lai” là một đoạn
trích trong vở kịch Con chim xanh của Mát-téc-lích. Đây là một thể loại nghệ
thuật không được giới thiệu nhiều trong chương trình học của HS Tiểu học. Cả
chương trình học Tiếng Việt Tiểu học nói chung và Tiếng Việt 4 nói riêng chỉ
có một bài duy nhất viết theo thể loại kịch của văn học nước ngoài. Tuy nhiên
nội dung của bài học lại rất nhân văn và phù hợp với nhận thức của trẻ nhỏ. Đó
là ước mơ của các bạn nhỏ về một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, có những phát
minh độc đáo của trẻ em trong tương lai. Qua đó, tác giả và người xây dựng
chương trình sách muốn giáo dục HS biết mơ ước, có những hành động và việc
làm thiết thực để thực hiện ước mơ đó. Đây là chủ điểm mới thể hiện rõ tính
nhân văn, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và rất gần gũi với HS.
2.1.3. Ỷ nghĩa của chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” trong chương trình
mơn Tiếng Việt lớp 4, tập 1
Chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ” khơng những cung cấp cho HS những
bài học có nội dung hay mà còn đem lại cho các em những bài học nhẹ nhàng,
đầy ý nghĩa, giàu tính nhân văn. Đó là việc ý thức được tầm quan trọng của
những ước mơ trong tương lai, để từ đó có định hướng trong việc cố gắng học


tập tốt, lao động tốt để đạt được những ước mơ tốt đẹp đó.
Bởi mỗi con người ta khi sinh ra đều có những ước mơ, hồi bão cho
riêng mình. Những ước mơ đó là những khát khao, hi vọng mà chúng ta vươn
tới. Người GV giáo dục các em muốn thực hiện ước mơ đó, trước tiên chúng ta
cần phải học tập,lao động hết mình để góp phần nâng cánh những ước mơ trở
thành hiện thực. M.Goorki đã nói: “Lao động là đôi cánh của ươc mơ, là cội
nguồn của niềm vui và sáng tạo ”. Như vậy, trước hết muốn lao động tốt chúng
ta phải phấn đấu học tập tốt. Học tập và lao động là đôi cánh nâng những ước
mơ bay cao, bay xa, đưa con người đến những thành công mới, khám phá
những điều bất ngờ, thú vị. Hiện nay ở nước ta và trên thế giới có rất nhiều
người đã ni ước mơ và nâng cánh ước mơ từ học tập và lao động mà đặc biệt

là thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước với những sự sáng tạo và
cống hiến hết mình. Và trong những lúc lao động ấy, được cống hiến là niềm
vui của mỗi người. Lao động không mệt mỏi còn giúp chúng ta vơi đi những
nỗi buồn, nỗi đau trong cuộc sống. Làm việc hết mình, suy nghĩ hết mình, sáng
tạo làm cho chúng ta vui hơn khi mình có thể sáng chế, tìm tịi ra những cái
mới. Và khi mà cuộc sống của chúng ta phát triển thì xã hội cũng đi lên, phát
triển mạnh mẽ, hội nhập ra toàn thế giới. Như vậy, ý kiến của M. Gooc-ki là
hoàn toàn đúng. Mỗi chúng ta đều phải tích cực lao động, lao động khơng
ngừng, đồng thời chúng ta cần phải tích cực học tập, tìm tịi và phát triển cái
mới. Bên cạnh đó, mỗi HS chúng ta phải có thái độ tích cực, tự giác học tập
nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật, có tính tự giác, kỉ luật
cao trong học tập, lao động để có được những thành quả lớn nhất. Mỗi người
chúng ta, bên cạnh việc học tập, phải lao động, sáng tạo và tìm tịi những cái
mới, đồng thời cũng nhắc nhở, động viên những người xung quanh lao động
sáng tạo để có kết quả tốt nhất. Vì chính lao động cũng giúp cho cuộc sống và
xã hội thêm phát triển.
Chủ điểm “Trên đơi cánh ước mơ” cịn mang ý nghĩa thứ hai, đó là chính
tình u thương, sự quan tâm của mọi người xung quanh sẽ góp phần chắp
cánh cho ước mơ của các em nhỏ bay cao, bay xa. Như Napoleon Hill đã nói:
“Hãy ni dưỡng và khát khao những ước mơ vì đó là động lực giúp bạn đạt
được mục đích của mình". Và để đạt được thành công, bạn phải chắp cánh cho
ước mơ bay thật cao, thật xa. Khơng chỉ thế, bạn cịn có thể chắp cánh cho ước
mơ của mọi người...
2.1.4. Nhóm bài có kiến thức nước ngồi trong chủ điểm “Trên đơi cánh
ước mơ” (Chương trình mơn Tiếng Việt lớp 4, tập 1)
Trong chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ”, Tiếng Việt 4, tập 1, nhóm bài có
kiến thức nước ngồi bao gồm:
Bài 1: Tập đọc Ở Vương quốc Tương Lai
Bài 2: Luyện từ và câu Cách viết tên người, tên địa lỷ nước ngoài



×