Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

(MN) một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.56 KB, 24 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện ...............

TT

01

Họ tên
tác giả

Ngày/
Tháng/
năm
sinh

..............

Nơi cơng
tác

Trình
Chức
độ
danh chun
mơn

Trường
Mầm non
..............



Giáo
viên

Đại
học

Tỷ lệ
(%)
đóng
góp vào
việc tạo
ra sáng
kiến
100%

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại lớp 5 tuổi A, trường mầm
non ..............”.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Họ tên: ..............
- Chức vụ: Giáo viên
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi tại lớp 5 tuổi A, trường mầm non ..............” thuộc lĩnh vực áp dụng giáo
dục kỹ năng sống.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ ngày
10/09/2018 đến 08/ 04/ 2019.
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Tính mới:
Sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6

tuổi tại lớp 5 tuổi A, trường mầm non ..............” là sáng kiến lần đầu tiên tôi
nghiên cứu thực hiện và áp dụng tại lớp 5 tuổi A trường mầm non ...............

1


Giáo viên chú trọng vào việc dạy kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi và
đã lựa chọn những kỹ năng mà trẻ cần được đưa vào như: Kỹ năng quan hệ xã
hội, kỹ năng ý thức về bản thân, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thực hiện cơng việc,
kỹ năng ứng phó với thay đổi.
Lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để bồi dưỡng
cho trẻ kinh nghiệm sống, nhân cách tốt đẹp cho trẻ.
Rèn luyện các kỹ năng tự bảo vệ bản thân và tính tự lập cho trẻ một cách
triệt để nhất, quan tâm đến đặc điểm cá nhân khác nhau của trẻ, dựa vào các hoạt
động những tình huống hàng ngày để giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi.
Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên
cần, tích cực của trẻ, biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở
mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để
trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một
cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các
lĩnh vực: Thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy
tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tịi, biết vận
dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao
đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ tại nhà,
bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
4.2. Tính khoa học:
Nội dung sáng kiến mà tơi đưa ra đều có cơ sở lý luận vững vàng, luận cứ
khoa học, xác thực, luận chứng thuyết phục, phù hợp với lớp, độ tuổi, phù hợp

với địa phương.
Module MN 39 “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non”. Có thể nói
việc giáo dục kỹ năng sống trong trường mầm non là thực sự cần thiết và quan
trọng. Xây dựng được một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong và
ngoài lớp, đảm bảo an toàn, thân thiện với trẻ. Trẻ được học kỹ năng sống ở
mọi lúc, mọi nơi.
2


Thực tế cho thấy việc giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có những kinh
nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp
trẻ biết hợp tác cùng bạn, xây dựng tính độc lập, kích thích óc tị mị, khả năng
sáng tạo, biết u thương, chia sẻ, lắng nghe người khác nói, đồng thời biết
diễn đạt ý của mình trong nhóm bạn. Ngồi ra, nó còn xây dựng ở trẻ lòng tự
tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống.
Trên cơ sở đó, tơi đã nâng cao ý thức trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được học tập và rèn luyện kỹ năng sống một cách
tốt nhất. Sử dụng tốt phương pháp sư phạm, nâng cao kiến thức cơ bản, kỹ năng
thực hành của từng nội dung, biết xây dựng kế hoạch, đổi mới hình thức tổ
chức, các phương pháp giáo dục kĩ năng sống được tiến hành lồng ghép, tích
hợp nhẹ nhàng trong các môn học, trong các hoạt động trong ngày của trẻ.
4.3. Tính thực tiễn.
4.3.1 Thực trạng của việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi tại lớp 5 tuổi A, trường mầm non ..............”.
Nội dung sáng kiến mà tôi đưa ra dựa trên điều kiện thực tế của trường mầm
non .............. là trường nằm ở trung tâm xã ............... Trường Mầm non .............. là
trường đạt chuẩn quốc gia, các phòng học đều mới xây dựng, nên sạch đẹp và kiên
cố. Ban giám hiệu nhà trường tích cực bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên mơn, xây
dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi
điều kiện giúp tơi có đủ những ngun vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy học và
đồ chơi cho trẻ. Sở giáo dục, phòng giáo dục và đào tạo huyện thường xuyên quan

tâm, đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ việc dạy và
học cho các lớp 5 - 6 tuổi.
Năm học 2018 - 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5 tuổi A tại trường
mầm non ..............: Lớp 5 tuổi A với số cháu 33, trong đó 19 cháu nam, 14 cháu
nữ, tất cả đều đã học qua lớp mẫu giáo 4 tuổi. Đầu năm tôi đã trao đổi với cơ
giáo lớp 4 tuổi, tơi thấy trẻ đã có một số kỹ năng cơ bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn,
mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức,

3


phát triển ngơn ngữ, tình cảm xã hội, biết cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc
sống xung quanh trẻ.
Tuy nhiên việc tổ chức các hoạt động phát triển kỹ năng sống cho trẻ thơng
qua hoạt động giáo dục cịn chưa được giáo viên chú ý, hình thức tổ chức cịn gị
bó, chưa gây được hứng thú tích cực cho trẻ, một số giáo viên chưa nhận thức
hết được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Giáo viên còn nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ. Giáo viên chỉ quan tâm đến việc dạy cho đúng đủ yêu cầu của bài
mà chưa quan tâm đến nhận thức và suy nghĩ của trẻ.
Công tác tuyên truyền vận động phụ huynh quan tâm đến giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ đôi khi chưa thật sự hiệu quả.
Trẻ được bố mẹ nuông chiều nên chưa có những kỹ năng sống cần thiết phù
hợp theo độ tuổi.
Với đặc điểm tình hình của nhà trường nói chung và tình hình của lớp 5
tuổi A nói riêng, cũng đã có những thuận lợi và những vướng mắc trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Để tháo gỡ khó khăn này, tôi đã chọn một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ. Vì vậy địi hỏi giáo viên phải có phương pháp tổ chức giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, giúp trẻ có kinh nghiệm sống và nhân cách tốt đẹp.

Tôi đã khảo sát thực trạng về kỹ năng sống của trẻ lớp 5 tuổi A đầu năm
học và thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Bảng khảo sát thực trạng về kỹ năng sống của trẻ đầu năm học
2018 - 2019 như sau:
STT

Nội dung

Mức độ đánh giá

Tổng
số
trẻ

Đạt

Tỷ lệ Chưa
%
đạt

Tỷ lệ
%

1

Kỹ năng quan hệ xã hội

33

21


64%

12

36%

2

Kỹ năng ý thức về bản thân

33

22

67%

11

33%

3

Kỹ năng giao tiếp

33

21

64%


12

36%

4


4

Kỹ năng thực hiện cơng việc

5

Kỹ năng ứng phó với thay đổi

33

33

21

64%

12

36%

20


61%

13

39%

Nhìn vào bảng kết quả khảo sát trên, ta thấy: Số trẻ đạt về các kỹ năng
sống chiếm tỷ lệ rất thấp. Vì vậy, tơi đã suy nghĩ làm thế nào để kỹ năng
sống của trẻ lớp mình được phát triển tốt hơn. Tôi đã đưa ra: “Một số biện
pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở lớp 5 tuổi A trường
mầm non ..............” như sau:
4.3.2 Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi tại lớp 5 tuổi A, trường mầm non ..............”.
* Biện pháp 1: Tự học hỏi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về giáo
dục kỹ năng sống cho bản thân.
Để có thể thực hiện tốt sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi” trước hết bản thân tôi không chỉ nghiên cứu
nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà cần phải nắm chắc được các
phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ
nhàng, khơng bị gị bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã
học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy để giúp trẻ 5 - 6 tuổi lớp tơi có được
những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và u nghề địi hỏi tơi
phải khơng ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ
mầm non 5 - 6 tuổi.
Tham gia các đợt tập huấn chuyên đề do phòng tổ chức, các buổi chuyên đề
cấp cụm, học tập chuyên đề ở trường, tìm hiểu và học bồi dưỡng thường xuyên,
đặc biệt là module mầm non trực tuyến. Bản thân đã trực tiếp được tham gia khóa
học bồi dưỡng thường xuyên qua đợt tập huấn module trực tuyến tại Sở Giáo dục
và Đào tạo .............. trong đó có module 39 giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non.

Tham gia thi giáo viên giỏi cấp trường, huyện nhằm nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ.
Tìm hiểu tham khảo các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trên
sách báo, tạp chí mầm non, trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại,
internet, qua bạn bè để nâng cao trình độ chun mơn.
5


Để giáo dục trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên giáo viên phải
là tấm gương để trẻ noi theo, để trẻ học làm người. Luôn là tấm gương mẫu mực
về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng xử, cách giải quyết vấn đề. Đây là những
yêu cầu rất cao và địi hỏi bản thân ln phải tự rèn luyện mình để cơng tác giáo
dục trẻ hiệu quả hơn.
* Biện pháp 2: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thơng qua việc hình thành thói quen tốt
trong giờ đón, trả trẻ:
Đặc điểm của trẻ mầm non là dễ nhớ nhưng cũng dễ quên. Vì vậy, các kỹ
năng cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục mọi lúc mọi nơi. Hàng
ngày, vào các giờ đón trả trẻ, tôi luôn sử dụng phương pháp thực hành trải
nghiệm, hình thức nêu gương đánh giá để trẻ thấy và thực hiện tốt hơn.
Ví dụ: Ngay từ đầu năm, tơi đã tập cho trẻ ý thức tự cất đồ dùng cá nhân
gọn gàng, ngăn nắp lúc đến lớp cũng như lúc ra về. Cất đồ dùng ngăn nắp như:
Dép để lên giá, ba lô cho vào ngăn tủ đúng quy định.
Tôi chia lớp làm 3 tổ và phân công tổ trưởng sẽ kiểm tra theo dõi xem bạn
nào đã thực hiện, bạn nào chưa thực hiện đúng để cuối ngày tôi đánh giá và nêu
gương những bạn thực hiện tốt, đồng thời cũng khích lệ động viên các bạn có cố
gắng. Sau đó tơi đưa ra hình thức khen thưởng như tặng hoa, tặng cờ, tuyên
dương trước lớp để trẻ thực hiện tốt hơn. Từ đó mỗi lần đến lớp, tôi không cần
phải nhắc nhở trẻ nữa mà trẻ đã có ý thức tự thực hiện. Như vậy, qua giờ đón trả
trẻ việc hình thành cho trẻ những thói quen tốt đã giúp trẻ có kỹ năng tự phục vụ

và kỹ năng tuân thủ các quy định của lớp.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động chơi ngồi trời:
Ở hoạt động chơi ngồi trời, tơi đã lồng ghép tích hợp nhiều kỹ năng sống
cần thiết mà gần gũi với trẻ thông qua những sự vật, hiện tượng xung quanh mà
trẻ được quan sát từ đó trẻ được học những điều bổ ích một cách nhẹ nhàng.
Ví dụ 1: Chủ đề “Cây xanh và môi trường sống”, khi cho trẻ chơi
ngoài trời. Trẻ được thể hiện cảm xúc vui vẻ, thoải mái khi quan sát, nhận
xét về khung cảnh xung quanh như: Cây, hoa giúp trẻ biết yêu thích và cảm
nhận cái đẹp, khơng được hái hoa vì hoa làm đẹp cho cuộc sống. Hoặc cơ
cũng có thể tận dụng tình huống “Cơn gió làm lá cây, cánh hoa rụng xuống
sân” làm thế nào để sân trường sạch đẹp? (Nhặt lá cây rơi, nhặt rác bỏ vào
6


thùng rác). Qua đó hình thành được kỹ năng ứng xử văn minh cho trẻ, không
những ở trường mà trẻ sẽ thực hiện việc giữ gìn vệ sinh ở nhà, ở lớp, ở nơi
công cộng. Đồng thời giúp cho trẻ có kỹ năng xã hội tuân thủ các quy tắc xã
hội như không được hái hoa, bẻ cành nơi công cộng, biết chăm sóc, bảo vệ
cây hoa, biết nhặt lá rụng giữ gìn vệ sinh sân trường sạch sẽ.

Hình ảnh trẻ chơi ngồi trời
Ví dụ 2: Khi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi dân gian “Rồng rắn lên mây” ở
trị chơi này u cầu trẻ đồn kết hợp tác với nhau. Tất cả trẻ làm rồng rắn phải
đoàn kết để “cái đi” khơng bị bắt. Từ đó giáo dục trẻ kỹ năng hoạt động
nhóm, đồn kết hợp tác với nhau trong nhóm và kĩ năng tránh né tai nạn.

Hình ảnh trẻ chơi trị chơi “Rồng rắn lên mây”
Ví dụ 3: Cho trẻ chơi thả vật chìm nổi, cơ thả miếng xốp và hòn sỏi xuống
nước và cho trẻ giải thích:
+ Vì sao miếng xốp lại nổi?

+ Vì sao viên sỏi lại chìm?
Qua trị chơi này hình thành cho trẻ kỹ năng nhận thức khám phá mọi vật
xung quanh. Cũng có thể ở hoạt động chơi ngồi trời, cơ giáo sử dụng tình
huống để giải quyết:
Ví dụ 4: Khi đang chơi ngồi trời thì chẳng may bạn bị ngã. Khi đó, cơ dựa
vào cách giải quyết của trẻ mà rèn cho trẻ kỹ năng xã hội biết chia sẻ và giúp đỡ
mọi người.
Khi trẻ chơi tự chọn theo ý thích, cô giáo vừa quan sát trẻ chơi, vừa phải
hướng dẫn trẻ cách chơi an toàn như: Khi leo cầu trượt thì xếp hàng theo thứ tự,
khơng chen lấn, xơ đẩy nhau, không tranh giành đồ chơi, chơi đu quay không
quay q nhanh. Khi đó, cơ giáo đã khéo léo dạy trẻ kỹ năng ý thức về bản thân

7


biết giữ an toàn khi chơi, biết thực hiện nội quy của lớp khi chơi không được
chen lấn xô đẩy nhau.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ khi ăn, khi ngủ, khi vệ sinh:
Trong giờ ăn, ngủ, vệ sinh, kỹ năng tự phục vụ được rèn luyện, được giáo
dục thường xuyên nhất. Chẳng hạn trẻ biết trước khi ăn là phải rửa tay, tự lấy
ghế vào bàn ăn, trước khi ăn phải mời, ngồi ăn ngay ngắn, khi ăn không làm rơi
vãi thức ăn. Khi ăn xong, trẻ phải cất ghế, rửa mặt, tự lấy gối của mình khi ngủ.
Ngủ dậy, trẻ tự cất đồ dùng. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, trẻ tự thực hiện
mà không cần giáo viên phải nhắc nhở. Đó chính là kỹ năng ý thức về bản thân
biết tự phục vụ; Kỹ năng quan hệ xã hội tuân thủ các quy tắc ở trường ở lớp. Kỹ
năng sống ấy không những được trẻ thực hiện ở trường mà còn thực hiện ở nhà
hay ở bất cứ đâu khi trẻ đến.

Trẻ có thói quen rửa mặt, rửa tay sạch sẽ hàng ngày
Ví dụ: Trong giờ ăn hàng ngày, tơi ln khuyến khích trẻ tự rửa tay trước

khi ăn, kê bàn ăn, cất ghế và lau bàn khi ăn xong. Để tạo thói quen lao động tự
phục vụ cho trẻ đồng thời cũng là kỹ năng xã hội biết tuân thủ các quy tắc ở
trường, ở lớp.

Hình ảnh trẻ trong hoạt động giờ ăn
Trong giờ ngủ: Trẻ giúp cô kê giường, chải chiếu, lấy gối và bước vào giờ
ngủ ngoan, ngủ sâu và đủ giấc.
Tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động giờ ăn, ngủ nhằm giúp trẻ
có được kỹ năng tự phục vụ bản thân, giúp trẻ có thói quen tốt trong vệ sinh
ăn, ngủ.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động chiều:
Trong giờ hoạt động chiều mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc làm
quen với bài mới, tôi luôn dành thời gian khoảng 30 phút để cho trẻ luyện tập
thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi.
8


Ví dụ 1: Tơi tổ chức cho trẻ chơi trị chơi: “Ai nhanh hơn, khéo hơn”. Cách
chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi chải tóc, sau 1 bản nhạc, bạn nào chải tóc khéo,
gọn gàng nhất sẽ được tặng quà.
Trẻ chơi trò chơi: “ Ai nhanh hơn, khéo hơn” trong giờ hoạt động chiều.
Ví dụ 2: Khi tổ chức hoạt động “Dạy trẻ cài cúc áo và gấp quần áo”. Tơi tiến
hành dạy trẻ tự mặc áo có cúc, dạy trẻ biết cài cúc áo không lệch, gấp quần áo
gọn gàng và xếp lại ngăn nắp.
Hình ảnh trẻ thực hành cài cúc áo và gấp quần áo

Việc này được thực hiện dựa trên nguyên tắc cho trẻ thực hành từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn khi cho trẻ mặc áo lúc đầu là áo đóng
cúc, áo kéo khóa, sau đó là áo chui. Với cách làm này, trẻ lớp tơi có kỹ năng tự
phục vụ tương đối tốt.

Ngồi ra, tơi ln dành một góc riêng và trang trí đẹp để kích thích sự thi
đua của trẻ thông qua “ Bảng bé ngoan”. Vào mỗi buổi chiều, tôi cho trẻ tự nhận
xét và cắm cờ vào bảng bé ngoan. Đến cuối tuần, sẽ căn cứ vào bảng bé ngoan
để phát bé ngoan cho trẻ. Tôi thấy cách làm này có rất nhiều hiệu quả trong việc
rèn nền nếp, tác phong học tập cho trẻ.
Tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động chiều nhằm
hình thành cho trẻ kỹ năng giữ vệ sinh, tự phục vụ bản thân trong các hoạt động.
Qua đó, các kỹ năng của trẻ được rèn luyện tốt đặc biệt là kỹ năng xã hội biết
thực hiện nội quy của trường, lớp.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua ngày hội, ngày lễ:
Trong các nội dung của phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn
nghệ thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác
của học sinh, tổ chức tốt các trò chơi dân gian, các hoạt động vui chơi giải trí
tích cực phù hợp với lứa tuổi học sinh.
Để thực hiện nội dung trên, tơi đã ln tích cực lồng ghép các nội dung
giáo dục trẻ thông qua việc tổ chức tốt các ngày hội, ngày lễ. Tôi luôn tham mưu
với nhà trường để tổ chức tốt các ngày hội, ngày lễ cho trẻ tạo cơ hội để trẻ được
thể hiện bản thân mình. Ngày hội ngày lễ, tôi luôn tạo điều kiện cho trẻ được
9


cùng cơ chuẩn bị phơng rèm, trang trí khánh tiết, luyện tập văn nghệ chào mừng
để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Khi tổ chức hội thi: “Hội khỏe măng non” nhằm thực hiện có
hiệu quả chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Thơng qua hội thi, tun
truyền kiến thức khoa học về nuôi dạy trẻ cho phụ huynh và các tổ chức xã
hội tạo điều kiện tốt cho trẻ phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ, tình cảm,
thẩm mỹ. Mặt khác hội thi cịn nhằm phát hiện những tài năng, năng khiếu
của trẻ, tạo sân chơi cho các bé được giao lưu, học hỏi nâng cao kỹ năng

sống cho các bé giúp các bé mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, rèn luyện tố chất
nhanh - mạnh - khéo.
Hình ảnh hội thi hội khỏe măng non
Tháng 2 tổ chức chương trình văn nghệ: “Bé vui hội xuân” là một hoạt
động giáo dục trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Nó có tác dụng quan
trọng góp phần phát triển tồn diện cho trẻ mầm non. Với nhiều hoạt động vui
nhộn và bổ ích nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động giao lưu
giữa các lớp trong trường, trả lời câu đố, sự tự tin biểu diễn văn nghệ, rèn luyện
sự hợp tác giữa các nhóm thơng qua các trị chơi dân gian như trị chơi kéo co,
ném cịn. Trẻ được tìm hiểu nét văn hóa phong tục đặc sắc trong ngày tết cổ
truyền.
Việc giáo dục kỹ năng sống mọi lúc mọi nơi như vậy tôi thấy rất nhẹ nhàng
mà lại hiệu quả với trẻ giúp trẻ có thể rèn luyện các kỹ năng mọi lúc mọi nơi.
Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân và tính tự lập, tự tin cho trẻ qua
hoạt động vui chơi:
Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua các hoạt động vui
chơi cho trẻ. Vui chơi là hoạt động chủ đạo trong các trường lớp mầm non, qua
vui chơi giúp trẻ phát triển, trẻ em tiếp thu rất tốt khi vui chơi. Trẻ em học hỏi,
tiếp thu hiểu biết và các kĩ năng bảo vệ bản thân, thói quen tự lập qua các trị chơi.
Ví dụ 1: Qua góc chơi phân vai kỹ năng hợp tác, trẻ học được cách chơi
trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh. Kỹ năng bảo vệ bản
thân chơi an tồn, nấu các món ăn đảm bảo dinh dưỡng, an toàn vệ sinh thực
phẩm. Sau khi chơi xong trẻ biết tự cất đồ chơi đúng nơi quy định.

10


Khơng chỉ ở góc phân vai trẻ mới học được các kỹ năng mà ở tất cả các góc
chơi khác thì các kỹ năng của trẻ cũng đều có thể được giáo dục, rèn luyện, củng
cố và phát huy.

Ví dụ 2: Ở góc xây dựng, trẻ có kĩ năng hợp tác, làm việc theo nhóm, biết
tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đồn kết, khơng tranh giành đồ chơi của
nhau, chơi an toàn với bạn và biết cùng hợp tác để tạo nên cơng trình đẹp.

Hình ảnh trẻ chơi góc xây dựng
Ví dụ 3: Ngày nay, nhất là ở các thành phố lớn, kỹ năng tự bảo vệ của trẻ
rất kém mà lỗi chính là ở người lớn. Xã hội càng hiện đại càng tiềm ẩn nhiều
mối nguy. Cha mẹ thường sợ hãi tìm cách ngăn cấm con trước các rủi ro nhưng
lại quên giải thích cho trẻ vì sao và hậu quả xảy ra. Điều này khiến trẻ do tâm lý
lứa tuổi vốn ham khám phá lại càng tị mị. Trẻ khơng thể hiểu những từ chung
chung khi bị người lớn mắng như “nghịch dại” “nguy hiểm”. Và để trẻ có thể tự
bảo vệ mình khi ra khỏi nhà, các mẹ nên dạy trẻ ngay từ bây giờ:
Dạy trẻ tuyệt đối không đi theo người lạ, ngay cả khi họ nói sẽ giúp bé
tìm đường về nhà. Nếu bé lạc ở chợ hay khu vui chơi đông người, sau khi
đứng lại một chỗ chờ một lúc không thấy cha mẹ đến, bé hãy đến nói với các
chú bảo vệ hoặc cô bán hàng nhờ họ thông báo lên loa, sau đó ngoan ngỗn
đứng ở đó chờ bố mẹ đến.
Hình ảnh tình huống trẻ khơng nhận q, khơng đi theo người lạ
Nếu bị lạc cha mẹ, nguyên tắc đầu tiên bé cần nhớ là bình tĩnh, khơng
khóc lóc hay chạy lung tung mà đứng yên tại chỗ để chờ, vì bố mẹ sẽ quay lại
đây tìm bé. Trường hợp bị lạc ở ngồi đường, bé có thể mượn điện thoại của
người đi đường hoặc chú công an để gọi bố mẹ đến đón.
Khơng nhận q bánh của người lạ để đề phịng những món q bánh kẹo
đó có tẩm thuốc mê, bé ngửi hoặc ăn sẽ bị trúng mưu kẻ xấu. Cha mẹ nên dạy bé
không nhận bất cứ món quà nào người lạ cho mà phải từ chối khéo léo rằng: “Bố
mẹ cháu không cho phép nhận”. Sau đó, bé hãy tìm đến chỗ có người lớn hoặc
11


chú bảo vệ đứng để tránh bị người lạ kia tiếp tục dụ dỗ. Trường hợp người đó cứ

bám theo ép bé ăn thì phải quẫy đạp và hét thật to để mọi người đến cứu.
Dạy trẻ không được tin lời người lạ, kể cả người nhận là bạn của ba mẹ,
thậm chí biết cả tên ba mẹ và tên của bé. Trường hợp nhận ra họ là hàng xóm
hay người quen thì bé hãy vào trường báo cho cơ giáo biết rồi nhờ cô gọi cho bố
mẹ để xác minh xem có đúng là họ được nhờ đến đón không.
Để rèn luyện kỹ năng cho trẻ, hàng ngày, bố mẹ nên cùng con chơi những
trị chơi tình huống, sắm vai, bố mẹ hãy đố con nói gì, làm gì khi ở trong các
hồn cảnh khó khăn lúc lạc đường, khi bị người lạ rủ đi chơi, khi ở nhà một
mình và khi có sự cố xảy ra.
Dạy trẻ biết tự bảo vệ mình cực kỳ quan trọng nên bố mẹ phải bắt tay ngay,
thực hiện luôn từ khi trẻ con nhỏ, chứ không phải thụ động đến khi mọi sự xảy
ra rồi mới lo lắng cuống cuồng. Để dạy được con, cha mẹ cần kiên nhẫn từng
ngày, rất kỳ cơng chứ khơng chỉ là dặn dị sng.
* Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học.
Trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi), hoạt động học diễn ra vào buổi sáng khi mà trẻ
có sự tập trung chú ý rất tốt. Chính vì vậy, tơi ln nhẹ nhàng tích hợp nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để bồi dưỡng cho trẻ kinh nghiệm sống, nhân
cách tốt đẹp cho trẻ.
Được nghe kể chuyện, đọc thơ là điều trẻ rất thích. Qua những câu chuyện,
bài thơ, tục ngữ, ca dao, đồng dao giáo viên khéo léo, nhẹ nhàng giáo dục trẻ
những kỹ năng sống thực tế và bổ ích.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề bản thân, với câu chuyện: “ Câu chuyện của tay
trái và tay phải” có nội dung giáo dục là cần phải khiêm tốn, đoàn kết, biết giúp
đỡ mọi người, biết quý trọng bản thân và những người xung quanh, biết xin lỗi
khi mình có lỗi, biết tha thứ nếu bạn đã nhận lỗi. Trẻ được nghe cô kể chuyện,
đàm thoại cùng cô, được nhập vai vào các nhân vật rồi trẻ được đóng kịch. Khi
đó, cơ chuyển tải những thông điệp quý báu: Kỹ năng ý thức về bản thân biết
chăm sóc sức khỏe bằng cách tự phục vụ; Kỹ năng thực hiện công việc biết hợp
tác; Kỹ năng giao tiếp biết đàm phán, thuyết phục, thương lượng, biết ứng xử
văn minh.

12


Các bài ca dao, tục ngữ cũng là nguồn giá trị sâu sắc cho trẻ về công cha,
nghĩa mẹ, đạo con hay tình cảm anh em. Trẻ thường xuyên được nghe, được đọc
cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa về tình cảm gia đình,
tình yêu thương con người, lòng yêu quê hương, đất nước, từ đó tích lũy cho trẻ
những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống.
Đối với giờ tạo hình cũng vậy, ngồi việc rèn cho trẻ các kỹ năng cơ bản của
hoạt động tạo hình như: Hình khối, đường nét, màu sắc, bố cục, tôi luôn giáo
dục trẻ biết yêu quý, giữ gìn sản phẩm của mình và của bạn. Tùy theo các tiết
học khác nhau, tôi lồng ghép các nội dung giáo dục kỹ năng sống quan hệ xã hội
như tình cảm yêu mến, tôn trọng và giúp đỡ bạn bè, u q kính trọng và biết
ơn ơng bà, cha mẹ, cơ giáo.
Ví dụ: Giờ tạo hình “Xé dán ngơi nhà” (Chủ đề: Gia đình), trẻ được thể hiện
hình ảnh ngơi nhà của mình thơng qua bài xé dán, được giới thiệu về ngôi nhà,
được đặt tên cho sản phẩm của mình. Có một số cháu kỹ năng xé dán cịn kém,
cơ hướng dẫn thêm và động viên, khuyến khích trẻ. Qua đó, tơi rèn trẻ kỹ năng
thực hiện cơng việc biết hợp tác, chia sẻ, thể hiện sự sáng tạo, biết chơi cùng bạn
và giúp đỡ bạn. Đối với những trẻ kỹ năng kém đó là kỹ năng ứng phó với thay
đổi cố gắng hồn thành cơng việc được giao.

Hình ảnh trẻ xé dán ngôi nhà
Ở hoạt động khám phá khoa học cũng vậy, giáo viên lựa chọn nội dung phù
hợp, kết hợp với phương pháp quan sát, trải nghiệm cùng với sự giảng giải của
cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa của cuộc sống xung quanh, từ đó tích lũy cho
mình những hiểu biết về mơi trường tự nhiên, mơi trường xã hội để hình thành
những kinh nghiệm sống cho riêng mình.
Ví dụ: Với chủ đề bản thân, hoạt động học: “Tìm hiểu về một số bộ phận trên
khn mặt”. Đầu tiên, tôi cho trẻ được trải nghiệm bằng cách cho trẻ về các nhóm

để nghe, ngửi, nếm, nhìn những đồ dùng mà cô đã chuẩn bị. Tôi hỏi trẻ xem con đã
được khám phá điều gì? Nó như thế nào? Nhờ bộ phận nào mà con khám phá
được? Rồi cho trẻ ngồi 2 bạn quay mặt vào nhau để quan sát và nhận xét về đặc
điểm của các bộ phận trên khn mặt. Thơng qua đó, tơi nhẹ nhàng lồng ghép kỹ
năng ý thức về bản thân biết tự phục vụ biết đánh răng, rửa mặt đúng cách; kỹ năng
giao tiếp biết ứng xử văn minh như: Khi trả lời phải thưa cơ, đứng thẳng, mắt nhìn
vào cơ và nói to, rõ ràng; Kỹ năng quan hệ xã hội biết tuân thủ quy tắc trong giờ
13


học như muốn nói phải giơ tay, chờ đến lượt cơ mời mới được nói, khơng nói leo,
tập trung chú ý nghe cơ. Chính vì vậy, trẻ lớp tơi học rất hứng thú, kết quả giờ học
tốt. Trong chủ đề gia đình cũng vậy trẻ được trị chuyện về gia đình mình, về các
thành viên trong gia đình. Qua đó trẻ biết tự nhận thức về bản thân như tôi là ai
trong gia đình? Tơi thích gì? Tơi có khả năng gì? để phát triển kỹ năng ý thức về
bản thân biết tự nhận thức và thể hiện bản thân.
Khi thực hiện lĩnh vực phát triển thể chất, giáo dục vệ sinh dinh dưỡng và
sức khỏe (Chủ đề: Bản thân): “ Nhận biết và sử dụng 4 nhóm thực phẩm cần
thiết”. Sau khi cho trẻ nhận biết tên gọi, đặc điểm, lợi ích, cách sử dụng, cách
giữ vệ sinh an tồn thực phẩm và chơi các trị chơi để phát triển thể lực cho trẻ,
tôi đã lồng ghép giáo dục trẻ kỹ năng quan hệ xã hội như: An toàn tự bảo vệ
không ăn các loại thực phẩm ôi thiu, thực phẩm chưa nấu chín, trước khi ăn các
loại quả phải rửa sạch, bóc hoặc gọt vỏ.
Ngồi ra, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cịn được tích hợp nhẹ nhàng trong
các môn học khác như: Âm nhạc, làm quen chữ cái, làm quen với toán.
* Biện pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi.
Chơi là một trong những loại hoạt động có mặt trong đời sống nhân loại ở mọi
lứa tuổi. Khi chơi, cả người lớn và trẻ em đều rất say mê, vui vẻ và thỏa mãn. Trẻ
lứa tuổi mầm non, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi. Tôi luôn tổ
chức các hoạt động cho trẻ dưới dạng học mà chơi, chơi mà học. Tôi đặc biệt chú ý

đến trị chơi đóng vai theo chủ đề. Bởi khi chơi, trẻ học được rất nhiều những điều
từ cô, từ bạn, từ đó hình thành và phát triển các kỹ năng sống cần thiết như kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng thực hiện công việc biết hợp tác, kỹ năng ý thức về bản thân biết
tự phục vụ.
Ví dụ: Trong chủ đề “Gia đình”, ở góc phân vai có trị chơi: “Phòng khám đa
khoa”, bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân với thái độ vui vẻ, niềm nở, y tá cấp
phát thuốc và dặn bệnh nhân uống thuốc đúng giờ, bệnh nhân bốc số thứ tự và
ngồi chờ khám đến lượt. Ở góc gia đình, mẹ đang nấu cơm cho con ăn, cho em
bé uống sữa. Lúc này, cô giáo giả bộ đóng vai mẹ bế em bé đi khám bệnh. Em
bé đi sau cùng nhưng được cô y tá dẫn đi khám trước, tình huống xảy ra là các
bệnh nhân kia không đồng ý, bác sĩ mới ra giải thích: Bệnh nhân vui lịng đợi tí,
ưu tiên cho người già và em nhỏ. Có thể nói, trẻ đóng vai bác sĩ đã có kinh
nghiệm sống rất tốt và áp dụng ngay trong q trình chơi. Trẻ đã có kỹ năng ứng
14


phó với thay đổi biết khám bệnh cho em bé và người già trước. Kỹ năng quan hệ
xã hội được thể hiện, trẻ biết nhường nhịn và giúp đỡ em bé; Kỹ năng giao tiếp
của trẻ đóng vai bác sĩ cũng thể hiện trẻ biết dùng kinh nghiệm sống của mình
để đàm phán, thuyết phục mọi người.
Như vậy chỉ bằng 1 tình huống chơi, tơi đã hình thành, rèn luyện và phát
triển cho trẻ rất nhiều các kỹ năng sống cần thiết. Ở góc xây dựng cũng vậy, trẻ
xây dựng và lắp ghép cơng trình: “Khu nhà của bé”, một trẻ đóng vai kỹ sư xây
dựng để điều khiển chơi, các trẻ khác mỗi người một nhiệm vụ, trẻ thì lắp ghép
nhà, trẻ thì xây dựng hàng rào, trẻ thì đi mua cây cảnh về trồng. Có trẻ khơng
biết lắp ghép nhà tầng, cô đến bên hướng dẫn trẻ sau đó trẻ lại hứng thú chơi
tiếp. Qua đó, giáo dục kỹ năng giao tiếp giữa các bác công nhân, kỹ năng thực
hiện công việc biết hợp tác giữa các bác công nhân khi xây dựng; Kỹ năng xã
hội tuân thủ các quy tắc xã hội như khơng nhiệm vụ thì khơng được vào cơng
trường xây dựng.


Trẻ chơi đóng vai trong giờ chơi trong các góc
Ở chủ đề: Trường mầm non - Tết trung thu”, có góc chơi lớp học, trẻ được
thể hiện vai cô giáo, học sinh. Học sinh đến lớp biết chào cô giáo, cất đồ dùng
vào đúng nơi quy định. Cô giáo dạy học sinh hát, múa, đọc thơ, kể chuyện. Từ
đó giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp biết ứng xử chào hỏi lễ phép với cô giáo, kỹ
năng ý thức về bản thân biết tự phục vụ cất đồ dùng cá nhân khi đến lớp; Kỹ
năng quan hệ xã hội tuân thủ quy định của trường của lớp.
Hoạt động vui chơi diễn ra trong thời gian tương đối dài, có rất nhiều tình
huống xảy ra, giáo viên cần bao quát và kịp thời can thiệp để điều chỉnh hành vi
giúp trẻ có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm, cái nào không nên làm. Lâu
dần những thói quen tốt, những hành vi đẹp sẽ được tích lũy và trở thành kỹ
năng sống bổ ích cho trẻ. Tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động vui
chơi nhằm giúp trẻ có hành vi, thói quen tốt, trẻ biết giao tiếp, ứng xử văn minh,
biết chia sẻ với các bạn cùng chơi.
* Biện pháp 5: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc đánh giá trẻ.
15


Đánh giá là việc nhìn nhận, xem xét lại các công việc đã làm trong một thời
gian nhất định để rút ra được những bài học bổ ích, có những điều chỉnh hoặc
cải tiến các hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả hơn.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc đánh giá trẻ hằng ngày:
Trong phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải hướng dẫn trẻ kỹ năng
tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Giáo viên cũng cần tạo điều kiện để trẻ
được tham gia đánh giá lẫn nhau để trẻ tự rút kinh nghiệm cho mình và cho bạn.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động tạo hình, sau khi trẻ vẽ xong, cơ cho các trẻ treo
tranh lên giá để triển lãm tranh. Cô mời trẻ quan sát xem con thích bài nào nhất?
Vì sao con thích? Sau đó mời bạn đã vẽ bài đó lên giới thiệu về bài của mình.
Cuối cùng cơ sẽ nhận xét tổng quát và khen trẻ.

Việc đánh giá các kỹ năng sống của trẻ thường xun có vai trị đặc biệt
quan trọng. Vì thế, cơng việc này được tơi tiến hành thường xuyên, liên tục. Sau
mỗi hoạt động trong ngày, tôi luôn dành thời gian để nhận xét, đánh giá các hoạt
động đó nhằm củng cố các kỹ năng cho trẻ và tìm ra biện pháp để hoạt động sau
trẻ thực hiện tốt hơn.
Ví dụ: Qua hoạt động chơi trong các góc (Chủ đề: Những nghề bé biết), tơi
nhận xét đánh giá góc bán hàng: Hơm nay, bác Hà bán hàng thật khéo, biết chào
mời khách lịch sự, biết nhận tiền của khách bằng 2 tay, biết cảm ơn khách.
Nhưng tơi thấy khi về bác cịn chưa cất các mặt hàng gọn gàng. Lần sau bác nên
cất gọn gàng hơn để mai đến cửa hàng bác không cần phải dọn dẹp. Sau khi
nghe những lời nhận xét nhẹ nhàng như vậy, trẻ thêm tự tin vào bản thân, có
được kỹ năng giao tiếp lịch sự, hình thành tính cẩn thận cho trẻ.
Sau mỗi ngày, tôi đều ghi chép vào sổ kế hoạch giáo dục phối hợp cùng cô
giáo ở trong lớp có kế hoạch rèn cho trẻ những kỹ năng mà trẻ còn chưa đạt.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc đánh giá trẻ theo chủ đề:
Trẻ mầm non được lĩnh hội các kiến thức thông qua các chủ đề. Với mỗi
chủ đề, cô giáo đưa ra các mục tiêu giáo dục theo 5 lĩnh vực phát triển của trẻ,
bài dạy của cô cũng dựa vào các mục tiêu đó. Chính vì vậy, sau khi thực hiện
xong chủ đề, tôi đã đánh giá trẻ thông qua: “Bảng theo dõi, đánh giá sự phát
triển của trẻ theo mục tiêu chủ đề”, tôi dựa vào mục tiêu của chủ đề để đánh giá
16


xem trẻ có đạt được các mục tiêu mà cơ giáo đưa ra hay khơng. Từ đó, cơ sẽ có
kế hoạch rèn kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Sau khi thực hiện chủ đề bản thân, tôi đánh giá cháu Phan Gia Huy,
Trần Ngọc Anh kỹ năng giao tiếp còn chưa đạt, cháu còn nhút nhát, ít giao tiếp với
cơ giáo, với các bạn nên năng lực làm việc theo nhóm khơng tốt. Ngun nhân là
do các cháu cịn nhút nhát, ngại giao tiếp, nói ngọng. Từ đó, tơi đã thường xun
trị chuyện với trẻ để sửa cho trẻ đồng thời tạo tinh thần thoải mái, giúp trẻ mạnh

dạn, tự tin hơn. Đến chủ đề sau, tơi thấy trẻ đã tích cực giao tiếp hơn.
* Biện pháp 6: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thơng qua việc nêu
gương, khích lệ.
Với trẻ mầm non: “Lớp học là nhà, cô giáo là mẹ yêu”. Ở trường, cô giáo là
người mẹ thứ hai đối với trẻ. Trẻ rất thích được cơ u thương, gần gũi. Mọi
hành động, cử chỉ của cô trẻ rất chú ý và hay bắt chước theo. Vì vậy, cơ giáo
phải ln chuẩn mực trong mọi lĩnh vực như giao tiếp với phụ huynh, giao tiếp
với trẻ hay tác phong của cô, hành động, cử chỉ của cô. Tôi luôn ân cần, dịu
dàng, yêu thương trẻ, luôn tạo mối quan hệ thân thiện giữa cô và trẻ. Đồng thời,
tôi luôn là tấm gương cho trẻ học tập và noi theo.
Ví dụ: Khi đi dạo chơi trên sân trường, tơi nhìn thấy có lá cây rụng, tôi sẽ
nhặt lá cây vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết vì sao cơ bỏ lá cây vào thùng rác
khơng? Sau đó tơi giải thích cho trẻ hiểu việc làm này để giữ cho sân trường
thêm sạch đẹp cho các con học tập và vui chơi. Như vậy, lần sau, trẻ sẽ tự nhặt
lá cây và rác ở trên sân trường khi trẻ nhìn thấy.
Chúng ta dạy trẻ nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ của người khác hoặc
khi người khác làm một điều gì đó cho mình, hoặc biết xin lỗi khi mình có lỗi.
Nhưng nếu cơ giáo khơng biết nói lời cảm ơn với trẻ thì việc dạy trẻ sẽ khó mà hiệu
quả được.
Phương pháp nêu gương, khích lệ cịn rất hiệu quả với trẻ mầm non bởi đặc
điếm của trẻ là rất thích được khen trước cơ giáo và các bạn. Trong các hoạt
động của trẻ, sau khi đánh giá trẻ, tôi thường dành cho trẻ những lời khen ngợi,
động viên khuyến khích kịp thời để trẻ tự tin hơn trong các hoạt động sau.
Biện pháp 7: Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng
sống cho trẻ.
Việc tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh là điều không thể thiếu với mỗi
giáo viên mầm non. Bởi nếu đứa trẻ được cô giáo rèn kỹ năng tốt nhưng khi trẻ
17



về với gia đình, bố mẹ khơng thường xun nhắc nhở, uốn nắn trẻ thì kỹ năng
sống sẽ khơng thể trở thành thói quen hàng ngày của trẻ được. Mơi trường gia
đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các kỹ
năng sống thơng qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả.

Phụ huynh nhắc trẻ lễ phép chào cô
Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải là chuyện một sớm một chiều
mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải được giáo dục đồng nhất thì mới
bền vững và thành kỹ sảo. Song song với các biện pháp giáo dục trên, là giáo
viên chủ nhiệm lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp
giữa gia đình và nhà trường. Thơng qua giờ đón, trả trẻ, tơi đã trao đổi với phụ
huynh về tình hình sức khỏe, vệ sinh cá nhân cũng như các kỹ năng khác của trẻ
để cùng phụ huynh giáo dục trẻ giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh, phụ huynh có thể quan sát và
theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao đổi thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo
từng chủ đề, tơi dán những hình ảnh có kèm theo lời chỉ dẫn về nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ để phụ huynh dạy trẻ ở nhà.
Ví dụ: Ở chủ đề: “ Bản thân”, tơi dán các hình ảnh và ghi nội dung giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ như sau:
* Kỹ năng tự phục vụ:
- Tự rửa mặt, rửa tay bằng xà phòng.
- Giữ gìn đầu tóc, quần áo gọn gàng, sạch sẽ.
- Thay quần áo khi ướt, khi bẩn và để vào đúng nơi quy định
* Kỹ năng giao tiếp, ứng xử:
- Quan tâm chia sẻ và giúp đỡ mọi người.
* Kỹ năng an toàn tự bảo vệ:
- Biết chơi ở nơi an tồn.
- Khơng đi theo, khơng nhận q của người lạ.
- Gọi 113 khi có kẻ gian, 114 khi có hỏa hoạn, 115 khi có người cần cấp cứu.
Thơng qua buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi cũng đã chủ động lồng ghép

nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh và đã được phụ
huynh tiếp nhận rất tích cực và ủng hộ.
Qua những việc làm trên, tơi đã thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha
mẹ ln coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống
18


cho trẻ. Đặc biệt giao tiếp giữa bố mẹ và con cái tốt hơn. Phụ huynh cũng
khơng cịn chiều con một cách thái q nữa. Trẻ ln tích cực hơn trong các
hoạt động ở trường, ở lớp.
Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy
trẻ lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết trẻ có kĩ năng sống cần thiết.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn đó mà tơi đã ứng dụng một số phương
pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi và đã đạt kết quả
tương đối tốt.
4.4. Tính hiệu quả.
Qua các biện pháp giáo dục kỹ năng sống mà tôi đã thực hiện sau một năm
học vừa qua đến nay kết quả đã cho thấy trẻ tiến bộ lên đáng kể. Nhờ áp dụng
các giải pháp này mà tôi đã giúp trẻ có những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết
được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ biết hợp tác cùng bạn, xây
dựng tính độc lập, kích thích óc tò mò, khả năng sáng tạo, biết yêu thương, chia
sẻ, lắng nghe người khác nói, đồng thời biết diễn đạt ý của mình trong nhóm
bạn. Ngồi ra, nó cịn xây dựng ở trẻ lòng tự tin, chủ động và biết cách xử lý các
tình huống trong cuộc sống.
Bản thân tôi đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong việc giúp trẻ có được
một số kỹ năng cần thiết. Sử dụng tốt phương pháp sư phạm, nâng cao kiến thức
cơ bản, kỹ năng thực hành của từng nội dung, biết xây dựng kế hoạch, đổi mới
hình thức tổ chức trong các hoạt động trong ngày của trẻ, đưa vào giảng dạy,
giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi và được tiến hành lồng ghép, tích hợp nhẹ nhàng
trong các mơn học, trong các hoạt động trong ngày của trẻ như: Giờ đón trả trẻ,

giờ ăn, ngủ, vệ sinh và đã giúp trẻ có được một số kỹ năng cần thiết.
Đối với phụ huynh học sinh đã có sự quan tâm và phối hợp với giáo viên
trong các hoạt động giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ, phối hợp tốt
với phụ huynh, tư vấn và tuyên truyền kiến thức về việc hình thành kỹ năng
sống cho trẻ.
4.5. Kết quả, hiệu quả mang lại.
Với những kinh nghiệm và các biện pháp giáo dục mà tôi đã thực hiện trong
một năm học vừa qua đến nay kết quả đã cho thấy, trẻ lớp tơi đã có sự tiến bộ rõ
rệt trong kỹ năng sống của trẻ.
Cụ thể: Kết quả khảo sát sau khi thực hiện sáng kiến cho thấy chất lượng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đã có sự thay đổi đáng kể.
* Kết quả:
19


STT

Nội dung

Mức độ đánh giá

Tổng
số
trẻ

Đạt

Tỷ lệ Chưa
%
đạt


Tỷ lệ
%

1

Kỹ năng quan hệ xã hội

33

31

94%

2

6%

2

Kỹ năng ý thức về bản thân

33

31

94%

2


6%

3

Kỹ năng giao tiếp

33

30

91%

3

9%

4

Kỹ năng thực hiện cơng việc

33

100%

0

0%

5


Kỹ năng ứng phó với thay đổi

30

91%

3

9%

33
33

- Về phía trẻ:
+ Về kỹ năng quan hệ xã hội:
Trẻ đã mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp với cô giáo, các bạn.
Thường xuyên thể hiện sự quan tâm, chia sẻ với cô giáo, các bạn và những
người xung quanh.
Trẻ biết cách nhường nhịn, giúp đỡ em bé, kính trọng, lễ phép với người lớn
tuổi, trẻ biết tự nói cảm ơn, xin lỗi.
Trẻ biết thực hiện quy định của trường, của lớp hay nơi công cộng như: Đi
học đúng giờ, giơ tay nếu muốn phát biểu, khơng nói chuyện trong lớp, khơng
ngắt lá bẻ cành, bỏ rác đúng nơi quy định.
Phần lớn ở trẻ có tính tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật .
Số trẻ đạt là 30/33 trẻ, chiếm 91% tăng 30% so với đầu năm.
+ Về kỹ năng ý thức về bản thân:
Trẻ đã biết chăm sóc sức khỏe bằng cách đánh răng, rửa mặt, rửa tay đúng cách.
Có thói quen giữ gìn vệ sinh thân thể gọn gàng, sạch sẽ.
Biết cất đồ dùng vào đúng nơi quy định, khi chơi xong trẻ biết thu dọn đồ
chơi gọn gàng.

Trẻ biết thể hiện ý thích, khả năng của mình thơng qua các hoạt động ở
trường, ở lớp.
Trẻ mạnh dạn, tự tin về bản thân mình, biết chịu trách nhiệm về việc mình
đã làm như: Xin lỗi khi mình mắc lỗi, trẻ thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình
qua nét mặt, cử chỉ, lời nói.
Biết ăn mặc phù hợp theo mùa.
20


Biết chơi ở những nơi an toàn như sân nhà, sân trường.
Trẻ biết cách chơi các đồ chơi một cách an toàn.
Số trẻ đạt là 31/33 trẻ, chiếm 94 % tăng 27% so với đầu năm.
+ Kỹ năng giao tiếp:
Biết lắng nghe và trình bày ý kiến của mình một cách rõ ràng, mạch lạc.
Ở trẻ, kỹ năng khởi xướng cuộc trị chuyện, duy trì và kết thúc giao tiếp đã
tốt hơn rất nhiều.
Kỹ năng đàm phán, thuyết phục và thương lượng đã được trẻ phát huy một
cách có hiệu quả.
Số trẻ đạt là 30/33 trẻ, chiếm 91% tăng 27 % so với đầu năm.
+ Về kỹ năng thực hiện cơng việc:
Kỹ năng phối hợp theo nhóm ở trẻ đã tốt hơn.
Kỹ năng thảo luận theo nhóm của trẻ tiến bộ.
Trẻ biết tự khởi xướng trò chơi, biết thảo luận theo nhóm nên kết quả hoạt
động theo nhóm rất tốt.
Số trẻ đạt là 33/33 trẻ, chiếm 100% tăng 36 % so với đầu năm.
+ Về kỹ năng ứng phó với thay đổi:
Trẻ tò mò ham hiểu biết hơn.
Trẻ biết tạo ra cái mới theo cách riêng của mình.
Trẻ biết khắc phục khó khăn để hồn thành nhiệm vụ được giao.
Số trẻ đạt là 30/33 trẻ, chiếm 91% tăng 30% so với đầu năm.

- Về phía cơ giáo:
+ Tơi đã rút ra được một số kinh nghiệm qua các biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục.
+ Tơi thường xun trị chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của
trẻ, không la mắng, giải quyết hợp lý, cơng bằng với mọi tình huống xảy ra giữa
các trẻ trong lớp.
+ Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn.
+ Tôi đã mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết
tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
- Về phía phụ huynh:
+ Cha mẹ ln coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ
ở nhà trường. Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức.
21


+ Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la
mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ làm, không
chiều chuộng trẻ.
4.6. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sau khi thực hiện sáng kiến tôi thấy rất phù hợp khi ứng dụng tại trường
mầm non ...............
5. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là việc làm rất cần thiết
đối với trẻ trong trường mầm non, góp phần hình thành những thói quen kỹ năng
sống cần thiết cho trẻ từ khi còn nhỏ. Với những biện pháp trên khi tổ chức các
hoạt động giáo dục cho trẻ các cháu rất mạnh dạn, tự tin, lễ phép, biết quan tâm
chia sẻ, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, biết khắc phục khó khăn, hứng thú tham gia
vào các hoạt động và đạt được kết quả. Sáng kiến này có khả năng ứng dụng trong

phạm vi trường mầm non ............... Tôi sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp này vào
trong những năm tiếp theo. Mặc dù sáng kiến còn nhiều hạn chế, song rất mong
được sự đánh giá đóng góp ý kiến của hội đồng xét duyệt để sáng kiến này của tơi
có thể ứng dụng ở phạm vi rộng hơn. Góp phần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp
trẻ hình thành và phát triển toàn diện nhân cách. Tuy nhiên, để việc rèn kỹ năng
sống cho trẻ đạt kết quả tốt thì cần phải có những điều kiện sau:
- Địi hỏi giáo viên phải là người có sự tâm huyết với nghề, có sự đầu tư
thiết kế các hoạt động, các bài giảng điện tử trong từng hoạt động học.
- Trang thiết bị, đồ dùng dạy học, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động
giáo dục kỹ năng sống theo hướng hiện đại.
- Tham gia các lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
giáo viên mầm non. Đặc biệt là bồi dưỡng về chuyên đề chăm sóc giáo dục trẻ
trong đó có lồng ghép nội dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, để giáo
viên được kiến tập học hỏi thêm những kinh nghiệm khi dạy trẻ.
- Sĩ số lớp học không quá đông để thuận lợi cho giáo viên trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
7. Đánh giá lợi ích thu được của sáng kiến.
Sau khi thực hiện sáng kiến, áp dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục cho trẻ tại lớp 5 tuổi A nêu trên tại
trường mầm non .............. đã đạt được kết quả như sau:
22


Giáo viên đã xây dựng kế hoạch, nắm chắc các phương pháp tổ chức giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ. Biết quan tâm đến việc dạy cho đúng đủ mục đích yêu
cầu của bài và đặc biệt quan tâm đến nhận thức và suy nghĩ của trẻ.
Giáo viên tích cực nghiên cứu, chủ động, sáng tạo, lồng ghép tích hợp trong
các hoạt động hấp dẫn, các hoạt động trải nghiệm phù hợp để trẻ có cơ hội rèn
luyện kỹ năng sống thường xuyên hơn.
Huy động được sự ủng hộ, vận động được phụ huynh quan tâm đến các

biện pháp chăm sóc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ở nhà, trong lớp và nhà
trường. Các bậc cha mẹ đã thường xuyên liên kết phối hợp chặt chẽ với cô
giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều
hình thức.
Tạo nên một mơi trường thân thiện bổ ích, phù hợp với trẻ để trẻ có nhiều
cơ hội được học tập, vui chơi mọi lúc mọi nơi, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn
trong giao tiếp, biết tự bảo vệ bản thân, tính tự lập. Đồng thời trẻ có nhiều cơ hội
được thể hiện bản thân, rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ.
Chất lượng chăm sóc giáo dục ngày càng được nâng cao, tạo được sự yêu
thích đến trường của trẻ, niềm tin của cha mẹ trẻ.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu: Khơng có
Tơi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
.............., ngày 09 tháng 04 năm 2019
Người nộp đơn

23


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ai
ĐÀO TẠO ..............
TRƯỜNG MẦM NON ..............

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI TẠI LỚP 5 TUỔI A,
TRƯỜNG MẦM NON ..............”
Thuộc lĩnh vực: Phát triển tình cảm xã hội


Người thực hiện: ..............
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non ..............

.............., tháng 4 năm 2019

24



×