Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Khóa Luận Tốt Nghiệp cơ sở lí luận về ngôn ngữ của trẻ Mẫu giáo cụ thể trên ba lứa tuổi mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.38 KB, 48 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thật vậy, một nhà văn người Pháp có nói rằng: “Ngôn ngữ là chiếc gương để ta soi
mình trong đó”. Ngôn ngữ chính là phương tiện để tư duy, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Nó
đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ và các quá trình tâm lí khác, chính vì vậy mà
trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non cần hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Đối với trẻ sự phát triển ngôn ngữ trong những năm tháng đầu đời có vai trò rất quan
trọng với khả năng tư duy, nhận thức và giao tiếp cũng như toàn bộ quá trình phát triển về
sau của trẻ. Không chỉ vậy mà đối với trẻ, ngôn ngữ còn là phương tiện để điều khiển,
điều chỉnh hành vi giúp trẻ lĩnh hội các giá trị đạo đức mang tính chuẩn mực. Với tần số
nói ngày một tăng đáng kể, trẻ sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ nói để làm phương tiện giao
tiếp cho mình. Đôi khi cũng chính vì điều đó mà trẻ dễ mắc phải một số lỗi sai về ngôn
ngữ. Đây là thời điểm tốt để rèn luyện phát âm chuẩn và phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhằm
hoàn thiện hơn cho trẻ.
Trẻ em với hai từ ngắn ngủi nhưng dường như đã nói lên hết đặc điểm của cả lứa
tuổi này. Đây là giai đoạn mà với chúng chơi là cuộc sống. Chơi là hoạt động rất tự nhiên
trong cuộc sống của con người. Nó đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của trẻ em.
Không chơi, trẻ không phát triển được. Không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là
đang sống. Đó là một thực tế mang tính quy luật. Trẻ chơi với niềm đam mê, hứng thú của
mình, chơi một cách vô tư không đắn đo, toan tính,… bởi “trẻ em như búp trên cành”.
Trò chơi và tuổi thơ là hai người bạn thân thiết, không thể tách ra được. Chính trò
chơi đã giúp cho sự phát triển của trẻ được toàn diện, cân bằng và nhịp nhàng, đó là
phương tiện hiệu quả nhất giúp trẻ phát triển. Xuất từ vai trò quan trọng của hoạt động vui
chơi đối với trẻ em và nhu cầu hưởng thụ hoạt động này, chúng tôi thấy việc tổ chức cho
trẻ chơi các trò chơi là một việc làm cần thiết và rất có ý nghĩa.
Nếu hoạt động lao động và hoạt động xã hội là hoạt động đặc trưng của người lớn,
hoạt động học tập là hoạt động đặc trưng của học sinh phổ thông, thì hoạt động vui chơi là
hoạt động đặc trưng của của trẻ lứa tuổi mầm non. Chơi chính là cuộc sống của trẻ. Đặc
biệt ở lứa tuổi mẫu giáo, chơi là hoạt động chủ đạo. Điều này được thể hiện rõ trong cuộc
sống của trẻ ở trường mầm non.
Trẻ ham chơi, đó là chuyện bình thường và đó mới chính là những đứa trẻ thực sự,


không biết chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phát triển. Nhiều nhà nghiên cứu đã gọi trò
chơi và đồ chơi là những vật mầu nhiệm của thế giới, là một trong những hiện tượng văn
hóa gây nhiều hứng thú nhất, vì trong đó nó chứa đựng những khả năng to lớn tác động
đến cuộc sống của con người, đặc biệt là đến sự phát triển của trẻ em. Trò chơi giúp cho
1
sự phát triển của trẻ em được toàn diện, cân bằng và nhịp nhàng, đó là phương tiện hiệu
quả nhất để phát triển các chức năng tâm lí, sinh lí va hình thành nhân cách cho trẻ em.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cả kho tàng trí
tuệ của con người. Nó tồn tại phát triển cùng với sự thay đổi và phát triển của con người.
Cũng chính vì lẽ đó mà có biết bao công trình nghiên cứu được tỏa sáng nhờ có ngôn ngữ.
Và ngôn ngữ cũng chính là vấn đề mà có rất nhiều các nhà khoa học từ các lĩnh vực khác
nhau như: Tâm lí học, triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, giáo dục học,… đi sâu, tìm tòi,
nghiên cứu và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đáng kể.
Đã có nhiểu công trình nghiên cứu về sự phát triển của trẻ, tiêu biểu là công trình nghiên cứu
của: L.X.Vugôtxky, V.X. Mukhina, F.D. Usinxky, R.O.Shor, O.B.Encônhin, Piegie,
M.M.Konxova, M.I.Lixinna, L.I.Bozovich, A.Z. Ruxkai, …
- V.X. Mukhina với Tâm lý học mẫu giáo: Mukhina đi nghiên cứu về tâm lý của trẻ em
trong độ tuổi Mẫu giáo, để thấy được sự phát triển tâm lý của trẻ qua các giai đoạn trong độ
tuổi Mẫu giáo nhằm giúp các nhà nghiên cứu đưa ra các biện pháp nhằm phát triển toàn diện
cho trẻ dựa trên cơ sở tâm lý của trẻ.
- Winhem Preyer với Trí óc của trẻ em: Một tác phẩm miêu tả chi tiết về sự phát triển của
trẻ em, phát triển về vận động, hình thành ngôn ngữ và trí nhớ cụ thể thông qua cậu bé
Alex. Tác phẩm đã giúp chúng ta thấy rõ được quá trình phát triển của bé Alex để từ đó
đưa ra các cách thức nhằm phát triển toàn diện cho trẻ phù hợp với độ tuổi.
- John. B. Watson với Chăm sóc về tâm lí cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ: Tác phẩm nghiên cứu
về tâm lí của trẻ ngay từ khi mới sinh và cách chăm sóc chúng. Dựa vào đó, những nhà
nghiên cứu về trẻ em có thể đưa ra các phương pháp chăm sóc trẻ nhỏ ở các giai phát triển
của trẻ.
- M.M.Konxova với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học: Các hình thức, biện pháp để nhằm dạy

nói cho trẻ trước khi vào tuổi đi học. Tác phẩm đã giúp những nhà nghiên cứu, các bậc phụ
huynh có những định hướng và chọn lựa cho mình biện pháp dạy nói phù hợp với từng trẻ.
- Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với: Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dưới
6 tuổi, đã đưa ra các phương pháp cụ thể giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, vốn từ của mình. Qua
đó, giúp chúng ta có thể áp dụng một số biện pháp phù hợp vào đề tài nghiên cứu nhằm đưa
ra các biện pháp hợp lý đối với sự phát triển tâm, sinh lý của trẻ hơn nữa còn thích hợp với
sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
- Tác giả Hoàng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với Phương pháp phát
triển ngôn ngữ. Tác giả đã đưa ra các phương pháp để giúp trẻ tăng vốn từ nhằm định
hướng chúng ta đưa ra các biện pháp để giúp trẻ phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ của trẻ.
2
- Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn thị Tâm với: Tâm lí trẻ em lứa tuổi
mầm non đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ mầm non qua các giai đoạn
lứa tuổi để từ cơ sở này, chúng ta có thể đưa ra các biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ
của trẻ phù hợp với sự phát triển tâm lí của trẻ ở các giai đoạn tuổi khác nhau.
- Luận án Phó tiến sĩ của Lưu Thị Lan: Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 1 – 6
tuổi, nội dung luận án nói về các bước, giai đoạn hình thành phát triển ngôn ngữ cho trẻ
trong độ tuổi từ 1 đến 6 tuổi. Qua đây, ta có thể chọn lọc được các phương pháp, biện
pháp cụ thể, phù hợp với giai đoạn hình thành phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Qua các công trình nghiên cứu trên là những định hướng và là cơ sở quý báu để
chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua tìm hiểu về đặc điểm của trò chơi với sự phát triển của trẻ mẫu giáo, về đặc
điểm tâm lí của trẻ, tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp, quy trình tổ chức một số
trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo thông qua một số trò chơi.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ 3 - 4 tuổi (30 trẻ), 4 – 5 tuổi (30 trẻ), 5 – 6 tuổi (30 trẻ), giáo viên ở ba trường Mầm

non (27 giáo viên).
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và
khảo sát thực trạng trẻ mẫu giáo ở trường Mầm non.
- Đề xuất biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua một số trò chơi.
- Thiết kế thể nghiệm và đưa ra kết luận.
6. Phạm vi nghiên cứu
Tôi đã tiến hành điều tra ở 3 trường mầm non như sau:
Trường Mầm non Chiềng Cơi – Thành phố Sơn La – Sơn La.
Trường Mầm non Quyết Thắng – Thành phố Sơn La – Sơn La.
Trường Mầm non Long Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình.
Điều tra trên 90 trẻ ở các độ tuổi trẻ 3 – 4 tuổi, 4 – 5 tuổi, 5 – 6 tuổi (90 trẻ), giáo
viên (27 giáo viên) ở ba trường.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc sách, báo và các tài liệu có liên quan tới vấn đề đang nghiên cứu. Từ đó chọn
lọc để xây dựng nên cơ sở lí luận cho đề tài.
3
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Dùng phiếu Anket điều tra kết hợp với việc trao đổi những thông tin có liên quan về vấn đề
nghiên cứu với các giáo viên ở trường mầm non, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
thông qua một số trò chơi.
- Sử dụng phương pháp quan sát: Quan sát những hoạt động của trẻ để đưa ra các phương
pháp hợp lí với tâm sinh lí của trẻ mẫu giáo.
- Ngoài ra, dùng phương pháp nghiên cứu sản phẩm để xác định mục đích phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo qua một số trò chơi.
7.3. Phương pháp thể nghiệm sư phạm
- Sử dụng các phương pháp tác động đến một nhóm trẻ được chọn để thực nghiệm.
8. Giả thuyết khoa học
Phương pháp phát triển ngôn ngữ thông qua các trò chơi cho trẻ mẫu giáo ở các

trường mầm non là vấn đề rất quan trọng nhưng hiện nay chưa gây được hứng thú thực
sự đối với trẻ, eo hẹp về cách bố trí thời gian tổ chức trò chơi nên chưa đạt được hiệu
quả cao. Do vậy, nếu các biện pháp trong đề tài chứng minh được tính khả thi thì sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua một số trò chơi, góp phần
vào phong trào đổi mới phương pháp giáo dục mầm non hiện nay.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu
Trong chương này chúng tôi đề cập tới những cơ sở lí luận về ngôn ngữ của trẻ Mẫu
giáo cụ thể trên ba lứa tuổi mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn. Đặc biệt chúng tôi
có đi sâu vào nghiên cứu khái niệm, phân loại các trò chơi, đặc điểm và ý nghĩa của trò
chơi đối với trẻ em.
Chương 2: Một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo thông qua
một số trò chơi.
Chương này chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng phương pháp
giáo dục Mầm non mới để tổ chức các trò chơi và thiết kế một số mẫu giáo án theo phương
pháp mới về trò chơi cho trẻ: Biện pháp cho trẻ chơi trò chơi dân gian, biện pháp cho trẻ chơi
trò chơi học tập. Chúng tôi có sưu tầm một số trò chơi dân gian và trò chơi học tập nêu rõ mục
đích và cách chơi các trò chơi đó.
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm một số trò chơi cho trẻ mẫu giáo.
Tác giả thiết kế một số biện pháp để ứng dụng nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông
qua một số trò chơi nhằm để chứng minh tính khả thi của các biện pháp.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm lí học
Đối với trẻ lứa tuổi ấu nhi hoạt động với đồ vật vốn là hoạt động chủ đạo. Nhưng

bước sang lứa tuổi mẫu giáo, nó đã có sự biến đổi lớn, mặc dù hoạt động với đồ vật vẫn
phát triển nhưng giờ không còn chiếm vị trí chủ đạo nữa. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo đã có
hoạt động mới, đó là hoạt động vui chơi đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề. Đây là
trò chơi trung tâm tạo nên mọi chuyển biến cơ bản trong hoạt động tâm lí của trẻ. Từ đó,
trẻ bắt đầu hình thành nhân cách con người. Hoạt động vui chơi trở thành hoạt động chủ
đạo của trẻ mẫu giáo.
Do đó, đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo theo đó mà biến đổi một cách rõ rệt. Trong
suốt thời kì mẫu giáo, ở trẻ diễn ra những biến đổi cơ bản về hành vi: chuyển từ hành vi bộc
phát sang hành vi có động cơ – hành vi mang tính nhân cách, hình thành động cơ hành vi.
Tuy nhiên, ở đầu tuổi mẫu giáo bước chuyển biến này cũng chỉ mới dạng khởi đầu, còn đơn
sơ và chưa rõ rệt, thường thì động cơ này bị thúc đẩy bởi nguyện vọng muốn làm người lớn
vui lòng. Trong hoạt động vui chơi, trẻ mẫu giáo thể hiện tính tự lực, tự do và chủ động
(trong việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi, lựa chọn bạn cùng chơi, tự do tham gia các trò
chơi nào mà mình thích và tự do rút ra khỏi trò chơi mà mình chán). Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo
đã biết thiết lập những mối quan hệ rộng rãi và phong phú với các bạn cùng chơi, hình thành
nên một “xã hội trẻ em” sống động với nhiều khía cạnh phong phú. Đời sống tình cảm của
trẻ cũng được phát triển mạnh mẽ. Ở cuối tuổi mẫu giáo, trẻ cơ bản đã hoàn thiện cấu trúc
đặc điểm tâm lí con người vì ở giai đoạn này, trẻ đã sử dụng thành thạo ngôn ngữ, tiếng nói
trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày. Trẻ nắm vững được ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng
ngôn ngữ nói, phát triển vốn từ và cấu trúc ngữ pháp, câu, từ mạch lạc.
Như vậy, quá trình phát triển tâm lí của trẻ ở giai đoạn mẫu giáo diễn ra theo nhiều
giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp với nhiều cung bậc nhận thức khác nhau dần hình
thành nhân cách con người trong trẻ.
1.1.1.1. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo
* Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo bé
Ở lứa tuổi mẫu giáo bé, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là sự chuyển
tư duy từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong mà thực chất đó là việc chuyển những
hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu
5
dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển

từ kiểu tư duy trực quan – hành động sang kiểu tư duy trực quan – hình tượng.
Việc chuyển từ kiểu tư duy trực quan – hành động sang kiểu tư duy trực quan – hình
tượng là nhờ vào trẻ tích cực hoạt động với đồ vật, hoạt động đó được lặp đi lặp lại nhiều
lần và được nhập tâm thành hình ảnh, biểu tượng trong óc. Đặc biệt tư duy của trẻ còn bị
tình cảm chi phối rất mạnh mẽ. Trẻ chỉ suy nghĩ về những điều mà chúng thích và dòng
suy nghĩ thường bị cuốn hút vào ý thích riêng của mình, bất chấp cả tác động khách quan.
Trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo bé, do chưa biết phân tích tổng hợp, chưa biết một sự vật
bao gồm nhiều bộ phận kết hợp lại thành một tổng thể, chưa xác định được vị trí, quan hệ
giữa bộ phận này và bộ phận kia trong một sự vật.
* Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo nhỡ
Nếu ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ thường hành động định hướng bên ngoài - tức là bằng tư
duy trực quan hành động thì sang độ tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ đã có hành động dựa vào các
biểu tượng – tức là kiểu tư duy trực quan, hình tượng đã bắt đầu chiếm ưu thế.
Khi hành động với các biểu tượng trong óc, đứa trẻ hình dung được các hành động
thực tiễn với các đối tượng và kết quả của những hành động ấy. Bằng con đường đó trẻ có
thể giải được nhiều bài toán thực tiễn đặt ra cho mình. Tư duy trực quan - hình tượng phát
triển mạnh cho phép trẻ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ giải được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ
thường gặp trong cuộc sống. Tuy vậy, vì chưa có khả năng tư duy - trừu tượng nên trẻ chỉ
mới dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã trải qua để suy luận ra những
vấn đề mới. Vì vậy, trong nhiều trường hợp chúng chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên
ngoài mà chưa đi vào bản chất bên trong.
* Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
Ở giai đoạn lứa tuổi mẫu giáo nhỡ tư duy trực quan - hình tượng phát triển mạnh mẽ.
Song, bước sang độ tuổi mấu giáo lớn kiểu tư duy trực quan - sơ đồ lại chiếm ưu thế. Kiểu
tư duy này tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan,
không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản thân đứa trẻ.
Tư duy trực quan - sơ đồ vẫn giữ tính chất hình tượng song bản thân hình tượng
cũng trở nên khác trước, hình tượng đã bị mất đi những chi tiết rườm rà mà chỉ còn giữ lại
những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát sự vật chứ không phải là từng
sự vật riêng lẻ. Nó cho phép trẻ đi sâu vào những mối liên hệ phức tạp của sự vật và mở ra

khả năng nhìn thấy mặt bản chất của sự vật và hiện tượng mà tư duy trực quan - hình
tượng không cho phép nhìn thấy được.
1.1.1.2. Đặc điểm khả năng chú ý của trẻ mẫu giáo
6
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng để định
hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh – tâm lí cần thiết cho hoạt động tiến hành
có hiệu quả.
Trẻ mẫu giáo tiếp nhận lời nói được dễ dàng vào thường xuyên hơn so với giai đoạn
trước. Trẻ ngày càng hướng vào lời nói để gọi tên sự vật, để đánh giá hành vi của bạn bè và
của người thân. Đối với trẻ lời nói còn là mệnh lệnh, là động cơ thúc đẩy hành động.
Trong hoạt động, trẻ mẫu giáo luôn cần sự giúp đỡ của người lớn như: chỉ dẫn, giảng giải,
khen ngợi,… làm cho ngôn ngữ của họ trở thành đối tượng chú ý của trẻ. Đó là nguyên
nhân chủ yếu làm thay đổi cơ bản sự phát triển khả năng chú ý của trẻ và được biểu hiện
rõ nét ở trẻ mẫu giáo với những khía cạnh: khối lượng chú ý của trẻ tăng lên, tính bền
vững của chú ý phát triển và hình thành chú ý có chủ định.
Sự tăng về khối lượng chú ý biểu hiện ở chỗ trẻ mẫu giáo trong một lúc có thể quan sát,
tri giác rõ ràng không chỉ một mà có thể là vài đối tượng khác nhau. Kết quả quan sát có thể
tăng lên nếu người lớn dạy cho trẻ biết so sánh sự giống và khác nhau giũa các đối tượng.
Hoạt động của trẻ lứa tuổi mẫu giáo ngày càng phức tạp, do đó trí tuệ của trẻ cũng
ngày một phát triển hơn, khả năng chú ý được tập trung và bền vững hơn. Nếu đầu tuổi
mẫu giáo, trẻ có thể tập trung vào một trò chơi khoảng 30 phút thì vào cuối tuổi giáo, trò
chơi có thể kéo dài khoảng 90 phút.
Trò chơi của trẻ càng phản ánh nhiều hành động và nhiều mối quan hệ phức tạp của
con người trong xã hội, càng nảy sinh nhiều tình huống mới bao nhiêu thì sự chú ý của trẻ
vào trò chơi càng tập trung và bền vững bấy nhiêu. Điều đó phản ánh sự chú ý của trẻ mẫu
giáo phụ thuộc vào hứng thú của chúng đối với các đối tượng xung quanh.
1.1.1.3. Đặc điểm trí nhớ của trẻ mẫu giáo
Có thể nhận xét rằng trí nhớ của trẻ mẫu giáo mang tính trực quan hình tượng, tính
không chủ định nhờ tác động một cách tự nhiên của những ấn tượng hấp dẫn bên ngoài.
Trí nhớ không chủ định đang chiếm ưu thế ở tuổi mẫu giáo mà biểu hiện rõ nhất là ở trẻ

mẫu giáo bé và đi liền với nó là trí nhớ máy móc. Trí nhớ không chủ định có ý nghĩa đặc
biệt đối với sự phát triển của trẻ vì nhờ đó mà trẻ có thể ghi nhớ nhẹ nhàng nhiều ấn tượng
đẹp đẽ cũng như những tài liệu cần thiết cho trẻ sau này.
Vào cuối tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ có bước biến đổi về chất: trí nhớ có chủ định
xuất hiện và phát triển mạnh. Đó là loại trí nhớ có mục đích và phải nhờ đến công cụ tâm lí
như ngôn ngữ, sơ đồ, biểu đồ, chữ viết và mọi quy ước. Nhờ tính mục đích của hành động
mà vai trò của trí nhớ được thay đổi trong đời sống tâm lí của trẻ mẫu giáo và trở thành chức
năng chủ yếu với những thao tác bên trong cấu trúc khiến cho hoạt động nhận thức của trẻ
tốt hơn. Trong đó, ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển trí nhớ có
7
chủ định của trẻ, giúp trẻ nắm được tên và tìm các phương tiện để hỗ trợ ghi nhớ. Trí nhớ có
chủ định là loại trí nhớ rất cần cho việc học tập ở trường phổ thông sau này.
1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học
V. Lênin đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của con người”. Ngôn ngữ là một hệ thống các ký hiệu có cấu trúc, quy tắc và ý nghĩa.
Đồng thời, ngôn ngữ cũng là phương tiện để phát triển tư duy, truyền đạt và tiếp nhận
những nét đẹp của truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.2.1. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con
người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm, tâm
sự với nhau những nỗi niềm thầm kín,.…
* Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh
Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Trẻ em có
nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi
trường xung quanh thông qua khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ khái
quát về vật.
Trẻ không chỉ nhận biết các sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi, mà còn tìm hiểu
những sự vật hiện tượng không xuất hiện trực tiếp trước mắt trẻ, những sự vật xảy ra trong
quá khứ, tương lai. Như vậy, ngôn ngữ không chỉ giúp cho trẻ củng cố kiến thức mà còn mở
rộng hiểu biết về thế giới xung quanh.

Thật vậy, hầu hết trẻ thơ đều có một tâm hồn nhạy cảm. Đối với các em, thế giới
xung quanh chứa đựng biết bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn. Ngay trong những cái tưởng
chừng như bình thường và giản dị thì các em cũng phát hiện ra những điều lí thú. Chẳng
vậy mà Pauxtopxky có nhận xét rằng: “Thời thơ ấu không còn mãi,… Trong thời thơ ấu tất
cả đều khác. Trẻ em đã nhìn thế giới bằng đôi mắt trong sáng và đối với tất cả với chúng đều
rực rỡ hơn nhiều. Mặt trời chói lọi hơn, đồng ruộng được cày sâu hơn, tiếng sấm vang rền
hơn, mưa to hơn, cỏ mọc cao hơn và cả lòng người cũng mở rộng hơn. Nỗi đau thương cũng
sâu sắc hơn và mảnh đất quê hương cũng chứa đầy bí ẩn, nhiều hơn gấp hàng nghìn lần”.
Ngôn ngữ còn là công cụ giúp trẻ hoạt động vui chơi và nhận thức thế giới xung
quanh một cách phong phú hơn. Bởi chơi là phương tiện mở rộng, củng cố chính xác hóa
biểu tượng của trẻ về cuộc sống xung quanh. Nội dung chủ yếu của chơi là phản ánh thế
giới xung quanh trẻ, nên khi tham gia vào hoạt động này trẻ càng hiểu sâu hơn về cuộc
sống xung quanh mình. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội trước lúc chơi dưới nhiều hình thức
hoạt động khác nhau sẽ được chính xác hơn, phong phú hơn.
8
Khi tham gia vào trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao đổi, phân
vai trong trò chơi: Chọn vai nào, chơi như thế nào, và quá trình thỏa thuận này không thể
thiếu vai trò của ngôn ngữ. Ngoài ra, trong quá trình chơi sẽ nảy sinh các tình huống chơi
đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải có một trình độ phát triển ngôn ngữ nhất
định. Trẻ bộc lộ những suy nghĩ của mình với các bạn và nghe ý kiến của các bạn để đi
đến thỏa thuận trong khi chơi,… Sử dụng ngôn ngữ để suy nghĩ về các thao tác, hành
động chơi, thực hiện hành động chơi, giao lưu với các bạn khác trong nhóm và các bạn
chơi khác nhóm, đánh giá, nhận xét, tuyên dương, Không chỉ khi cùng tham gia hoạt
động vui chơi cùng với các bạn mà ngay cả khi trẻ chơi tưởng tượng với một đồ vật thì
ngôn ngữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình chơi của trẻ. Qua đó, ngôn ngữ của
trẻ được phát triển, trẻ được giao lưu tình cảm trong lúc chơi, phát triển khả năng tư duy
và trí tưởng tượng của trẻ.
* Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Không ai có thể phủ nhận ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp của con người. Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất mà người

ta mới phát hiện ra, họ cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau. Đặc biệt đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh, hình thành
những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ dùng để diễn đạt, phát biểu để trình bày ý tưởng,
nguyện vọng của mình cho người khác biết.
Đặc biệt, ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh những hành vi và
việc làm của trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua truyện kể, ca dao, đồng dao, nhất là
trong các trò chơi dân gian,… trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ
đẻ, cái đẹp trong hành vi, trong cuộc sống.
Những câu hát ru ngọt ngào, những cử chỉ âu yếm kèm theo tình cảm yêu mến thông
qua ngôn ngữ sẽ đem đến cho trẻ những cảm giác bình yên, sự vui mừng hớn hở. Đặc biệt
là qua lời ru, mẹ đã dạy cho con nghệ thuật âm nhạc, thơ ca dân tộc để con biết yêu vẻ đẹp
của thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, yêu bà con làng xóm, truyền cho con những ý
niệm cơ bản về thiện ác để hun đúc ở đứa con lòng nhân ái. Ngay cả những lúc nựng con
thì đây là cuộc trò chuyện đằm thắm nhất, đầy tình yêu thương và lòng tin cậy, trong đó
người mẹ đã nói với con bằng cả tấm lòng và đứa con đã nghe mẹ với tất cả sự sung sướng
và niềm say mê của mình. Dù có ý thức hay chưa có ý thức rõ ràng, nhiều người mẹ cũng
đã dạy con học ăn, học nói, học gói, học mở - học làm người bằng những phương thức
nghệ thuật đó khiến cho việc tiếp thu của đứa con vừa rất tự nhiên lại vừa có hiệu quả cao
giúp cho trẻ tiếp cận đẽ dàng hơn với văn hoá của dân tộc.
9
Ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ. Nó tác
động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu
đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật. Các sự vật, hiện
tượng mà trẻ quan sát được trong môi trường sống được in hằn trong trí não của trẻ.
Nhưng để trẻ biết cái lá có màu xanh, bông hoa có màu đỏ, con cá vàng bơi trong nước,
con chim bay trên bầu trời,… nó trở nên đẹp như thế nào thì thông qua ngôn ngữ trẻ sẽ
nhận thức được cái hay, cái đẹp đó trong cuộc sống xung quanh mình. Từ đó hình thành ở
trẻ thái độ tôn trọng cái đẹp và đồng thời kích thích sự sáng tạo ra cái đẹp ở trẻ.
Khi trẻ được tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học như thơ, truyện, ca dao,
đồng dao,… trẻ sẽ được chìm vào với thế giới đa dạng màu sắc. Bao nhiêu loại người khác

nhau, loại người tốt sao gần gũi, mến thương; loại người xấu sao vừa ghét lại vừa sợ…
Những phong cảnh xa lạ từ những khu rừng rậm rạp bí hiểm, đến biển cả mênh mông,
những lâu đài tráng lệ, những con thú chưa hề thấy,… tất cả đã nhập vào tâm hồn của các
em bé với những màu sắc lung linh kì ảo. Tâm hồn các em được rộng mở, trí tưởng được
kích thích mạnh mẽ, thôi thúc các em muốn khám phá những điều kì lạ và lí thú trong các
câu chuyện hết sức hấp dẫn. Những câu thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, những bài đồng dao
ngộ nghĩnh có đoạn điệp khúc nhắc đi nhắc lại dễ nhớ… khiến trẻ muốn đọc theo và sẽ
nhớ rất lâu. Đây chính là thời cơ thuận lợi để trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, đặc biệt là
văn học dân gian. Điều đó giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, nó giúp trẻ sáng tạo ra những
cái mới, hình thành những ước mơ táo bạo, những hoài bão về cuộc sống tương lai.
* Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành thành viên của cộng đồng
Mặt khác, để bày tỏ những những nhu cầu mong muốn của mình với những thành
viên trong cộng đồng, trẻ sử dụng ngôn ngữ để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mình. Điều
đó giúp trẻ hòa nhập hơn với mọi người xung quanh mình.
* Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực cho trẻ
Giáo dục thể lực đối với trẻ em là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể của trẻ, việc
vận động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh và có chế độ sinh hoạt hợp lý nhằm bảo vệ và
làm cho cơ thể trẻ phát triển hài hòa, cân đối, sức khỏe tăng cường đạt đến trạng thái hoàn
thiện về mặt thể chất.
Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, cô giáo và người lớn đã dùng chính ngôn ngữ của
mình để nhằm hướng dẫn, chỉ bảo trẻ thực hiện tốt các yêu cầu do mình đề ra góp phần
làm cho cơ thể trẻ phát triển. Đặc biệt, trong giờ thể dục, giáo viên đã tạo điều kiện giúp
trẻ thực hiện chính xác các động tác làm cho cơ thể phát triển được cân đối bằng chính lời
nói của mình.
10
Ngoài chế độ sinh hoạt hàng ngày, trẻ cần phải được ăn ngon, ăn đủ chất thì cơ thể
của trẻ mới phát triển hoàn thiện được. Để động viên, khích lệ trẻ ăn được thì người lớn
đóng một vai trò rất quan trọng.
1.1.2.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ Mẫu giáo
* Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi)

Trẻ 3 đến 4 tuổi có thể sử dụng ngôn ngữ để thể hiện sự hiểu biết, cảm xúc, ấn tượng
của mình. Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao lưu của trẻ với thế giới
xung quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên.
Việc mở rộng phạm vi tiếp xúc và các mối quan hệ xã hội giúp cho khả năng tri giác
của trẻ nhanh nhạy hơn. Vốn từ của trẻ phong phú, bao gồm nhiều từ loại. Số lượng các từ
loại: tính từ, đại từ, trạng từ được tăng lên, trẻ hiểu được ý nghĩa của nhiều từ loại của
nhiều từ loại khác nhau và biết sử dụng chúng đe thể hiện mối liên hệ đa dạng giữa các sự
vật và hiện tượng về thời gian, định hướng không gian, số lượng, nguyên nhân và kết quả
đơn giản. Các câu nói của trẻ cũng được phát triển và hoàn thiện hơn. Số lượng các câu
nói đúng ngữ pháp của trẻ được tăng lên, các thành phần trong câu nói được phát triển. Do
đó, khả năng giao tiếp của trẻ từ 3 đến 4 tuổi có những bước tiến mới về chất so với trẻ
dưới 3 tuổi. Vì vậy, ở thời kì này, chúng ta cần tích cực cung cấp các từ mới cho trẻ, mở
rộng phạm vi tiếp xúc của trẻ với thế giới xung quanh, tạo điều kiện cho trẻ có thể giao
tiếp nhiều với nhau qua các trò chơi.
* Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 – 5 tuổi)
Khả năng nhận thức và ngôn ngữ của trẻ từ 4 đến 5 tuổi có những bước tiến mới
đáng kể. Trẻ 5 tuổi có khả năng tri giác âm thanh nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm
dẻo tự nhiên. Trẻ ham học hỏi, thích tìm hiểu về xã hội và tự nhiên. Trẻ chủ động giao tiếp
ngôn ngữ với những người xung quanh và hay đặt câu hỏi như: Như thế nào? Làm gì? Bao
giờ? Tại sao?
Trẻ biết lắng nghe những câu trả lời của người khác, thích tham gia nói chuyện tập thể
với bạn bè và cô giáo. Trẻ có thể tự kể lại một sự việc theo trình tự thời gian. Khả năng tiếp thu
và sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hàng ngày của trẻ ngày càng tốt hơn. Do đó, ở lứa tuổi
này, chúng ta cần cho trẻ nghe nhiều loại từ, câu nói có nhiều sắc thái biểu cảm và ngữ điệu
khác nhau thông qua các trò chơi đóng vai, trò chơi dân gian, thơ, truyện. Đặt nhiều loại câu
hỏi về thời gian, trạng thái, tính chất… cho trẻ trả lời và giúp trẻ biết kể lại chuyện.
* Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi
Trẻ từ 5 đến 6 tuổi có thể sử dụng thông thạo tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Khả năng
ngôn ngữ liên quan chặt chẽ đến sự phát triển trí tuệ và những trải nghiệm của trẻ. Trẻ có
thể dùng ngôn ngữ để thể hiện các mối quan hệ qua lại nhiều mặt của các sự vật, hiện

11
tượng trong cuộc sống mà trẻ nhận thức được, bước đầu có sự khái quát và đưa ra kết luận
như: “Chanh thì chua còn đường thì ngọt”; “Bố là đàn ông và mẹ là đàn bà”…
Tuy nhiên, khả năng ngôn ngữ của từng cá nhân trẻ ở lứa tuổi này vẫn còn có sự
khác biệt lớn về mức độ phong phú của vốn từ, về cách diễn đạt mạch lạc, cách nói
đúng ngữ pháp và cách thể hiện lời nói sáng tạo. Do đó, trong quá trình giáo dục phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, cô cần chú ý giúp trẻ rút ngắn sự khác biệt trên vá tích cực phát
huy vốn từ của trẻ.
1.1.3. Trò chơi với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.1.3.1. Khái niệm về trò chơi trẻ em
“Chơi và trò chơi” là từ đa nghĩa trong tiếng Việt cũng như nhiều thứ tiếng khác. Trò
chơi trẻ em bao quát các nội dung sau:
Trò chơi trẻ em có những biểu hiện thường xuyên như: tính tự do, tính tích cực, giàu
cảm xúc chân thực.
Trò chơi trẻ em là những hoạt động có đặc thù về cấu tạo và cách thức hành động.
Động cơ chơi không ở kết quả mà ở ngay quá trình hành động. Hành động chơi giản lược,
cá tính biểu trưng.
Trò chơi trẻ em mang bản chất xã hội.
Trò chơi chính là phương tiện để trẻ học làm người.
1.1.3.2. Phân loại trò chơi
Trò chơi của trẻ mẫu giáo rất đa dạng và phong phú cả về nội dung, tính chất cũng
như cách thức tổ chức chơi nên phân loại trò chơi còn quan điểm khác nhau.
Ở nước ta, trong những năm 60, người ta phân trò chơi trẻ em thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Trò chơi phản ánh sinh hoạt
Nhóm 2: Trò chơi vận động bao gồm:
+ Trò chơi vận động tự do với dụng cụ thể dục (vòng, gậy) gắn với thao tác chơi.
+ Trò chơi vận động có luật lấy từ trò chơi dân gian và bắt chước một số trò chơi của
nước ngoài (cướp quân, cướp cờ).
Trong những năm 70, sự phân loại trò chơi của trẻ mẫu giáo chưa được thống nhất.
Các nhà giáo dục được học và tiếp cận với quan điểm phân loại của nước nào thì đứng về

quan điểm phân loại của nước đó.
Từ những năm 80 trở lại đây, trong các trường mầm non ở nước ta vận dụng cách
phân loại trò chơi theo quan điểm của Liên Xô (cũ). Theo quan điểm này, trò chơi của trẻ
mẫu giáo được phân thành hai nhóm chính:
Nhóm 1: Nhóm trò chơi sáng tạo, bao gồm các trò chơi sau:
+ Trò chơi đóng vai theo chủ đề
12
+ Trò chơi xây dựng – lắp ghép
+ Trò chơi đóng kịch
Nhóm 2: Nhóm trò chơi có luật, bao gồm các trò chơi:
+ Trò chơi học tập
+ Trò chơi vận động
Theo PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết thì trò chơi được phân loại thành các nhóm sau:
+ Trò chơi tượng trưng theo cách hiểu của Piagiet
+ Trò chơi đóng vai theo chủ đề
+ Trò chơi trí tuệ
+ Trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam
+ Trò chơi điện tử
Việc phân loại trò chơi chỉ mang tính tương đối bởi hoạt động vui chơi ở mỗi thời kì
lứa tuổi lại có những trò chơi với các đặc điểm đặc trưng riêng khác nhau.
1.1.3.3. Đặc điểm hoạt động vui chơi của trẻ em
Chơi là hoạt động rất tự nhiên trong cuộc sống của mọi người. Nó đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của trẻ em. Không chơi trẻ không thể phát triển, không chơi đứa trẻ chỉ
tồn tại chứ không không phải đang sống. Đó là một thực tế mang tính quy luật. Hoạt động
này không chỉ chiếm nhiều thời gian trong cuộc sống của trẻ mà quan trọng hơn là nó quyết
định sự phát triển tâm lí của trẻ, đồng thời nó chi phối các hoạt động khác của trẻ.
Hoạt động vui chơi của trẻ em, đặc biệt là của trẻ mẫu giáo có những đặc điểm cơ
bản sau:
* Hoạt động vui chơi của trẻ em mang tính chất vô tư, có nghĩa là trong khi chơi đứa
trẻ không chủ tâm nhằm tới một lợi ích thiết thực nào cả. Trong học tập, người hoạt động

chủ tâm nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết. Trong lao động, người hoạt động chủ
tâm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội và cho bản thân. Còn nguyên cớ
thúc đẩy đứa trẻ vào trò chơi chính là sự hấp dẫn của bản thân quá trình chơi chứ không
phải là kết quả đạt được của hoạt động. Trẻ chơi chỉ cốt cho vui, có vui thì mới chơi và đã
chơi thì phải vui.
Vì hoạt động vui chơi của trẻ mang tính vô tư nên khi tổ chức, hướng dẫn cho trẻ
chơi người lớn cần tránh áp đặt vào trò chơi những lợi ích thiết thực buộc trẻ gắng sức để
đạt cho bằng được. Vì mỗi khi đã gieo vào đầu óc đứa trẻ một sự vụ lợi nào đó thì lập tức
cũng tước đi ở chúng tính hồn nhiên và niềm vui sướng trong khi chơi.
* Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động mô phỏng lại cuộc sống của con người,
mô phỏng lại những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và với xã hội. Do đó, hoạt
13
động này mang tính chất tượng trưng, trong khi chơi trẻ có thể dùng các vật thay thế tượng
trưng cho người thật, vật thật.
Chính sự mô phỏng đó lại là điều kiện cần thiết giúp trẻ có được những hành động tự
do thoải mái, có niềm say mê đến tận cùng với bao ước mơ ngộ nghĩnh và thú vị, làm nảy
sinh và phát triển trí tưởng tượng. Từ đó mà hình thành chức năng ký hiệu tượng trưng,
một chức năng tâm lí mới cần cho cuộc sống sau này.
* Hoạt động vui chơi của trẻ em là một hoạt động mang tính tự do. Khác với với
học tập và lao động, vui chơi không buộc phải tuân thủ theo một phương thức chặt chẽ
nào. Nhờ đó đứa trẻ có được những hành động tự do. Sẽ không thể chơi được nếu
hành động của đứa trẻ bị phụ thuộc một cách nghiêm ngặt vào thế giới hiện thực.
Tuy vậy, sự tự do của trẻ phải nằm trong giới hạn của vai hoặc giới hạn của luật
chơi. Tính tự do ở hoạt động chơi của trẻ em còn được thể hiện ở chỗ hành động chơi hoàn
toàn xuất phát từ nguyện vọng và hững thú cá nhân chứ không do một sự áp đặt nào từ
phía bên ngoài.
* Hoạt động vui chơi của trẻ em là một hoạt động độc lập và tự điều khiển. Hơn bất cứ
hoạt động nào, khi tham gia vào trò chơi đứa trẻ bộc lộ hết mình một cách tích cực và chủ
động. Chơi là hoạt động độc lập và tự chủ đầu tiên của trẻ em. Trong khi chơi trẻ tự lực
làm lấy mọi việc, từ việc chọn trò chơi, bạn chơi đến việc tìm kiếm đồ chơi… đặc biệt là

cố gắng suy nghĩ để khắc phục trở ngại xuất hiện trong quá trình chơi.
Một biểu hiện độc đáo của tính độc lập, đó là sự tự điều chỉnh hành vi của mình khi
chơi. Để phù hợp với yêu cầu của trò chơi và bạn chơi đứa trẻ cần luôn điều chỉnh hành vi
của mình, nếu không sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Chính tính độc lập và tự điều chỉnh hành vi đó đã tạo cho trẻ không những niềm vui
sướng và lòng tự tin trong khi chơi mà còn giúp chúng phát huy khả năng tự lập của mình
trong cuộc sống sau này.
* Hoạt động vui chơi của trẻ em là một hoạt động mang màu sắc xúc cảm chân thực
mạnh mẽ. Đứa trẻ lao vào cuộc chơi với tất cả sự say mê và lòng nhiệt tình vốn có của nó.
Trò chơi tác động mạnh mẽ và toàn diện đến trẻ em, chính vì nó thâm nhập một cách dễ
dàng hơn cả vào thế giới tình cảm của trẻ em, mà tình cảm đối với chúng lại là động cơ
hành động mạnh mẽ nhất. Dẫu biết rằng trong trò chơi mọi cái đều mang ý nghĩa tượng
trưng, đều là không có thật, nhưng tình cảm mà trẻ em biểu hiện trong đó là tình cảm chân
thực, hồn nhiên và thẳng thắn, không hề mang tính giả tạo một chút nào, bởi vì không bao
giờ đứa trẻ lại thờ ơ với những gì mình thể hiện. Sắc thái xúc cảm trân thực, mạnh mẽ mà
trẻ bộc lộ trong trò chơi là một đặc điểm rất dễ nhận ra, khiến nhiều người nghệ sĩ tài ba
cũng mong có được, vì chính nhờ nó mà họ có thể đạt tới sự thành công trong nghệ thuật.
14
Do những đặc điểm này, hoạt động vui chơi được coi là hoạt động tự nguyện của
mọi trẻ em, đó là những giây phút phút sung sướng nhất của các cháu. Bởi lẽ khi chơi
chính là lúc trẻ thể hiện “ước mơ với tất cả thân thể của mình” (Georges Duhamel).
1.1.3.4. Ý nghĩa của hoạt động vui chơi đối với trẻ em
Chơi là hoạt động đặc trưng của trẻ em lứa tuổi mầm non. Mỗi lứa tuổi, nội dung
chơi, tính chất chơi khác nhau. Thoạt đầu, chơi chỉ mang tính ngẫu nhiên, tình cờ, dần dần
mang tính chủ tâm hơn, đến tuổi mẫu giáo, chơi trở thành hoạt động chủ đạo, ảnh hưởng
mạnh đến sự phát triển mọi mặt trong đời sống tâm lí nhân cách của trẻ. Chính vì lẽ đó, các
nhà giáo dục sử dụng trò chơi như là phương tiện để giáo dục toàn diện cho trẻ em.
* Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ cho trẻ em
Chơi là phương tiện mở rộng, củng cố chính xác hóa những biểu tượng của trẻ về
cuộc sống xung quanh. Nội dung chủ yếu của chơi là phản ánh thế giới xung quanh trẻ,

nên khi tham gia vào hoạt động này trẻ càng hiểu sâu hơn về cuộc sống xung quanh. Ví
dụ, trẻ có biểu tượng chính xác hơn về chức năng sử dụng một số đồ dùng sinh hoạt quen
thuộc: cái thìa là để xúc cơm, múc canh, cái cốc là để uống nước; người bác sĩ thì phải làm
gì, bế em thì phải thế nào,… Trong quá trình chơi, những tri thức mà trẻ nắm được trước
đây bắt đầu tham gia vào một số liên hệ mới và được điều khiển, vận dụng những tri thức
ấy trong những hành động chơi, thao tác chơi: trẻ dùng thìa bón cơm cho búp bê, dùng
khăn lau mặt cho búp bê, đặt e ngủ, nựng búp bê như mẹ đã chăm sóc em…
Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới. Trong một số trường hợp, khi
tham gia vào trò chơi, dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ khám phá ra nhiều điều mới
lạ, thú vị ở thế giới xung quanh. Trong quá trình thực hiện các hành động chơi, thao tác
chơi, trẻ nhận ra được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của sự vật hiện tượng. Ví
dụ, trẻ hình dung ra được thế nào là to hơn, nhỏ hơn; thế nào là cao hơn, thấp hơn; thế nào
là xa hơn, gần hơn;…
Khi tham gia vào trò chơi, các chuẩn cảm giác về hình dạng, kích thước và màu sắc
của trẻ được củng cố và chính xác hóa. Nhờ đó, trẻ dễ dàng thực hiện hành động chơi, nội
dung chơi (xếp được ngôi nhà hợp lí, phân loại đồ chơi theo màu sắc,…). Đặc biệt là khi
tham gia trò chơi, tính có chủ định trong quá trình tri giác, chủ ý, trí nhớ của trẻ được hình
thành. Ví dụ: Trẻ phải chú ý lắng nghe xem tiếng kêu đó là tiếng kêu của con vật gì (trong
trò chơi “tai ai tinh”); con gì biến mất (trong trò chơi “con gì biến mất”)… để giải quyết
nhiệm vu chơi.
Khi tham gia vào trò chơi, trí tưởng tượng của trẻ được phát triển mạnh mẽ. Trong quá
trình chơi, đứa trẻ học thay thế đồ vật này bằng đồ vật khác, nhận đóng vai này, vai kia, nảy
sinh hoàn cảnh tưởng tượng… để thực hiện hành động chơi, nội dung chơi. Đó là cơ sở quan
15
trọng để nảy sinh và phát triển trí tưởng tượng của trẻ. Thật vậy, trong khi chơi (đặc biệt là
trò chơi đóng vai theo chủ đề) trẻ có thể làm bất cứ việc gì (nào là lái xe, chữa bệnh, ), có
bất cứ cái gì mình muốn (muốn có ngựa thì dùng chiếc gậy hay dùng tàu lá cau, muốn có ô
tô, đầu tàu hỏa thì chỉ cần một cái ghế, hai tay bám vào vai ghế thế là có liền…). Trẻ hình
dung sàn nhà lớp học khi thì là con đường từ đồng về làng mà con ngựa đang “nhông nhông
nhông ngựa ông đã về…”, khi thì là đường tàu hỏa “tu tu tu, xình xình xịch”… Khi tham

gia vào trò chơi trẻ suy nghĩ về hành động chơi, thao tác chơi, sử dụng vật thay thế như thế
nào?. Trẻ học được cách giải quyết nhiệm vụ, tìm kiếm phương tiện thích hợp nhất để thực
hiện dự định đã đề ra. Qua đó tư duy của trẻ được phát triển mạnh.
Vui chơi còn là phương tiện phát triển ngôn ngữ của trẻ. Trước hết khi tham gia vào
trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao đổi suy nghĩ của mình với các bạn
và nghe ý kiến của các bạn để đi đến thỏa thuận trong khi chơi… Trẻ sử dụng ngôn ngữ để
suy nghĩ về thao tác, hành động chơi, thực hiện hành động chơi, giao lưu với trẻ khác
trong nhóm và các nhóm chơi khác, đánh giá lẫn nhau. Qua đó, ngôn ngữ của trẻ được
phát triển (vốn từ trở nên phong phú, kĩ năng giao tiếp được phát triển hơn,…).
* Chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em
Trò chơi có ảnh hưởng mạnh đến nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của trẻ. Khi
tham gia vào trò chơi đứa trẻ trải nghiệm được những thái độ, tình cảm đạo đức và tập
được hành vi ứng xử với người xung quanh bằng cách nhập vai của mình. Qua đó, trẻ học
làm người.
Trong khi chơi trẻ được thử sức hành động như người lớn, qua đó hình thành hành
vi, thái độ cho bản thân, thực hiện hành động chơi phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức xã hội của vai chơi. Ví dụ: Bác sĩ thì phải ân cần niềm nở với bệnh nhân, phải thông
cảm và chia sẻ với bệnh nhân. Người bán hàng thì phải vui vẻ, lịch thiệp với khách hàng.
Làm mẹ thì phải dịu dàng, ân cần vỗ về em bé,… Những tri thức về biểu tượng hành vi
đạo đức được lĩnh hội trong các mối quan hệ chơi ấy dần dần được trẻ vận dụng vào trong
các mối quan hệ thực của đời sống, biết ân cần giúp đỡ em nhỏ, biết lịch sự, lễ phép với
người lớn tuổi, biết chắm sóc những người thân, biết vâng lời cô giáo,…
Cũng trong hoạt động chơi hình thành ở trẻ sự thật thà, dũng cảm, tính chủ động,
tính kiên trì, đặc biệt là lòng nhân ái. Khi tham gia vào mối quan hệ giữa người với người
trong trò chơi, những rung động mang tính người được gợi lên ở trẻ. Hơn nữa thái độ buồn
rầu hay vui vẻ ở trẻ còn phụ thuộc vào hoàn cảnh được tạo nên bởi trí tưởng tượng trong
khi chơi. Do vậy, trong khi chơi trẻ đã thể hiện được tình người như thái độ ân cần, yêu
thương đối với em nhỏ, cảm thông, chia sẻ với người khác.
16
Có thể nói rằng, chơi như là một mắt xích nối liền giữa trẻ với các quy tắc, chuẩn

mực đạo đức xã hội. Nó giúp cho quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra tự
nhiên, hiệu quả mặc dù chơi chỉ là giả vờ nhưng hiệu quả giáo dục lại rất thật, rất lớn lao.
* Chơi là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ
Chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm cho tinh thần của trẻ được sảng khoái – một yếu
tố quan trọng để phát triển thể chất cho trẻ. Vì tinh thần sảng khoái, thỏa mãn sẽ làm cho
thể lực được phát triển tốt hơn.
Khi tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động một cách tích cực,
thúc đẩy sự trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn máu góp phần tăng cường sức
khỏe cho trẻ. Đành rằng các vận động ấy diễn ra một cách hợp lí mới mang lại hiệu quả giáo
dục, nếu không sẽ phản tác dụng. Chẳng hạn một vận động quá mạnh, vượt quá sức của trẻ,
tư thế vận động không đúng cách, sẽ phương hại đến sự phát triển thể chất của trẻ. Vấn đề
đặt ra ở đây là, khi lựa chọn trò chơi (đặc biệt là trò chơi vận động) cô giáo cần chú ý đến tư
thế của trẻ khi chơi và nhiệm vụ chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ.
Những trò chơi phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi sẽ góp phần phát triển và hoàn
thiện các vận động cơ bản như: đi, chạy, nhảy, leo trèo, ném, bắt và góp phần rèn luyện tố
chất thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự khéo léo.
* Chơi là phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ
Chơi là hoạt động phản ánh cuộc sống của xã hội. Khi tham gia trò chơi, trẻ cảm
nhận được cái đẹp ở sự phong phú, đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh
của đồ vật, đồ chơi. Khi tổ chức các hoạt động giáo dục nói chung, tổ chức hoạt động vui
chơi cho trẻ, cô cần tạo ra môi trường tiện lợi để hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tích cực tham gia
hoạt động. Trong đó yếu tố thẩm mĩ cần được đặc biệt quan tâm, từ việc trang trí lớp học,
lựa chọn đồ chơi, đến cách cư xử trong quan hệ chơi cũng như quan hệ thực (quan hệ giữa
cô với trẻ, quan hệ giữa trẻ với trẻ,…) cần làm sao cho đẹp để gợi nên ở trẻ những cảm
xúc thẩm mĩ lành mạnh.
Trò chơi không chỉ giúp trẻ cảm nhận được cái đẹp của đồ dùng, đồ chơi, của hành
động chơi, của các hành vi giao tiếp giữa người với người, giữa con người với hiện thực
mà còn hình thành ở trẻ nhu cầu sống theo cái đẹp, bảo vệ cái đẹp và làm ra cái đẹp.
* Chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ
Khi tham gia trò chơi, trẻ tái tạo lại những hành động lao động và những mối quan

hệ giữa những người lớn với nhau, qua đó mà thu nhận được những biểu tượng về lao
động, về ý nghĩa xã hội và tính hợp tác của nó. Đồng thời qua tái tạo những hành động lao
động của người lớn trong trò chơi mà một số kĩ năng lao động giản đơn được hình thành ở
trẻ: kĩ năng lao động tự phục vụ, kĩ năng lao động trực nhật,…
17
Cũng trong quá trình chơi, dưới sự hướng dẫn của cô giáo trẻ được giáo dục một số
phẩm chất đạo đức cần thiết cho người lao động tương lai: tính mục đích, tính sáng tạo,
lòng yêu lao động và thích lao động,…
Như vậy có thể nói, chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ. Nhà giáo dục cần
khai thác thế mạnh của hoạt động vui chơi trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ em. Tổ
chức cho trẻ chơi là mang lại hạnh phúc cho tuổi thơ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một
cách tự nhiên nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Một số trò chơi thường được sử dụng cho trẻ mẫu giáo
1.2.1.1. Nội dung
Có thể nói rằng các trò chơi dành cho trẻ mẫu giáo rất đa dạng và phong phú. Với
mỗi độ tuổi khác nhau thì có những trò chơi khác nhau và có những mức độ khó hay dễ
khác nhau, tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận trò chơi của trẻ. Đối với trẻ em lứa tuổi mẫu
giáo bé khả năng chú ý của trẻ còn kém và chưa có vốn từ phong phú nên các trò chơi
dành cho trẻ ở lứa tuổi này thường đơn giản, dễ chơi, nội dung trò chơi ngắn gọn và đảm
bảo tính hấp dẫn.
Tuy nhiên, khi bước sang lứa tuổi mẫu giáo nhỡ trẻ đã có một khối lượng vốn từ khá
phong phú và đầy đủ để có thể chơi những trò chơi phức tạp hơn, đòi hỏi trẻ phải tập trung
nhiều hơn, nội dung chơi khó hơn và dài hơn so với những trò chơi dành cho trẻ lứa tuổi
mẫu giáo bé.
Đến lứa tuổi mẫu giáo lớn, trẻ đã có một số lượng vốn từ rất lớn để có thể tham gia
vào các trò chơi khó hơn, phức tạp và đòi hỏi trẻ phải sử dụng đến trí tuệ và thể xác và khả
năng chú ý cao hơn trước.
1.2.1.2. Định hướng chơi để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
Mỗi loại trò chơi dành cho trẻ mẫu giáo đều có những đặc điểm khác nhau nhưng

chúng đều có đặc điểm hấp dẫn trẻ. Với những trẻ ở độ tuổi mẫu giáo bé, trẻ được hướng
dẫn cách chơi một cách tỉ mỉ và tham gia vào trò chơi dưới sự giúp đỡ của cô giáo về cả
ngôn ngữ lẫn cách chơi.
Còn đối với những trẻ độ tuổi mẫu giáo nhỡ, vì trẻ có vốn từ phong phú hơn và khả
năng chú ý của trẻ đang được phát triển do vậy mà các trò chơi khó hơn, giáo viên sẽ hướng
dẫn trẻ thông qua ngôn ngữ hoặc có thể bằng cách diễn đạt lại trò chơi, và nói luật chơi đối
với trẻ trước khi cho trẻ tham gia vào trò chơi.
Sang đến độ tuổi mẫu giáo lớn, nhận thức của trẻ cũng phát triển hơn trước. Trẻ có
thể tự mình chơi được thông qua sự hướng dẫn của cô giáo mà không cần sự hướng dẫn
sát xao của cô. Có thể trẻ sẽ học từ cách chơi với bạn bè trong nhóm chơi.
18
Để phát triển ngôn ngữ của trẻ một cách có hiệu quả giáo viên cần nắm được đặc
điểm ngôn ngữ của từng giai đoạn lứa tuổi của trẻ để có thể khơi dậy khả năng phát triển
của trẻ thông qua các trò chơi.
1.2.2. Khảo sát thực trạng tổ chức các trò chơi ở trường Mầm non
1.2.2.1. Mục đích khảo sát
Quá trình khảo sát nhằm tìm hiểu:
- Thực trạng về trình độ giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trẻ mẫu giáo.
- Thực trạng của giáo viên về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo thông qua các trò chơi.
- Thực trạng mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo thông qua các trò chơi.
1.2.2.2. Nội dung khảo sát
- Tìm hiểu nhận thức của giáo viên về việc dạy trẻ mẫu giáo thông qua các trò chơi nhằm
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Dự giờ quan sát giáo viên tổ chức dạy trẻ mẫu giáo các trò chơi, ghi chép các biện pháp
giáo viên đã sử dụng.
- Đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo thông qua các trò chơi.
1.2.2.3. Đối tượng khảo sát
- Giáo viên dạy lớp mẫu giáo bé (9 cô)
- Giáo viên dạy lớp mẫu giáo nhỡ (9 cô)
- Giáo viên dạy lớp mẫu giáo lớn (9 cô)

- Trẻ mẫu giáo bé (30 cháu)
- Trẻ mẫu giáo nhỡ (30 cháu)
- Trẻ mẫu giáo lớn (30 cháu)
1.2.2.4. Địa bàn khảo sát
- Trường Mầm non Chiềng Cơi – Tp Sơn La – Sơn La
- Trường Mầm non Quyết Thắng – Tp Sơn La – Sơn La
- Trường Mầm non Long Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình
1.2.2.5. Thời gian khảo sát
Từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 04 năm 2012
1.2.2.5. Phương pháp khảo sát
* Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket
+ Đối với giáo viên:
- Mục đích: Tiến hành khảo sát để thu thập ý kiến của các giáo viên mầm non nhằm tìm
hiểu về nhận thức, tác động của các trò chơi tới sự phát triển của trẻ đặc biệt là sự phát
triển ngôn ngữ của trẻ, nhận thức của giáo viên trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ
thông qua trò chơi dân gian, trò chơi học tập.
19
- Các bước tiến hành:
Bước 1: Phát phiếu điều tra cho giáo viên
Bước 2: Tiến hành phân tích, tổng hợp kết quả theo nội dung khảo sát
Bước 3: Nhận xét thực trạng, phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
+ Đối với trẻ:
- Mục đích: Sử dụng các phiếu đánh giá thực trạng ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo ở các lứa
tuổi nhằm tìm hiểu mức độ ngôn ngữ của trẻ.
1.2.2.7. Kết quả khảo sát đối với trẻ
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng ngôn ngữ của trẻ Mẫu giáo ở ba lứa tuổi
mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi, mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi, mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi thông qua các trò
chơi dân gian, trò chơi học tập theo phiếu đánh giá. Đánh giá 90 trẻ tại 3 trường Mầm non
Chiềng Cơi – Thành phố Sơn La – Sơn La, trường Mầm non Quyết Thắng – TP Sơn La –
Sơn La, , trường Mầm non Long Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình. Chúng tôi đã xây dựng

những tiêu chí đánh giá như sau:
Bảng 1: Các tiêu chí đánh giá thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua một số trò chơi
dân gian, trò chơi học tập.
STT Các tiêu chí đánh giá Mức độ Xếp loại
1 Khả năng phát âm
+ Diễn đạt dễ dàng
+ Diễn đạt bình thường
+ Diễn đạt khó khăn
+ Không diễn đạt được
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
2 Khả năng hiểu từ
+ Nhanh
+ Bình thường
+ Chậm
+ Không hiểu
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
3 Khả năng hiểu nội dung trò chơi
+ Nhanh
+ Bình thường
+ Chậm
+ Không hiểu
Tốt
Khá
Trung bình

Yếu
Bảng 2: Kết quả khảo sát thực trạng ngôn ngữ của 30 trẻ trường Mầm non Quyết Thắng –
Thành phố Sơn La – Sơn La
Khả năng Số lượng trẻ Tỉ lệ %
20
Tốt Khá Trung
bình
Yếu Tốt Khá Trung
bình
Yếu
Khả năng phát âm 8 9 13 0 26.7% 30% 43.3% 0 %
Khả năng hiểu từ 7 8 14 1 23.3% 26.7% 46.7% 3.3 %
Khả năng hiểu nội
dung trò chơi
7 7 14 2 23.3% 23.3% 46.7% 6.7 %
Bảng 3: Kết quả khảo sát thực trạng ngôn ngữ của 30 trẻ trường Mầm non Chiềng Cơi –
Thành phố Sơn La – Sơn La
Khả năng Số lượng trẻ Tỉ lệ %
Tốt Khá Trung
bình
Yếu Tốt Khá Trung
bình
Yếu
Khả năng phát âm 8 10 11 1 26.7% 33.3% 36.7% 3.3 %
Khả năng hiểu từ 7 8 14 1 23.3% 26.7% 46.7% 3.3 %
Khả năng hiểu nội
dung trò chơi
7 7 14 2 23.3% 23.3% 46.7% 6.7 %
Bảng 4: Kết quả khảo sát thực trạng ngôn ngữ của 30 trẻ trường Mầm non– Long Sơn –
Lương Sơn - Hòa Bình

Khả năng Số lượng trẻ Tỉ lệ %
Tốt Khá Trung
bình
Yếu Tốt Khá Trung
bình
Yếu
Khả năng phát âm 8 10 12 0 26.7% 33.3% 40% 0 %
Khả năng hiểu từ 6 9 14 1 20% 30% 46.7% 3.3 %
Khả năng hiểu nội
dung trò chơi
7 7 14 2 23.3% 23.3% 46.7% 6.7 %
1.2.2.8. Kết quả khảo sát đối với giáo viên
Thực trạng trình độ đào tạo của giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ ở 3 lứa tuổi mẫu
giáo bé (3 - 4 tuổi), mẫu giáo nhỡ (4 – 5 tuổi), mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) ở ba trường mầm
non được điều tra.
+ Trình độ đào tạo:
- Giáo viên có trình độ Đại học sư phạm Mầm non là: 11 giáo viên
- Giáo viên có trình độ Cao đẳng sư phạm Mầm non là: 12 giáo viên
- Giáo viên có trình độ Trung cấp sư phạm Mầm non là: 4 giáo viên
- Sơ cấp sư phạm Mầm non: Không có
- Chưa qua đào tạo: Không có
+ Thâm niên công tác:
- Dưới 5 năm: 3 giáo viên
21
- Từ 10 – 15 năm: 10 giáo viên
- Từ 15 năm trở lên: 14 giáo viên
Qua số liệu điều tra trên, ta thấy tại các trường Mầm non mà chúng tôi đã tiến hành
khảo sát phần lớn giáo viên có trình độ từ trung cấp trở lên đến đại học và đa số các giáo
viên đều có thâm niên công tác lâu năm. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc chăm
sóc và giáo dục trẻ lứa tuổi mẫu giáo.

+ Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc nâng cao chất lượng hoạt động cho trẻ nhằm
phát triển ngôn ngữ thông qua một số trò chơi.
Chúng tôi đã điều tra 27 giáo viên của ba trường Mầm non Quyết Thắng, trường
Mầm non Chiềng Cơi và trường Mầm non Long Sơn. Sau khi điều tra, chúng tôi thấy nhận
thức của giáo viên về việc nâng cao chất lượng hoạt động cho trẻ như sau:
- Khi hỏi về: “Tổ chức trò chơi dân gian, trò chơi học tập cho trẻ có tác động như thế nào
đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ?” Tất cả các giáo viên được điều tra đều cho rằng
trò chơi dân gian, trò chơi học tập tác động mạnh đến sự phát triển vốn từ, khả năng phát
âm, hiểu nghĩa của từ và khả năng nói mạch lạc của trẻ.
- Khi được hỏi về: “Chị vận dụng phương pháp giáo dục mầm non mới vào việc tổ chức trò
chơi cho trẻ như thế nào?” Tất cả các giáo viên đều nhận thức rõ về việc vận dụng các
phương pháp giáo dục mầm non mới vào việc tổ chức trò chơi cho trẻ mầm non bằng cách
lồng ghép, đan cài các trò chơi phù hợp với nội dung của bài dạy vào trong các tiết học
nhằm thúc đẩy quá trình phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt là phát triển lĩnh vực ngôn ngữ
cho trẻ, tạo được hứng thú cao và giúp trẻ thoải mái hơn không còn gò bó trong tiết học.
Kết quả trên cho thấy, phần lớn các giáo viên đã xác định được tác động lớn của trò
chơi dân gian, trò chơi học tập đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ và cách tích hợp các
nội dung phù hợp vào trò chơi.
- Khi được hỏi: “Chị còn biết những phương pháp và biện pháp nào nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ thông qua trò chơi dân gian, trò chơi học tập nữa không?
” thì có: 100% sử dụng các phương tiện hỗ trợ hiện đại trong giảng dạy, 80% sử dụng
phương pháp bằng hình ảnh, mô hình trực quan.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, chúng tôi đã đề cập đến những cơ sở lí luận và thực tiễn và thực
tiễn về ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo ở các độ tuổi khác nhau. Đặc biệt, chúng tôi đi nghiên
cứu về đặc điểm và vai trò, phân loại trò chơi. Bởi trò chơi là một phần cuộc sống của trẻ
em. Thông qua các trò chơi mà trẻ có thể thu nhận được các biểu tượng một cách chính
xác hóa bằng ngôn ngữ.
22
Với trẻ em, ngôn ngữ như là chiếc cầu nối giữa trẻ với thế giới. Vì thế, ngay từ

những năm tháng đầu tiên của cuộc đời trẻ đã có nhu cầu dùng ngôn ngữ để giao tiếp, để
khám phá và tri giác sự vật xung quanh mình.
Như chúng ta biết, trò chơi là một phần cuộc sống của trẻ. Nó giúp trẻ được thỏa
mãn các nhu cầu như được giao tiếp, tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm với thế giới xung
quanh. Do đó, trò chơi là vấn đề hết sức quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Hơn nữa, thông qua các trò chơi trẻ có thể phát huy hết khả năng và trí tuệ, thể lực
của mình. Nhờ đó nà trẻ có thêm lượng vốn từ khá phong phú, đồng thời tạo ra các tình
huống nhằm giúp trẻ sử dụng vốn từ đã tích lũy được một cách triệt để.
23
CHƯƠNG 2
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ MẪU GIÁO THÔNG QUA MỘT SỐ TRÒ CHƠI
2.1. Khái niệm biện pháp
Biện pháp là các cách làm, cách giải quyết các vấn đề cụ thể. Đưa ra những cách
thức cụ thể nhằm áp dụng vào giải quyết các vấn đề về ngôn ngữ cho trẻ mầm non,
giúp trẻ phát triển số lượng vốn từ, cấu trúc ngữ pháp và khả năng nói mạch lạc.
2.2. Các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
2.2.1. Biện pháp cho trẻ chơi trò chơi dân gian
2.2.1.1. Mục tiêu và ý nghĩa
Trò chơi dân gian là một loại hoạt động văn hóa đặc sắc của người Việt. Từ đời nay
sang đời khác trò chơi dân gian vẫn được lưu truyền, mang màu sắc đời sống văn hóa
truyền thống của dân tộc ta. Nó nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí và trong đó góp
phần vào việc giáo dục trẻ em một cách tinh tế. Sử dụng trò chơi dân gian để nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ là một biện pháp rất hữu hiệu. Bởi với trẻ ngay từ khi bước vào thời
thơ ấu, trẻ được tiếp xúc và và chơi các trò chơi dân gian đơn giản và mang lại nhiều niềm
vui cho trẻ.
Biện pháp này nhằm tạo điều kiện cho trẻ tự thể hiện lại nội dung của trò chơi dân
gian bằng chính ngôn ngữ của mình. Qua đó, trẻ có cơ hội được thể hiện khả năng của
mình thông qua lời nói, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt,… làm cho trò chơi trở nên sinh động, hấp
dẫn và hồn nhiên trong sáng hơn.

2.2.1.2. Yêu cầu
Trò chơi dân gian phải hấp dẫn và lôi cuốn được trẻ tham gia tích cực. Những bài
đồng dao đi kèm có lời rõ ràng, trong sáng thể hiện đúng với nội dung của trò chơi.
Giáo viên hướng dẫn rõ cho trẻ tên trò chơi, nội dung, luật chơi và cách chơi của trò
chơi. Ngôn ngữ trong sáng, mang màu sắc dân gian và phù hợp với từng lứa tuổi mẫu giáo.
Trò chơi dân gian mang lại cảm giác thoải mái. Do vậy, giáo viên tạo điều kiện
thuận lợi để trẻ chơi một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó trẻ trong trò chơi không tạo
được niềm vui đối với trẻ.
Hơn nữa khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ sẽ được trải nghiệm với các mối quan hệ.
Vì vậy, giáo viên có thể giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn trong quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với thiên nhiên.
2.2.1.3. Cách tiến hành
Sử dụng trò chơi dân gian để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ là biện pháp hiệu quả để
trẻ có thể trải nghiệm vào các mối quan hệ và kích thích trẻ sáng tạo.
24
Giáo viên giới thiệu tên trò chơi dân gian mà cô đã định cho trẻ chơi. Cô giúp trẻ
hiểu về trò chơi và có nhận thức về trò chơi một cách sâu sắc hơn.
Với cách hướng dẫn chơi, giáo viên nên chơi thử và hướng dẫn cho trẻ bắt chước
làm theo như vậy trẻ vừa tư duy, nhận thức về trò chơi lại hiểu sâu sắc hơn. Trẻ biết cách
chơi đúng theo trình tự của trò chơi và chơi tốt hơn với trò chơi đó.
Trong quá trình chơi, cô giáo cần chú ý nhận xét, uốn nắn, chỉnh sửa lỗi cho trẻ và
khơi dậy sự sáng tạo ở trẻ.
Điều quan trọng trong trò chơi là trẻ phải sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, rành mạch,
không nói ngọng và mở rộng được số lượng vốn từ đối với trẻ.
2.2.1.4. Điều kiện vận dụng
Biện pháp cho trẻ chơi trò chơi dân gian có thể tiến hành trong các tiết học, giờ nghỉ
giải lao hay giờ trả trẻ.
Có thể cho trẻ chơi với nhiều hình thức như chơi theo nhóm, đội, chơi cá nhân, chơi
theo đôi, cặp,… tùy thuộc vào loại trò chơi.
* Sưu tầm một số trò chơi dân gian

* Trò chơi trốn tìm
• Cách chơi
Trò chơi có thể từ 5 – 8 trẻ. Các cháu tìm “oẳn tù tì”, ai thua thì làm người đi tìm,
nhắm mắt lại và đếm từ 1 đến 10 thì phải trốn xong và cháu đi tìm mở mắt ra đi các bạn.
Nếu trẻ đi tìm nhìn thấy bạn trốn thì chỉ tay về phía bạn đó và nói tên bạn ấy thì bạn đó sẽ
phải thay và chỗ của người đi tìm. Nếu chạy kịp về chỗ và nói “mô tê” mà không bị bạn đi
tìm phát hiện thì bạn đó không phải đi tìm vẫn được đi trốn ở lượt chơi tiếp theo.
* Trò chơi mèo đuổi chuột
• Bài đồng dao sử dụng trong trò chơi
“Mời bạn lại đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Meo đuổi đằng sau
Chuột cố chạy mau
Trốn đâu cho thoát
Thế rồi chú chuột lại hóa vai mèo
Co cẳng đuổi theo
Bắt mèo hóa chuột”.
• Cách chơi
25

×