Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên dưới thảm thực vật trạng thái rừng IIB, tại xã cao kỳ và nông hạ, huyện chợ mới , tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.71 KB, 60 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Theo số liệu công bố của tổ chức IUCN, UNDP và WWF trung bình
mỗi năm trên thế giới mất đi khoảng 20 triệu ha rừng, trong đó rừng bị mất do
đốt phá làm nương rẫy chiếm 50%, cháy rừng 23% do khai thác từ 5-7% còn
lại là do các nguyên nhân khác (ww.vocw.edu.vn). Như vậy theo thống kê
trên ta thấy rằng tỷ lệ rừng bị mất đi do làm nương rẫy là lớn hơn 50%. Ở
Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ đó. Nhất là ở nước ta rừng tập trung ở
khu vực vùng núi cao, nơi mà trình độ dân trí của người dân còn thấp sống
chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài nguyên rừng nhưng lại thiếu ý thức bảo vệ,
gìn giữ nguồn tài nguyên vô gia này. Đặc biệt với tập quán du canh, du cư,
người dân tùy ý đốt nương, làm rẫy. Sau một thời gian canh tác, khi năng suất
cây trồng giảm đi họ chuyển sang một mảnh đất khác, vài năm sau mới quay
lại mảnh đất cũ làm cho đất rừng bị thoái hóa.
Thời gian người dân bỏ mảnh đất cũ sang một mảnh đất khác canh tác
sẽ có hiện tượng tái sinh rừng.theo quan điểm sinh thái học,tái sinh rừng là tái
sinh cả một hệ sinh thái.Tái sinh rừng là quá trình phục hồi thành phần cơ bản
của rừng,biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một số cây con
của những loài cây gổ ở những nơi có hoàn cảnh rừng ,phần trống trong
rừng,rứng sau khi khai thác,trên đất rừng sau khi khai thác,trên đất rừng sau
nương rẫy.
Mất rừng dẫn đến hạn hán, lũ lụt. Hậu quả của nó là nghèo đói và bệnh
tật. Vì vậy, Phục hồi rừng là một trong những nội dung quan trọng nhất hiện
nay đối với ngành Lâm nghiệp Việt Nam cũng như của các nước nhiệt đới
khác khi mà độ che phủ của rừng đã bị suy giảm xuống dưới mức an toàn sinh
thái mà không đảm bảo được sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo nghĩa thông thường, phục hồi rừng là quá trình tái lập lại rừng
trên những diện tích đã bị mất rừng. Đó là quá trình sinh địa phức tạp bao
gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một thảm cây gỗ bắt đầu


khép tán. Tuỳ theo mức độ tác động của con người trong quá trình lập lại
rừng mà phân chia thành các giải pháp phục hồi rừng: tái sinh tự nhiên ,xúc
1
2
tiến tái sinh, tái sinh nhân tạo (trồng rừng). Như vậy, trừ trồng rừng các giải
pháp khác đều liên quan đến tái sinh tự nhiên.
Thực tiễn đã chứng minh rằng để thực hiện tốt mục tiêu là tiết kiệm
được thời gian, tiền của trong công tác phục hồi rừng thì cần có sự hiểu biết
đầy đủ về bản chất và qui luật phát triển của hệ sinh thái rừng, trước hết là
quá trình tái sinh tự nhiên. Đồng thời cũng phải căn cứ vào điều kiện kinh tế
xã hội ở mỗi nước, mỗi vùng.
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt
đới. Tuy nhiên, rừng nhiệt đới là một đối tượng hết sức đa dạng và phức tạp,
trong khi các nghiên cứu thường mới chỉ tập trung tại một điểm, một vùng
hay một khu vực nhất định nào đó. Vì vậy, tái sinh tự nhiên vẫn đang là nội
dung cần được tiếp tục nghiên cứu.
Xuất phát từ những vấn đề trên, được sự nhất trí của BGH nhà
trường,BCN khoa Lâm Nghiệpvà cơ sở thực tập tại xã Nông Hạ và Cao Kỳ,
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn,dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo
Nguyễn Thị Thu Hoàn,tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm
tái sinh tự nhiên dưới thảm thực vật trạng thái rừng IIB, tại xã Cao Kỳ và
Nông Hạ, huyện Chợ mới , tỉnh Bắc Kạn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đánh giá thực trạng khả năng tái sinh tự nhiên ở trạng thái thảm
thực vật IIB. tại huyện Chợ Mới làm cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp xúc
tiến quá trình phục hồi nhằm nâng cao chất lượng rừng và các quá trình diễn
ra trong hệ sinh thái rừng tự nhiên.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên làm cơ sở khoa học
cho việc đề xuất giải pháp lâm sinh thúc đẩy nhanh quá trình diễn thế và nâng

cao chất lượng của rừng phục hồi.
- Nghiên cứu các qui luật tái sinh tự nhiên và bổ sung thêm tư liệu về
tái sinh rừng.
2
3
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Góp phần củng cố phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên,
giúp sinh viên vận dụng những kiến thức đã học trong trường vào công tác
nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất lâm nghiệp một cách có hiệu
quả.sau khi thực hiện đề tài này,sinh viên có khả năng lập kế hoạch nghiên
cứu hợp lí,tổng hợp,phân tích và đánh giá kết quả,cũng như viết một báo cáo
nghiên cứu,một phần việc quan trọng cho công việc trong tương lai.
1.4.2.Ý nghĩa thực tiễn
Phục hồi rừng để bảo vệ nguồn gen duy trì tính đa dạng sinh học và cân
bằng sinh thái trong vùng là hết sức cần thiết, do đó kết quả của nghiên cứu
này sẽ góp phần làm sáng tỏ đặc điểm tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên
thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu.Như vậy vừa cải tạo được môi
trường,tăng mức độ đa dạng sinh học cho rừng,vừa giúp người dân có được
những khu rừng xanh tốt.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài thực hiện nghiên cứu tại 2 xã Nông Hạ và Cao Kỳ huyện Chợ
Mới, đây là 2 xã có diện tích rừng và đất rừng khá lớn trong huyện.
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên trên thế giới
Như chúng ta đã biết tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính
đặc thù của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ

cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng như: Dưới tán
rừng, lỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai
trò lịch sử của lớp cây tái sinh là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh
rừng được hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của
rừng chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây con và tầng
cây gỗ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930 ; Richards,
1952 ; Baur G.N, 1964 ; Rollet, 1969). Do tính phức tạp về tổ thành loài cây,
trong đó chỉ có một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo
sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng tự nhiên vô cùng phức tạp và còn ít
được quan tâm nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên
của rừng mưa chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều
kiện rừng ít nhiều đã bị biến đổi Van Steenis. J (1956), [21] đã nghiên cứu hai
đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục
của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưu sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu qủa
các cách sử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở
các kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều
phương thức chặt tái sinh. Công trình của Walton, A. B. Bernard, R. C -
Wyatt Smith (1950) [22] với phương thức rừng đồng tuổi ở Mã Lai ;
Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới tán
rừng ở Nijêria và Gana. Nội dung hiệu quả của từng phương thức đối với
tái sinh đã được G. N. Baur (1976) [2] tổng kết trong tác phẩm cơ sở sinh
thái học trong kinh doanh rừng.
4
5
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới

đáng chú ý là công trình nghiên cứu của P.W. Richards (1952), Bernard
Rollet (1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự
nhiên đã nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1 m x 1 m; 1 m x 1,5 m)
cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Ở
Châu Phi trên cơ sở các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard (1955) xác
định số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ
sung bằng trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh
tự nhiên rừng nhiệt đới Châu á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot
(1965) lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây
tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo
vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn Duy
Chuyên, 1995) [4].
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
(thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi,
thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng,
cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Tác
giả G. N. Baur (1976) [2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát
triển của cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm ảnh
hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh
trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém
phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng
nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn nhưng số lượng loài
cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây
có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở
các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây
bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của
tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ.
Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ
và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh

không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì
5
6
thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân
tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) (dẫn
theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [13].
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và
Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hoá, số lượng loài thực vật tăng dần từ ban
đầu đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc
vào tỷ lệ các loài nguyên thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá
trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh
tác của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy
từ 1 - 20 năm ở vùng Tây Bắc ấn Độ, Ramakrishnan (1981-1992) đã cho biết
chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của
quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự
(1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại
Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy
bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có
60 họ, 134 chi, 167 loài. (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng
trên thế giới cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy
luật tái sinh tự nhiên ở một số nơi. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy
luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý
tài nguyên rừng một cách bền vững.
2.2. Những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở Việt Nam
Vấn đề tái sinh đã được Viện điều tra quy hoạch rừng tiến hành nghiên
cứu từ những năm 60 (thế kỷ XX) tại địa bàn một số tỉnh Quảng Ninh, Yên
Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh (Hương Sơn, Hương Khê), Quảng Bình các kết quả

nghiên cứu bước đầu đã được Nguyễn Vạn Thường (1991) [15] tổng kết và
kết luận về tình hình tái sinh tự nhiên của một số khu rừng miền Bắc Việt
Nam, hiện tượng tái sinh dưới tán rừng của các loài cây gỗ đã tiếp diễn liên
tục, không mang tính chất chu kỳ. Sự phân bố số cây tái sinh không đồng đều,
số cây mạ có h < 20 cm chiếm ưu thế rõ rệt so với lớp cây ở các cấp kích
6
7
thước khác. Những loài cây gỗ mềm, ưa sáng, mọc nhanh có khuynh hướng
phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong lớp cây tái sinh. Những loài cây gỗ
cứng sinh trưởng chậm chiếm tỷ lệ thấp và phân bố tản mạn, thậm chí còn
vắng bóng trong thế hệ sau trong rừng tự nhiên.
Trần Ngũ Phương (1970) [8] khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới
mưa mùa lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “Rừng tự nhiên dưới tác động
của con người khai thác hoặc làm nương rẫy lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết
quả cuối cùng là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm
thực vật hoang dã tự nó phát triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi,
trảng cỏ sẽ chuyển dần lên những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình
tái sinh tự nhiên và cuối cùng rừng khí hậu sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần
giống rừng khí hậu ban đầu”.
Theo GS. Nguyễn Văn Trương (1983) [19] đã nghiên cứu mối quan
hệ giữa lớp cây tái sinh với tầng cây gỗ và quy luật đào thải tự nhiên dưới
tàn rừng.
Theo tác giả Phùng Ngọc Lan (1984) [6] khi bàn về vấn đề đảm bảo tái
sinh trong khai thác rừng đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng
ở lâm trường Hữu Lũng, Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm, bọ xít là
nhân tố gây ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nảy mầm.
Trong một công trình nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng trữ lượng và
tái sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài ở ba vùng kinh tế (Sông
Hiếu, Yên Bái và Lạng Sơn). Nguyễn Duy Chuyên (1988) [3] đã khái quát
đặc điểm phân bố của nhiều loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng

các hàm lý thuyết. Từ đó làm cơ sở định hướng các giải pháp lâm sinh cho
các vùng sản xuất nguyên liệu.
Theo TS. Vũ Tiến Hinh (1991) [5] khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự
nhiên tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận thấy
rằng, hệ số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có
liên quan chặt chẽ với nhau. Các loài có hệ số tổ thành ở tầng cây cao càng
lớn thì hệ số tổ thành ở tầng tái sinh cũng vậy.
Tác giả Nguyễn Ngọc Lung (1993) [7] và cộng sự khi nghiên cứu về
khoanh nuôi và phục hồi rừng đã cho rằng, nghiên cứu quá trình tái sinh phải
7
8
nắm chắc các yếu tố môi trường và các quy luật tự nhiên tác động lên thảm
thực vật. Qua đó xác định các điều kiện cần và đủ để tác động của con người
đi đúng hướng, quá trình này được gọi là xúc tiến tái sinh tự nhiên.
Để đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền
Bắc, Trần Xuân Thiệp (1995) [14] nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về
lượng, chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả kết
luận: rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện có,
lớn nhất so với các vùng khác. Khả năng phục hồi hình thành các rừng vườn,
trang trại rừng đang phát triển ở các tỉnh trong vùng. Rừng Tây Bắc phần lớn
diện tích rừng phục hồi sau nương rẫy, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu và
nhóm cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ
Khi nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh tự nhiên rừng lá rộng
thường xanh hỗn loại vùng Quỳ Châu Nghệ An. Nguyễn Duy Chuyên (1995)
[4] đã nghiên cứu phân bố cây tái sinh theo chiều cao, phân bố tổ thành cây
tái sinh, số lượng cây tái sinh. Trên cơ sở phân tích toán học về phân bố cây
tái sinh cho toàn lâm phần, tác giả cho rằng loại rừng trung bình (IIIA
2
) cây

tái sinh tự nhiên có dạng phân bố Poisson, ở các loại rừng khác cây tái sinh có
phân bố cụm.
Theo tác giả Trần Xuân Thiệp (1995) [14] nghiên cứu về tái sinh tự
nhiên trong rừng chặt chọn ở Lâm trường Hương Sơn - Hà Tĩnh đã định
lượng các cây tái sinh tự nhiên trong các trạng thái rừng khác nhau. Theo tác
giả, rừng thứ sinh có số lượng cây tái sinh lớn hơn rừng nguyên sinh. Tác giả
còn thống kê các cây tái sinh theo 6 cấp chiều cao, cây tái sinh triển vọng có
chiều cao h > 1,5 m.
Khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên sau khai thác chọn tại Lâm trường
Hương Sơn - Hà Tĩnh, Trần Cẩm Tú (1998) [12] cho rằng áp dụng phương
thức xúc tiến tái sinh tự nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đáp ứng
mục tiêu sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên, các biện pháp kỹ
8
9
thuật tác động phải có tác dụng thúc đẩy cây tái sinh mục đích sinh trưởng và
phát triển tốt, khai thác rừng phải đồng nghĩa với tái sinh rừng và phải chú
trọng điều tiết tầng tán của rừng; đảm bảo cây tái sinh phân bố đều trên toàn
bộ diện tích rừng; trước khi khai thác, cần thực hiện các biện pháp mở tán
rừng, chặt gieo giống, phát dọn dây leo cây bụi và sau khai thác phải tiến
hành dọn vệ sinh rừng.
Theo tác giả Thái Văn Trừng (2000) [18] khi nghiên cứu về thảm thực
vật rừng Việt Nam, đã kết luận: ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng. Nếu các điều
kiện khác của môi trường như: đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa
thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và cũng
không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và theo thời gian mà
diễn thế theo những phương thức tái sinh có qui luật nhân quả giữa sinh vật
và môi trường.
Trần Ngũ Phương (2000) [8] khi nghiên cứu các quy luật phát triển
rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh

của rừng tự nhiên như sau: “Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng
trên già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu
chỉ có một tầng thì trong khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và
sẽ thay thế nó sau khi nó tiêu vong hoặc cũng có thể một thảm thực vật trung
gian xuất hiện thay thế, nhưng về sau dưới lớp thảm thực vật trung gian này
sẽ xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế
thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi”.
Tác giả Lê Đồng Tấn (1995, 1999, 2003) [9, 10, 11] và cộng sự đã
nghiên cứu quá trình phục hồi tự nhiên một số quần xã thực vật sau nương rẫy
tại Sơn La. Tác giả đã kết luận mật độ cây tái sinh giảm dần từ chân đồi lên
đỉnh đồi, tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí địa hình và ba cấp độ dốc là khác
nhau, sự khác nhau chính là tổ thành các loài trong tổ hợp đó.
Tác giả Phạm Ngọc Thường (2001, 2003) [16, 17] nghiên cứu quá trình
tái sinh tự nhiên phục hồi sau nương rẫy tại hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn
9
10
đã cho thấy khả năng tái sinh của thảm thực vật trên đất rừng còn nguyên
trạng có số lượng loài cây gỗ tái sinh nhiều nhất, chỉ số đa dạng loài của thảm
cây gỗ là khá cao.
2.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Vị trí địa lý
Nông Hạ và Cao Kỳ là hai xã của huyện Chợ Mới, có hình dạng kéo
dài theo chiều đông tây, với vị trí:
Phía bắc giáp xã Thanh Mai, Hòa Mục, Tân Sơn.
Phía đông giáp xã Yên Cư,Yên Hân.
Phía nam giáp xã Bình Văn, Như Cố, Nông Thịnh, Thanh Bình.
Phía tây giáp xã Thanh Vận và xã Tân Thịnh của huyện Định Hóa, tỉnh
Thái Nguyên.
Là khu vực có một vị trí tương đối thuận lợi về giao thông vơí trục

đường quốc lộ 3 chạy trên địa bàn song song với sông Cầu, nối từ Thị trấn
Chợ Mới qua xã Nông Hạ, Cao Kỳ đến Thị xã Bắc Kạn, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu hang hóa, và đi lại của người dân.
2.3.1.2. Địa hình
Địa hình xã không bằng phẳng phần lớn là núi cao, xen kẽ những cánh
đồng nhỏ hẹp được tạo thành do phù sa của sông, suối đặc biệt có con sông
Cầu chảy qua, nên việc phát triển kinh tế nông nghiệp rất thuận lợi, với độ
dốc tương đối lớn, hiểm trở, thảm thực vật chủ yến là rừng tự nhiên tái sinh,
giao thông đi lại khó khăn, chủ yếu là đường mòn.
2.3.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng
Đất feralit có màu đỏ nâu, đỏ vàng có địa tầng sâu 40cm chứa nhiều
Fe, Al có phản ứng chua. Với loại đất này thích hợp cho việc trồng cây lâm
nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp.
Hầu hết các loại đất trên địa bàn xã có độ dầy từ trung bình đến khá,
thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng. Các chất dinh dưỡng như đạm, lân,
Kali, Can xi, Magie trong đất có hàm lượng thấp không đủ cung cấp cho quá
trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Do đa phần đất đai nằm trên độ
10
11
dốc lớn, độ che phủ của thảm thực vật thấp nên cần chú trọng các biện pháp
bảo vệ đất, bảo vệ rừng, hạn chế rửa trôi, xói mòn làm nghèo dinh dưỡng đất.
Độ dốc trung bình 25 độ. Nhìn chung địa hình của xã phức tạp gây
nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế xã hội.
2.3.1.4. Khí hậu thuỷ văn
* Khí hậu: Theo trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Bắc Kạn, xã
Cao Kỳ và xã Nông Hạ mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa
miền núi vùng cao phía Bắc, được chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng
5 tới tháng 10 thời tiết nắng nóng, mưa nhiều. Mùa khô từ tháng 11 tới tháng
4 năm sau thời tiết hanh khô, lạnh và ít mưa, nhiệt độ trung bình trong năm là
22

0
C. Nhiệt độ cao nhất từ 35 đến 37
0
C. Nóng nhất vào tháng 6 và tháng 7.
Tổng lượng mưa bình quân là 1248 mm/năm, mưa tập trung vào các tháng
6,7,8 với lượng mưa chiếm 78% tổng lượng mưa cả năm. Độ ẩm trung bình là
80 - 85% gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông lâm nghiệp.
Bảng 2.1: Tình hình khí hậu thủy văn năm 2010
Tháng Ẩm độ (độ) Lượng mưa (mm)
1 82,75 1386,30
2 79,30 5,50
3 85,30 14,30
4 81,00 18,60
5 85,00 161,60
6 86,00 370,50
7 88,30 218,30
8 83,70 141,70
9 88,70 137,50
10 83,70 12,10
11 74,70 1,60
12 77,30 130,00
(Nguồn: Trạm khí tượng huyện Chợ Mới - Bắc Kạn)
11
12
* Thuỷ văn
Cũng như chế độ nhiệt, mưa ở đây chia thành 2 mùa rõ rệt mùa mưa
trùng với mùa nắng trong năm kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8 với 78% - 89%
lượng mưa cả năm. Thời gian còn lại là mùa ít mưa. Trong mùa mưa, có
những tháng có thể tới 15 - 20 ngày có mưa. Mùa ít mưa với số ngày mưa
trong tháng là dưới 10 ngày và lượng mưa không đáng kể, có khi gần như cả

tháng không có mưa hoặc chỉ là mưa phùn, mưa mù.
Mùa ít mưa (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) có thể chia thành 2 thời
kỳ: Đầu mùa (thường từ tháng 4 đến tháng 1 năm sau) do ảnh hưởng các khối
khí lục địa lạnh, khô nên rất ít mưa, có khi cả tháng hanh khô, với thời tiết
trong xanh, ngày nắng úa, đêm lạnh, gây hạn hán và hay có sương muối. Thời
kỳ cuối mùa khô, do độ ẩm không khí cao, mây mù, mưa phùn, gây cảm giác
rất lạnh, ẩm thấp.
Địa bàn xã xen kẽ giữa các khu dân cư là đồi, núi, khe, suối và hệ
thống sông Cầu chảy dọc qua xã nên cũng gây ảnh hưởng đến lượng nước
tưới tiêu cho sản xuất vào mùa khô. Còn vào mùa mưa với độ dốc tương đối
cao, dòng chảy lớn gây lũ lụt ngập úng các cây hoa màu và đây cũng là vấn
đề bức xúc mà chính quyền và nhân dân trong xã đang quan tâm. Ngoài ra
sông Cầu còn là nơi nông dân khai thác cát, sỏi làm nguyên vật liệu xây
dựng, góp phần làm tăng thu nhập và giải quyết việc làm lúc nông nhàn.
2.3.3. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
* Kinh tế nông nghiệp

Kinh tế nông nghiệp xã Cao kỳ
- Trồng trọt
Xã Cao Kỳ là một trong những xã miền núi, chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp với diện tương đối lớn và năng suất khá cao.
Diện tích, năng suất, sản lượng được thống kê ở bảng 2.2.
12
13
Bảng 2.2: Diện tích, sản lượng một số cây trồng chính tại xã Cao Kỳ
Năm
Cây trồng
2009 2010 2011 Đơn vị
1.Lúa nước
Diện tích 172.08 176 161.4 ha

NSBQ 54 52.5 52 tạ/ ha
Sản lượng 928.8 924 839.28 Tấn
2.Cây ngô
Diện tích 229.83 250 192 ha
NSBQ 32 32 36 tạ/ ha
Sản lượng 736 800 691.2 Tấn
3. Lúa nương
Diện tích 3 6 16 ha
NSBQ 20 15 20 tạ/ ha
Sản lượng 6 9 32 Tấn
4. Cây mía bầu
Diện tích 25.89 26.7 33 ha
5.Cây chuối tây
Diện tích 33 41.2 43.1 ha
6. Khoai tàu
Diện tích 12 12 10 ha
7.Đậu đỗ
Diện tích 8 8 8 ha
(Nguồn: Báo cáo của UBND xã Cao Kỳ)
Qua bảng ta thấy :Năm 2011, tổng sản lượng lương thực(cây có hạt) đạt
1506.83 tấn giảm so với năm 2010 là 223.17 tấn do hạn hán dẫn đến năng
suất thấp và diện tích trồng lúa ngô giảm. Bình quân lương thực người/ năm
là: 505kg/ người/ năm.
Ngô và lúa là cây trồng chính. Ngoài ra, còn có các cây trồng khác như:
Cây mía bầu, cây chuối tây, cây khoai tàu, đậu đỗ các loại.
- Chăn nuôi
Bảng 2.3: Số lượng vật nuôi của xã Cao Kỳ
Năm 2009 2010 2011 Đơn vị
13
14

Vật nuôi
Trâu 472 658 626 Con
Bò 636 644 602 Con
Lợn 2902 2895 3320 Con
Dê 85 326 145 Con
Gia cầm 16842 16300 18623 Con
(Nguồn: Báo cáo của UBND xã Cao Kỳ)
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Số lượng gia cầm được nuôi nhiều nhất,
dê được nuôi ít nhất. Hình thức chăn thả chủ yếu đối với gia cầm, lợn được
nuôi ngay trong chuồng. Riêng đối với trâu, bò, dê thì được các hộ thả rông
trên rừng. Đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng của cây tái sinh trong rừng tự nhiên.
- Lâm nghiệp:Hoạt động sản xuất lâm ngiệp tập trung vào trồng rừng
và khai thác lâm sản với quy mô nhỏ và lẻ. Từ năm 2000 đến nay, xã đã tiếp
nhận một số dự án trồng rừng, chủ yếu là trồng cây nguyên liệu giấy như là
mỡ, keo. Ngoài ra còn có một số loại cây khác (cây Gió trầm, măng Bát độ,
cây chè và cây ăn quả). Những năn gần đây được Nhà nước giao đất, giao
rừng tới từng hộ gia đình, nhân dân đã tích cực trồng mới, khoanh nuôi phục
hồi rừng sản xuất.
* Kinh tế nông nghiệp xã Nông Hạ
- Trồng trọt: Sản xuất nông nghiệp của xã chủ yếu là cây lúa là cây
trồng chính, hàng năm diện tích gieo trồng lúa đều đạt chỉ tiêu kế hoạch đề
ra. Năng suất các vụ lúa trong năm bình quân năm 2003 đạt 43,5 tạ/ha, năm
2004 năng suất của vụ lúa trong năm đạt 44 tạ/ha, năm 2005 năng suất vụ
lúa bình quân đạt 44 tạ/ha.
Ngoài cây lúa của xã ra cây ngô, cây chất bột và cây công nghiệp ngắn
ngày cũng là thế mạnh của xã, cụ thể theo thống kê năm 2005 của xã cho
thấy cây ngô vụ mùa và cây ngô vụ xuân năng suất bình quân từ 30 - 32
ta/ha. Sản lượng đạt từ 165 - 333,2 tấn. Cây chất bột như: Cây sắn, cây khoai
lang, cây khoai tàu, năng suất bình quân đạt 40 - 100 tạ/ha. Sản lượng đạt

tương đối cao trong đó cây sắn đạt 200 tấn đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch. Cây
công nghiệp ngắn ngày như: Cây đậu tương, cây mía, cây lạc, cây đậu các
14
15
loại với năng suất từ 8 - 50 tạ/ha. Trong đó cây mía là đạt 50 tạ/ha đạt 100%
kế hoạch. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2005 đạt 1.668,62 tấn.
Bảng 2.4: Chỉ tiêu sản lượng của ngành trồng trọt xã Nông Hạ
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
1. Lúa vụ chiêm
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Ha
Tạ/ha
Tấn
103
43,01
443
74
44,59
330
101,8
45
458,1
2. Lúa vụ mùa
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Ha
Tạ/ha

Tấn
134
44,03
590
148
42,97
636
147,75
43
635,32
3. Cây ngô
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Ha
Tạ/ha
Tấn
165
24,85
410
184
25,6
471
158,5
31,4
498,2
4. Cây sắn
Diện tích
Năng suất
Sản lượng

Ha
Tạ/ha
Tấn
62
97,9
607
25
94
235
20
100
200
5. Cây khoai lang
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Ha
Tạ/ha
Tấn
1
50
5
5
42
21
12
40
48
(Nguồn: Báo cáo của UBND xã Nông Hạ)
- Chăn nuôi: Diện tích chăn thả đan xen với đất rừng sản xuất, do

chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, máy móc phục vụ cho công tác làm
đất. Nên việc chăn nuôi sản xuất chuyển dịch sang sản xuất hàng hóa. Tổng
số trâu năm 2005 là 370 con, đàn bò có 1300 con, đàn lợn có 1479 con, số gia
cầm là 9876 con. Trong những năm tới xã sẽ phát triển rộng đàn trâu, bò, lợn,
gà và gia cầm.
- Lâm nghiệp; Hoạt động sản xuất lâm ngiệp tập trung vào trồng rừng
và khai thác lâm sản với quy mô nhỏ và lẻ. Từ năm 2000 đến nay, xã đã tiếp
15
16
nhận một số dự án trồng rừng, chủ yếu là trồng cây nguyên liệu giấy như là
mỡ, keo. Ngoài ra còn có một số loại cây khác (cây Gió trầm, măng Bát độ,
cây chè và cây ăn quả). Những năn gần đây được Nhà nước giao đất, giao
rừng tới từng hộ gia đình, nhân dân đã tích cực trồng mới, khoanh nuôi phục
hồi rừng sản xuất.
- Tài nguyên rừng: Khu vực nghiên cứu có tổng diện tích đất rừng là
10552,4 ha, trong đó 8359,38 ha đất có rừng, 5571,48 ha rừng tự nhiên,
1084,9 ha rừng trồng và 2193,02 ha diện tích đất chưa có rừng quy hoạch cho
lâm nghiệp. Hiện nay tài nguyên rừng đã bị khai thác cạn kiệt, động vật quý
hiếm gần như không còn. Với diện tích rừng hiện có, kết hợp với kế hoạch
trồng rừng mới, rừng đang dần dần hồi phục và phát triển, do đó lâm nghiệp
là ngành kinh tế quan trọng của xã trong những năm tới.
- Tài nguyên động vật, tài nguyên thực vật
Do sự khai thac rừng quá mức, trái phép, tài nguyên động vật rừng,
thực vật rừng ở cả hai xã đã suy giảm mạnh, gần như là không còn động vật,
thực vật quý hiếm, các loài động, thực vật khác hiện nay cũng đang bị săn
bắnvà khai thác rất nhiều, ngoài ra việc khai thác rừng và chuyển đổi mục
đích sử dụng đất cũng làm cho các loài động vật mất đi nơi sống, nguồn thức
ăn do đó kéo theo sự suy giảm về số lượng các loài, cá thể trong loài, dẫn đến
số lượng còn rất ít, suy giảm tính đa dạng sinh hoc. Rừng nghèo cả về số
lượng và chất lượng.

2.3.4. Thực trạng cơ sở hạ tầng
- Giao thông: Trên địa bàn hai xã có tuyến quốc lộ 3 chạy qua, đây là
tuyến đường huyết mạch nối Cao Kỳ, Nông Hạ với thị Trấn Chợ Mới và thị
xã Bắc Kạn. Các tuyến liên thông liên xã đã được nhà nước đầu tư xây dựng,
dịch vụ thượng mại được thuận lợi hơn. Các tuyến đường giao thông liên thôn
chưa được xây dựng nên việc đi lại còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là vào
mùa mưa. Chủ trương của Đảng ủy, UBND xã trong giai đoạn tới sẽ mở rộng
và nâng cấp toàn bộ các tuyến đường liên thôn (bản) trên địa bàn.
16
17
- Thủy lợi: Nhìn chung hệ thống thủy lợi của xã ngày càng hoàn thiện,
tại Nông Hạ hệ thống kênh mương nội đồng đã được bê tông hóa , tuyến
mương thôn Nà Quang dài 270m, tuyến mương thôn Khe Thuổng dài 217m,
mương Nà Cù - Nà Cắn dài 2400m , mương Nà Cắn - Nà Bia - Tổng Vạc dài
1200m , tuyến mương Bản Tết dài 1800m hệ thống mương tập trung phía
đông nguồn nước dồi dào nên thuận lợi cung cấp nước cho đồng ruộng. Tại
xã Cao Kỳ đã xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo lực phục vụ sản
xuất cho trên 85% diện tích đất lúa nước, nhưng một số nơi của xã vẫn thiếu
nước vào mùa sản xuất chậm thời gian sản xuất nông nghiêp vì vậy xã cần
phải chú trong nhiều hơn vấn đề thủy lợi.
- Y tế: Trên địa bàn hai xã có trạm y tế kiên cố đúng tiêu chuẩn đảm
bảo chăm sóc sức khỏe cho người dân. Các hoạt động Y tế chăm sóc sức khỏe
cộng đồng được duy trì thường xuyên, thực hiện tốt các chương trình quốc gia
như: Các hoạt động khám chữa bệnh được duy trì hàng năm. Tiêm chủng 6
loại vacxin cho trẻ dưới 1 tuổi, tiêm phòng viêm não Nhật Bản, Khám chữa
bệnh định kỳ và cấp phát thuốc miễn phí cho người nghèo. Chính vì vậy mà
đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, sức khỏe được đảm bảo
giúp tham gia tốt công tác sản xuất.
- Văn hóa: Phong trào đoàn kết toàn dân xây dựng đời sông văn hóa ở
khu dân cư, gia đình văn hóa, làng văn hóa, đơn vị văn hóa, việc cưới hỏi ma

chay có nhiều tiến bộ. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được quan tâm, thực hiện
chế độ chính sách đầy đủ đúng quy định. Làm tốt công tác tuyên truyền trên
hệ thống loa truyền thanh, vận động nhân dân chấp hành nguyên đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phong trào xây dựng “ Nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa” ở xã Nông Hạ cho đến nay 2 đơn vị đạt “ Làng văn
hóa cấp tỉnh”, 2 đơn vị đạt “làng văn hóa cấp huyện”, có 6 đơn vị đạt “ Khu
dân cư tiên tiến”. Năm 2011, Cao Kỳ có tổng số gia đinh văn hóa đạt 483 hộ,
làng văn hóa đạt 3 làng, đơn vị văn hóa đạt 4 đơn vị.
17
18
- Thương mại, dịch vụ: Trong địa bàn hai xã chủ yếu kinh doanh hàng
tạp hóa, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, thuốc thú y, sửa chữa xe
máy….với quy mô nhỏ lẻ. Người dân vẫn phải đi mua sắm xa. Tuy nhiên
ngành dịch vụ cũng đóp góp một phần không nhỏ vào phát triển nền kinh tế
của xã.
- Thành phần dân tộc, dân số, lao động
Thành phần dân tộc, dân số và lao động của hai xã thể hiện trong bảng 2.5:
Bảng 2.5: Thành phần dân tộc dân số và lao động
xã Cao Kỳ và xã Nông Hạ
Hạng mục Cao Kỳ Nông Hạ
Dân số (Người)
Lao động (Người)
- 2982(Tính đến năm 2011)
- 1900 người, chiếm 63,69 %
dân số, trong đó lao động
ngành nông lâm nghiệp
khoảng 1715 người, chiếm
90,26 % tổng số lao động.
- 3676 (Tính đến năm 2010)
- 2289 lao động, chiếm 62,3%

dân số, trong đó lao động
nông, lâm nghiệp chiếm 89%
tổng số lao đông toàn xã.
Số hộ (hộ) 710 853
Thành phần
dân tộc
Cao Kỳ là nơi tập trung sinh
sống của nhiều đồng bào dân
tộc: Tày, Kinh, Dao, Hoa.
Gồm 5 dân tộc anh em cùng
chung sống như: Dân tộc Tày,
Nùng, Dao, Sán Chay, Kinh
(Nguồn: Báo cáo của UBND 2 xã)
Qua bảng trên ta thấy: Dân số của hai xã phân bố không đồng đều, tập
trung đông dọc trục đường quốc lộ 3, số còn lại phân bố rải rác các làng bản
trong xã. Hiện nay, việc làm cho người lao động đang là vấn đề được chính
quyền cũng như nhân dân rất quan tâm, đặc biệt là lao động nông nhàn lúc kết
thúc mùa vụ, để giải quyết việc làm cho người lao động cần phải kết hợp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động
phổ thông. Gắn mục tiêu giải quyết việc làm với chiến lược phát triển kinh tế,
ổn định đời sống nhân dân, an toàn xã hội.
18
19
-Thực trạng phát triển các khu dân cư: Là hai xã có diện tích đất tự
nhiên tương đối rộng, địa hình đồi núi, các điểm dân cư phân bố rải rác,
có quy mô nhỏ gần nguồn nước,ven đường giao thông. Cơ sở hạ tầng
trong khu dân cư nông thôn còn nhiều bất cập, giao thông đi lại còn nhiều
khó khăn. Các công trình điện, nước, y tế, giao dục, văn hóa, thể thao, vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dân. Môi trường
sinh thái trong các khu dân cư bị ảnh hưởng do tập quán sinh hoạt, chăn

thả gia súc, gia cầm.
19
20
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là trạng thái thảm thực vật IIB tái sinh phục hồi
tự nhiên.
- Phạm vi nghiên cứu đề tài nghiên cứu một số nội dung:Tổ thành,mật
độ, tầng cây cao và một số đặc điểm tái sinh của các loài cây gỗ dưới tán rừng
thông qua các chỉ tiêu: Tổ thành,mật độ,chất lượng nguồn gốc,tỷ lệ cây triển
vọng,phân bố cây tái sinh theo chiều cao. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân
tố sinh thái(độ tàn che của tầng cây cao,độ che phủ của cây bụi,thảm tươi,tác
động của con người) đên tái sinh tự nhiên của các trạng thái rừng phục hồi
Đề tài được tiến hành từ ngày.02 tháng. 01 năm 2012 đến ngày 09
tháng 06 năm 2012.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ của trạng thái rừng IIB
- Cấu trúc tổ thành sinh thái, mật độ tầng cây gỗ.
3.2.2. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc cây tái sinh
- Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh.
- Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh và tỷ lệ cây tái sinh triển vọng.
- Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học.
3.2.3. Nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh
- Phân bố số cây theo cấp chiều cao.
- Phân bố loài cây theo cấp chiều cao.
3.2.4. Ảnh hưởng của một số nhân tố đến tái sinh tự nhiên
- Ảnh hưởng của yếu tố đất đến tái sinh rừng.
- Ảnh hưởng của yếu tố địa hình đến tái sinh rừng.
20

21
3.2.5. Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh cho trạng thái thảm thực
vật IIB tại khu vực nghiên cứu
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp luận
Vận dụng quan điểm sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật
rừng nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1978) [20]: Thảm thực vật rừng là tấm
gương phản chiếu một cách trung thành nhất mà lại tổng hợp được các điều
kiện của hoàn cảnh tự nhiên đã thông qua sinh vật để hình thành những quần
thể thực vật. Thảm thực vật tái sinh tự nhiên phản ánh ảnh hưởng tổng hợp
của các nhân tố sinh thái đến quá trình phục hồi rừng thứ sinh.
Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn đại diện ở hai
trạng thái thảm thực vật rừng đã chọn, số liệu đảm bảo tính đại diện, khách
quan và chính xác. Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích số liệu truyền
thống, các mô hình đã được kiểm nghiệm, đảm bảo tính khoa học.
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.3.2.1. Tính kế thừa
Đề tài có kế thừa một số tư liệu:
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa
hình, tài nguyên rừng.
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội.
- Những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài như: Kết quả điều
tra hệ thực vật và thảm thực vật rừng tại khu vực nghiên cứu.
3.3.2.2. Thu thập số liệu
Để mô tả một quần xã thực vật, số liệu cần phải được thu thập trên một
số ô gọi là ô tiêu chuẩn (OTC) có tổng diện tích đủ lớn. Việc áp dụng phương
pháp điều tra theo OTC đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới cũng như
trong nước
* Đối với ô tiêu chuẩn (OTC) tạm thời
- Đối với rừng núi đá: diện tích OTC: 500 m

2
(25 m x 20 m), hình dạng
OTC phụ thuộc vào địa hình.
21
22
- Đối với đất có rừng tự nhiên trên núi đất: diện tích OTC: 2500 m
2
(50
m x 50 m), hình dạng OTC phụ thuộc vào địa hình.
- Phân bố: OTC đặt ngẫu nhiên, đại diện cho từng nhóm thực vật khác
nhau, đại diện cho địa hình, độ dốc, điều kiện thổ nhưỡng khác nhau.
- Thu thập số liệu:

Trong mỗi trạng thái TTV, lập 3 ô tiêu chuẩn
theo phương pháp điển hình. Trong mỗi ô, thống kê các chỉ tiêu tầng cây
gỗ như sau:
+ Đo đường kính với những cây gỗ có D1.3 < 6cm bằng thước kẹp kính
hoặc thước đo chu vi sau đó quy đổi ra đường kính.
+ Đo chiều cao Hvn và Hdc bằng thước sào đo cao chia vạch đến 0,1m.
+ Đo đường kính tán Dt theo hướng ĐT - NB sau đó lấy giá trị trung bình.
* Đối với ô thứ cấp: Trong OTC, lập 5 ô thứ cấp 25m
2
(5 x 5m) trong
đó 4 ô ở 4 góc và 1 ở giữa. Điều tra thống kê toàn bộ những cây tái sinh có
D1.3< 6cm vào phiếu điều tra theo các chỉ tiêu:
- Tên loài cây tái sinh, loài nào chưa rõ thì thu thập tiêu bản để giám định.
- Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào.
- Chất lượng cây tái sinh:
+ Cây tốt: là cây có thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển
tốt, không sâu bệnh.

+ Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển
kém, sâu bệnh, còn lại là những cây có chất lượng trung bình.
- Xác định nguồn gốc cây tái sinh (tái sinh chồi, hạt).
- Điều tra khoảng cách giữa các cây tái sinh: Trên ÔTC thứ cấp, chọn
cây tái sinh bất kỳ, đo khoảng cách từ cây tái sinh đã chọn đến cây tái sinh
gần nhất bằng thước dây với độ chính xác đến cm. Mỗi trạng thái phục hồi đo
30 khoảng cách, kết quả ghi vào phiếu điều tra khoảng cách cây tái sinh.
* Đối với ô dạng bản: Trong một ô thứ cấp, lập 1 ô dạng bản 1m
2
(1
m x 1 m) ở chính giữa để điều tra đất và vật rơi rụng và điều tra cây bụi, dây
leo và thảm tươi. Thành phần loài lớp cây bụi, dây leo và thảm tươi được xác
định tên.
22
23
* Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái sinh tự nhiên
- Ảnh hưởng của địa hình đến tái sinh tự nhiên: Các yếu tố địa hình
(chân, sườn, đỉnh) được xác định thông qua việc lập ô sơ cấp.
+ Xác định hướng phơi (Đ, T, N, B) bằng địa bàn cầm tay.
+ Đo cấp độ dốc (3 cấp độ dốc Cấp I: 10 - 15
0
; Cấp II: 15 - 20
0
; Cấp III
> 20
0
) trong các ô tiêu chuẩn sơ cấp bằng địa bàn cầm tay.
Qua đó thấy được sự ảnh hưởng của nó đến mật độ, số loài, tỷ lệ cây
triển vọng, chất lượng cây tái sinh ở mỗi địa phương.
* Nghiên cứu phẫu diện đất và thảm mục

- Số lượng : 1 phẫu diện cho 1 OTC (Cứ một OTC được lập ta tiến
hành đào 1 phẫu diện)
- Chọn địa điểm đào phẫu diện : Đại diện cho OTC, nằm trong ô thứ
cấp, đánh dấu lên bản đồ địa hình.
- Quy định đào phẫu diện : Quy cách: dài 120-150cm, rộng 70-90cm,
sâu: 120-150cm. (Nếu tầng đất mỏng, gặp tầng cứng rắn độ sâu cần đạt 80-
100cm). Khi đào phẫu diện cần lưu ý:
+ Mặt phẫu diện để mô tả cần hướng về nơi ánh sáng mặt trời
+ Phía mặt mô tả sau khi đào đúng quy cách cần được làm phẳng, xén
cho thẳng góc (Phần mô tả phẫu diện theo phụ lục 01).
+ Khi đào phẫu diện lớp đất mặt để riêng sang hai bên, không dẫm đạp
mặt phía trên làm mất trạng thái tự nhiên của đất
- Đo đếm lượng hạt giống có trong tầng thảm mục: Xác định bằng cách
thu gom toàn bộ lớp thảm mục, sau đó dùng sàng để tách lọc và phân loại hạt
giống. Lượng hạt giống trong đất được tính bằng g/m
2
.
3.3.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
a. Tổ thành tầng cây gỗ
Tổ thành là chỉ tiêu biểu thị tỉ lệ mỗi loài hay nhóm loài tham gia tạo
thành rừng, tuỳ thuộc vào số lượng loài có mặt trong lâm phần mà phân chia
lâm phần thành rừng thuần loài hay hỗn loài, các lâm phần rừng có tổ thành
loài khác nhau thì chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái và tính đa
dạng sinh học cũng khác nhau.
23
24
Để đánh giá đặc điểm cấu trúc tổ thành sinh thái của quần hợp cây gỗ,
chúng tôi sử dụng chỉ số mức độ quan trọng (Importance Value Index = IVI),
tính theo công thức:


(%)
2
Ai Di
IVIi
+
=
(3.1)
Trong đó:
• IVI
i
là chỉ số mức độ quan trọng (tỷ lệ tổ thành) của loài thứ i.
• A
i
là độ phong phú tương đối của loài thứ i:

1
(%) 100
s
i
Ai x
=
=

i
i
N
N
(3.2)
Trong đó: N
i

là số cá thể của loài thứ i; s là số loài trong quần hợp
• D
i
là độ ưu thế tương đối của loài thứ i:

1
(%) 100
s
i
Gi
Di x
Gi
=
=

(3.3)
Trong đó: G
i
là tiết diện thân của loài thứ i; s là số loài trong quần hợp

2
2
1
( )
2
s
i
i
i
D

G cm x
π
=
 
=
 ÷
 

(3.4)
Với: D
i
là đường kính 1.3 m (D
1.3)
của cây thứ i; s là số loài trong
quần hợp.
Theo đó, những loài cây có chỉ số IVI ≥ 5% mới thực sự có ý nghĩa về
mặt sinh thái trong lâm phần. Theo Thái Văn Trừng (1978) trong một lâm
phần nhóm loài cây nào chiếm trên 50% tổng số cá thể của tầng cây cao thì
nhóm loài đó được coi là nhóm loài ưu thế.
b. Tổ thành cây tái sinh
Xác định số cây trung bình theo loài dựa vào công thức:
24
25

m
i 1
ni
n
m
=

=

(3.5)
Trong đó:
- n là số cây trung bình theo loài,
- m là tổng số loài điều tra được,
- n
i
là số lượng cá thể loài i.
*Hệ số tổ thành:
10
N
n
K
i
i
×=
(3.6)
Trong đó:
- K
i
: Hệ số tổ thành loài thứ i,
- n
i
: Số lượng cá thể loài i,
- N: Tổng số cá thể điều tra.
d. Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học cây tái sinh
Từ trước đến nay khi nghiên cứu các quần xã sinh vật, các tác giả đã đề
xuất ra rất nhiều chỉ số đa dạng: chỉ số Shannon (Magurran, 1988), chỉ số
Berger-Parker (Magurran, 1988), chỉ số Brillouin (Brillouin, 1962), chỉ số

Simpson (Simpson, 1949), chỉ số Alpha (Magurran, 1988), chỉ số McIntosh
(McIntosh, 1967), chỉ số Margalef (Margalef, 1958), chỉ số Menhinick
(Magurran, 1988). Trong đề tài, chúng tôi chọn chỉ số Shannon để đánh giá
tính đa dạng của các quần hợp cây tái sinh đã nghiên cứu vì chỉ số này đánh
giá tổng hợp cả độ đa dạng loài (số loài) và độ đa dạng trong loài (số cá thể
của từng loài):
Xác định chỉ số đa dạng sinh học của cây tái sinh theo công thức:

NN
H
nn
i
s
i
i
ln'
1

=
−=
(3.7)
25

×