Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.07 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Văn Lân

Hà Nội - 2015


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân Văn, và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn GS. TS Lê Văn Lân, tôi đã


thực hiện nghiên cứu đề tài: Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn.
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
cơ giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy tơi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và rèn luyện tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới thầy giáo GS. TS Lê Văn Lân,
người đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này đồng thời giúp
tơi có thêm nhiều hiểu biết, kiến thức mới trong q trình học tập và làm việc
sau này.
Tơi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã ln ở bên cổ vũ, động viên tơi hồn
thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất
nhưng do kinh nghiệm và kiến thức có nhiều hạn chế nên khơng tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Tơi rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các
thầy cơ giáo để tơi có thể hồn thiện hơn trong các cơng trình nghiên cứu khoa
học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2015
Học viên


MỤC LỤC:
PHẦN MỞ ĐẦU:....................................................................................... 03
1. Lí do chọn đề tài:..................................................................................... 03
2. Lịch sử vấn đề: ........................................................................................ 05
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.......................................................... 12
4. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................ 12
5. Đóng góp của luận văn:........................................................................... 13
6. Cấu trúc luận văn: ................................................................................... 13
CHƢƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ
ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Quá trình đổi mới thơ đương đại: ........................................................ 14
1.2. Mai Văn Phấn và những chặng đường sáng tạo: ................................. 19
1.2.1. Những chặng đường sáng tạo thơ: .................................................... 19
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật: ...................................................................... 27
1.3. Thơ Mai Văn Phấn trong xu thế cách tân của thơ đương đại: ............. 30
CHƢƠNG 2: CẢM QUAN THẨM MỸ VÀ CẢM HỨNG HIỆN SINH
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn: ..................................... 33
2.1.1. Cái đẹp: cội nguồn của sự sống: ....................................................... 34
2.1.2. Cái đẹp thuần Việt mang tính dân tộc:.............................................. 38
2.1.3. Cái đẹp mang tính tơn giáo: .............................................................. 43
2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn: .................................... 50
2.2.1. Một thế giới siêu nghiệm: ................................................................. 52
2.2.2. Con người – trung tâm của cái vô cùng: ........................................... 56
2.2.3. Cái tôi ý thức và vô thức: .................................................................. 59

1


CHƢƠNG 3: NH NG ĐỘC ĐÁO VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ
MAI VĂN PHẤN
3.1. Thế giới hình tượng và biểu tượng: ..................................................... 62
3.1.1. Biểu tượng đất đai, sông nước, cỏ cây: ............................................ 63
3.1.2. Biểu tượng ánh sáng, ban mai, ngọn lửa:......................................... 70
3.1.3. Hình tượng người mẹ, người tình: .................................................... 76
3.2. Cấu trúc bài thơ: ................................................................................... 79
3.2.1. Thể thơ: ............................................................................................. 79
3.2.2. Tổ chức đoạn thơ, câu thơ: ................................................................ 85
3.3. Ngôn ngữ thơ: ...................................................................................... 89
3.3.1. Ngôn ngữ thơ siêu thực: .................................................................... 89

3.3.2. Ngôn ngữ thơ giản dị, đời thường:.................................................... 92
PHẦN KẾT LUẬN: .................................................................................. 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO:.......................................................................... 97

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Trong bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh
họa, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng cần phải chủ trương khuyến khích
cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận sự đa dạng để cho văn nghệ một
khoảng đất rộng rãi hơn nữa. Chính bởi những địi hỏi cần phải thốt ra khỏi
một nền văn nghệ minh họa, thoát ra cái hành lang vừa hẹp vừa thấp đó, sự
đổi mới và cách tân xuất hiện như một nhu cầu thiết yếu.
Sau năm 1975, nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng đã có nhiều
chuyển biến tích cực, đa dạng và phong phú về nội dung, mới lạ về mặt hình
thức. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra các khuynh hướng nổi bật
của thơ sau 1975 như xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi
tráng về số phận của dân tộc, xu hướng trở về với các tôi cá nhân, những âu lo
của đời sống thường nhật; xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm
chất tượng trưng, siêu thực; xu hướng hiện đại và hậu hiện đại.
Căn cứ vào những biểu hiện về quan điểm thơ, cách sử dụng thi ảnh
cũng như cấu trúc văn bản thơ, có thể thấy dịng thơ sau 1975 vừa bảo tồn
những giá trị thơ ca truyền thống lại vừa có những cách tân táo bạo. Tuy
nhiên, ngay trong sự bảo tồn giá trị thơ ca truyền thống cũng bắt đầu manh
nha những đổi mới cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật như trong thơ
của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,… Khuynh hướng cách tân nổi bật lên là
hai xu hướng: cách tân về nội dung, thể tài như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn
Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương,

Inrasara, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,… và cách tân về mặt hình thức
ngơn ngữ thi ca như Dương Tường, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng… Theo
khuynh hướng cách tân, người nghệ sĩ đi sâu khai thác những tầng vỉa của đời
3


sống tâm linh, vơ thức, những ẩn ức chìm trong bản ngã, bản năng sống, giúp
con người nhận ra diện mạo của mình từ những mảng mờ tối của tâm hồn.
Cấu trúc thi pháp cũ bị phá vỡ, các nhà thơ đã rút bỏ “khả năng biểu vật, biểu
thái, biểu niệm của thực từ, hư hóa thực từ bằng cách đẩy chúng vào cấu trúc
mới, phát sinh nghĩa trong cú pháp hơn là nghĩa trong từ vựng, buộc chúng
phải sống đời sống hư từ” [13; tr.140]. Khuynh hướng cách tân đã mang lại
cho thơ một diện mạo hoàn toàn mới, phong phú và phức tạp.
1.2. Trong thời gian gần đây, thơ Mai Văn Phấn đã dần được giới nghiên
cứu, phê bình nói riêng và độc giả nói chung đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ cái
mới bao giờ cũng khó chấp nhận trong khi Mai Văn Phấn luôn coi sự cách tân
thơ là phương châm sáng tạo nghệ thuật trong suốt hành trình sống cùng thơ
ca. Chính ơng cũng đã từng phát biểu rằng một thi sĩ đích thực phải là người
phải biết làm ra những bài thơ biết phản bội mình. Nghệ sĩ phải là người liên
tục vượt thốt qua những cuộc vong thân để hồn thiện mình. Cho đến thời
điểm này, Mai Văn Phấn đã tìm được một chỗ đứng vững chãi trên thi đàn
Việt Nam. Thành công trong sáng tác của ông được ghi nhận bằng hàng loạt
các giải thưởng uy tín như Giải thưởng văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải
Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995; Giải thưởng cuộc thi thơ của báo
Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập
Bầu trời không mái che năm 2010.
Với sức sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn liên tục cho xuất bản nhiều tập
thơ ấn tượng, được giới thiệu tại nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Indonesia,
Thái Lan, Anh, Pháp… đồng thời có nhiều tập thơ song ngữ phát hành trên hệ
thống sách online Amazon. Thơ ông vừa đa dạng trong thể tài lại vừa sáng tạo

trong lối diễn đạt.

4


Vì những lí do trên, luận văn muốn đi sâu tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai
Văn Phấn, đặc biệt là những sáng tác của nhà thơ từ sau năm 2000 mà cụ thể
ở ba tập Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó nhằm
đưa ra một cách nhìn tổng quan về thơ ơng trong giai đoạn hiện nay đồng thời
thấy được những đóng góp của nhà thơ trong tiến trình cách tân thơ đương
đại.
2. Lịch sử vấn đề:
Mai Văn Phấn là một cây bút cách tân tiêu biểu trong dòng thơ sau 1975.
Tác phẩm của ông từ khi xuất hiện đã thu hút sự chú ý của công chúng và giới
nghiên cứu phê bình. Có thể nói, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá
lớn, đa dạng ở nhiều thể loại như giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà
thơ, thảo luận, nghiên cứu, phê bình,… Tuy nhiên, theo như nhà thơ Đỗ
Quyên cho rằng, trước Hội thảo thơ về Mai Văn Phấn diễn ra tại Hải Phịng
vào ngày 15/05/2011 thì trong số 60 bài viết về thơ ông, hầu như chưa thấy
các bài phê bình học thuật mà chủ yếu trong số đó là các bài viết mang tính
chất điểm sách, giới thiệu chân dung nhà thơ hay những bài tranh luận chung
chung, cảm tính hoặc mới chỉ đi vào khám phá một hoặc số ít phương diện
đặc điểm nghệ thuật thơ ơng. Từ đó đến nay, cũng đã có nhiều bài nghiên
cứu, tiểu luận, tham luận đánh giá về vị trí và giá trị của thơ Mai Văn Phấn
trong tiến trình thơ đương đại.
Sau đây, tơi xin lược thuật lại một số cơng trình nghiên cứu, các ý kiến
đánh giá, phê bình thơ Mai Văn Phấn:
* Những bài nghiên cứu, đánh giá chung về thơ Mai Văn Phấn:
Nhằm đánh giá đúng giá trị cũng như chỗ đứng của thơ Mai Văn Phấn
trong dòng chảy thơ đương đại, tháng 5/2013, một hội thảo thơ mang tên

“Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” đã được tổ
5


chức tại Hải Phòng. Tại đây, nhiều bài tham luận, nghiên cứu đã được trình
bày. Nhà văn Đình Kính trong bài mở đầu tại Hội thảo đã nhấn mạnh: “Mai
Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định
hình tư duy thẩm mỹ mới và anh đã được đánh giá cao” [29; tr.6]. Khi khẳng
định về tố chất người nghệ sĩ, Cao Năm đã không hề dè dặt trong việc đề cao
bản lĩnh sáng tạo của một cây bút kiên định và giàu sức sống: “Mai Văn Phấn
dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo không ngừng, con người hiện
thân của sự sáng tạo” [29; tr.18].
Trong bài Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo thơ, PGS. TS
Đào Duy Hiệp có kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi
nhận trên hành trình chinh phục ngơi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba
mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột
mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [29; tr.75]. Còn Trần Thiện
Khanh lại đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của
Mai Văn Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng
tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại.
Ông cổ súy cho sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận
mọi sự thể nghiệm chuyển đổi” [29; tr.501].
Đánh giá về những cách tân, đổi mới thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt
Chiến trong bài viết Mai Văn Phấn trong “vịng xốy” của thơ Hậu - hiện đại đã nhấn mạnh: “Nếu có một nhà thơ nào đó đang ln tự đổi mới thơ
mình và phá vỡ các nhịp điệu mịn cũ trong các thể nghiệm thơ hơm nay, theo
tơi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ-tình-cổ-điển, anh “bay” thẳng một
mạch vào hậu-hiện-đại rồi từ đó “lao” vào vịng xốy đầy ấn tượng của thơcách-tân” [29; tr.420]. Theo ông, mỗi bài thơ đều là một thể nghiệm mới, một
phát hiện mới mang lại những bất ngờ từ mỗi câu thơ và ta khơng thể đốn
định nhà thơ sẽ viết tiếp những gì ở câu thơ kế tiếp.
6



Nhà thơ Thi Hoàng trong bài viết Cách tân như là đẩy thơ vượt qua tai
họa đã cho rằng trên con đường dấn thân đi tìm nẻo khác cho thơ mình, cái
nẻo càng ít dấu chân, thậm chí chưa có dấu chân ai đó càng tốt, Mai Văn Phấn
đã dằn mình để cho sự mạo hiểm thắng sự sợ hãi và chấp nhận những đau xé,
cơn đau siêu thực hành hạ anh có khi cịn hơn những cơn đau hiện thực….
Tác giả bài viết cũng đã chỉ ra dưới bề sâu của tâm lý sáng tạo, Mai Văn Phấn
đang cố gắng để không bị ràng buộc vào bất cứ một phương pháp sáng tác
nào. Anh đã huy động cả hình thức và nội dung cùng ghé vai đưa thơ lên cao
hơn cái nền chung của thói quen đọc thơ ở người đọc và hy vọng tìm ra thi
pháp của mình.
Trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, PGS.TS Hồ Thế Hà đã
đưa ra quan điểm của mình: “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền
thơ đương đại Việt Nam – mà là một hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và
mới lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ
của chính người thơ mà anh tự gọi là “vong thân” tức phủ định bản ngã thi sĩ
trước đó của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn
mới và trong một trạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo
sinh nghĩa – đã làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động,
không ngừng phá và thay” [29; tr.227].
Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới khó nắm bắt
mà như nhà nghiên cứu Văn Giá trong bài viết Thơ sinh ra để nói về niềm hi
vọng của con người đã khẳng định: “Bề bộn về số lượng: 370 bài. Bề bộn về
ý tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do,
thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên
cho đến hôm nay. Thế nên gọi được ra khuôn mặt của nhà thơ Mai Văn Phấn
với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai” [29;
tr.528]. “Trong tính tồn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên niềm hi
7



vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự sống, thăng
hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng
chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn
Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau
càng sáng tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn
sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên
thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là cịn
khiến con người ta có quyền hi vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất.
Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ nơi con
người” [29; tr.529].
Nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lý thuyết nhân học vi
mơ trong nghiên cứu văn hóa và phê bình văn học, hai nhà nghiên cứu Ngô
Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm đã cho ra mắt cuốn sách Mai Văn
Phấn, hành trình thơ vào cõi khác (2015). Ở đây, hai tác giả đã có những
nghiên cứu chuyên sâu về những chuyển biến tư tưởng, quá trình thay đổi
nhận thức của bản thân tác giả và những tác động của nó đến thơ. Hai tác giả
trẻ đã đưa ra những chú giải thơ Mai Văn Phấn, đi sâu lí giải hiện tượng thơ
Mai Văn Phấn từ góc nhìn quan niệm về sáng tạo và sự diễn giải kinh nghiệm
tri thức bằng lời đồng thời tổng kết hành trình thơ của nhà thơ trong khuynh
hướng chung của nền thơ Việt Nam đương đại.
Mục đích của cuốn sách mà tác giả muốn hướng đến là nhận diện đúng
đối tượng, phê phán cái đúng, cái sai, đánh giá đúng đóng góp của nhà thơ
trong sự phát triển của thơ đương đại. “Với Mai Văn Phấn, bằng những gì thơ
ca đã trình diện, kháng cự khủng hoảng thơ bằng cách liên tục vong thân, phủ
định chính mình để kiến tạo hệ hình thẩm mỹ khác” [13; tr.186]. “Từ kháng
cự khủng hoảng thơ đến kháng cự khủng hoảng tư tưởng, hành trình thơ Mai
Văn Phấn cịn cho thấy khát vọng hướng đến tự do sống và sáng tạo. Sự vượt
8



thoát liên tục để làm mới thơ, để được sống nhiều hơn vừa là thái độ với thơ
vừa là thái độ đối với cuộc đời” [13; tr.186].
* Những bài nghiên cứu về ba tập Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt
và Vừa sinh ra từ đó:
Bầu trời khơng mái che, Hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó là những
tập thơ mới nhất được Mai Văn Phấn giới thiệu đến người đọc. Sau đây, tôi
xin điểm qua một số nhận định hay về giá trị và sức hấp dẫn từ ba tập thơ.
Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm trong bài Lập thể của ký ức và tưởng
tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn
quyến rũ người đọc không phải ở sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức
hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó
chính là những lập thể của kí ức tưởng tượng, những chồng chất đan cài, nồng
hiện của hình ảnh và hình tượng thơng qua các thủ pháp nghệ thuật đã được
dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến
người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén dun thì khơng thể
nào dứt ra được” [29; tr.395].
Cũng trên tinh thần bàn luận về tập Bầu trời không mái che, Lê Vũ đã
cho rằng: “Bầu trời không mái che, ba phần chia biệt nhưng là một thể thống
nhất trong cái nhìn đậm màu sắc tâm linh của Mai Văn Phấn về thế giới mà
nổi lên là mối quan hệ giữa thiên nhiên và người, giữa động và tĩnh, giữa sinh
và tử, giữa tình và dục […] Mai Văn Phấn đã gói tất cả ý niệm của mình bằng
kỹ thuật đồng hiện, chuyển dịch không/thời gian: ánh sáng và bóng tối, quá
khứ và hiện tại, pha trộn những lát cắt ngày sống với nhịp điệu đêm nồng
nàn… đồng thời chuyển dịch cái nhìn của cái tơi: khi thành kính, khi hưng
phấn, khi lơ mơ, khi nghẹn ngào, khi mệt mỏi, lọ mọ chán với buồn, cả ngờ
vực, sợ hãi, phân vân” [54] .
9



Tập thơ Hoa giấu mặt đánh dấu một giai đoạn mới trong lộ trình thơ
Mai Văn Phấn, là cách ơng tìm về cội nguồn thơ Việt với những vần thơ ngắn
gọn, câu thơ tối giản và hồn nhiên. Nguyễn Thị Bích Phụng khi nghiên cứu về
cảm hứng hiện sinh trong tập thơ này đã nhận xét thơ ba câu trong Hoa giấu
mặt của Mai Văn Phấn có hình thức gần giống thơ Haiku của Nhật nhưng
mang nội hàm, hồn cốt thuần phác thơ Việt và đã tạo những cảm thức hiện
sinh đậm nét. Mỗi bài thơ ba câu của ông là ánh chớp trong đêm tối, vừa lóe
sáng cho người đi nhận biết đoạn đường phía trước mà dấn bước; hoặc như
vài ba đồ vật xếp lại gần nhau để gợi những liên tưởng về nhân sinh, nhân thế,
về thiên nhiên vũ trụ…. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tâm trong cơng
trình nghiên cứu Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác đã cho rằng
tập thơ chính là sự trở về với niềm an nhiên của sự sống ngun sinh trong
lịng đời hơm nay, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm.
Nghiên cứu về tập Vừa sinh ra ở đó, Lương Kim Phương trong bài viết
Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng đã khẳng định mười tám bài thơ
có thể lay động người đọc bởi một ý niệm: con người được liên tục tái sinh,
hồi sinh, được sinh ra từ những vẻ đẹp bình dị quanh mình.
* Những ý kiến trái chiều trong cách cảm về thơ Mai Văn Phấn:
Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một cấu trúc phức tạp, đa
diện và liên tục biến đổi. Bởi vậy, mỗi độc giả đều tự tìm cho mình một con
đường riêng, một cách của riêng để bước vào lâu đài thơ ấy. Chính nhà thơ
cũng kêu gọi khả năng đồng sáng tạo nơi bạn đọc. Bởi vậy mà dư luận thơ
Mai Văn Phấn cũng xuất hiện nhiều ý kiến trái chiều. Bên cạnh những lời
khen ngợi cũng đã xuất hiện nhiều lời chỉ trích, thậm chí phê phán cực đoan
thơ Mai Văn Phấn.

10



Đặc biệt, việc tập thơ Bầu trời không mái che được nhận giải thưởng
cao nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 đã gây ra nhiều tranh luận.
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cùng với nhiều đồng nghiệp của mình như Nguyễn
Hiếu, Nguyễn Hữu Quý,… đều thống nhất tập thơ này của Mai Văn Phấn
cùng với các tập thơ đoạt giải không phải các tập thơ hay mà rất tầm thường,
thậm chí cịn khơng phải là thơ.
Đối với Mai Văn Phấn, mỗi người đọc đến với thơ ông đều tự xây dựng
cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc đáo. Bài thơ
được hồn thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc về số đơng độc giả
tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin hãy coi như
anh ta đã chết”. Vì vậy, khơng thể tránh khỏi những ý kiến trái chiều, những
cuộc tranh luận, trao đổi về giá trị các tập thơ của ông. Điều đáng ghi nhận
rằng, hướng các nhà nghiên cứu đánh giá cao thành tựu thơ Mai Văn Phấn
vẫn chiếm ưu thế. Đồng thời nhiều tác giả trước đây đã có lời chê bai thơ ơng
thì sau này cũng đã có những đánh giá đúng đắn theo hướng tích cực. Những
cách tân trong thơ Mai Văn Phấn dù có đơi chút khó hiểu nhưng đây là những
đổi mới tích cực và đáng ghi nhận trong tiến trình thơ đương đại.
Trên đây, tơi đã lược thuật những nghiên cứu đánh giá về thơ Mai Văn
Phấn nói chung và ba tập Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt và Vừa
sinh ra từ đó nói riêng. Mặc dù có nhiều bài nghiên cứu về đặc điểm thơ của
ơng nhưng tôi nhận thấy đây là những bài viết mang tính phổ quát, đánh giá
chung cho cả một chặng đường thơ từ khi khởi nghiệp đến nay của nhà thơ
mà chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi vào tìm hiểu cụ thể về những đặc
điểm thơ Mai Văn Phấn từ sau khi ông nhận giải thưởng của Hội nhà văn năm
2010. Bởi vậy, thông qua luận văn này, tôi muốn đưa ra một cái nhìn cụ thể
về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm đầu thập kỉ 10 của

11



thế kỉ XIX thông qua khảo sát ba tập thơ Bầu trời không mái che (2010),
Hoa giấu mặt (2012) và Vừa sinh ra từ đó (2013).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chọn Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn là đối
tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm 2010, luận
văn khảo sát các tập thơ:
1. Bầu trời không mái che, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2010.
2. Hoa giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2012.
3. Vừa sinh ra từ đó, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
* Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá
những yếu tố cơ bản của đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong lộ trình thơ Việt
đương đại.
* Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp giúp người viết thống
kê những thi liệu xuất hiện trong các tập thơ, từ đó đưa ra cách phân loại
chúng một cách có hệ thống.
* Phương pháp so sánh: Phương pháp giúp những viết nhận ra những
đặc điểm nổi bật của thơ Mai Văn Phấn so với các nhà thơ khác, làm nổi bật
con đường thơ mà nhà thơ đang đi.
* Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhờ phương pháp này, người viết
có khả năng đi sâu vào từ chi tiết để khám phá ra sự độc đáo của cấu trúc diễn
12


ngơn đồng thời có cái nhìn tổng hợp để đúc rút ra những đặc điểm nổi bật
trong thơ Mai Văn Phấn.
5. Đóng góp của luận văn:

Luận văn nêu lên một cách nhìn tồn diện về đặc điểm thơ Mai Văn
Phấn trong những năm gần đây, thông qua ba tập thơ mới nhất được xuất bản
của ơng tính đến thời điểm này. Từ đó nhận diện phong cách cũng như vị trí
của nhà thơ trong lộ trình thơ đương đại.
6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm ba chương:
Chương I: Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại.
Chương II: Cảm quan thẩm mỹ và cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn
Phấn.
Chương III: Những độc đáo về nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.

13


CHƢƠNG I: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG

NG CHẢY

THƠ ĐƢƠNG ĐẠI
1 1 Quá t nh đ i m i thơ đƣơng đ i:
Khi bàn luận về sáng tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, nhà
văn Nguyễn Tuân đã cho rằng: “Là người sống lỗi lạc, sống một cách đặc biệt
không giống ai và không cho ai bắt chước mình. Chết là mang cả cái bản
chính đi chứ khơng để lại một bản sao nào cả”. Lời phát biểu của Nguyễn
Tuân đã nêu lên một quy luật tất yếu của sáng tạo văn học và nghệ thuật, luôn
luôn độc đáo, luôn luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả
một chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ
cái ta của thơ cũ sang cái tôi nhỏ bé, mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ
những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm hưởng hào hùng, bi tráng của

một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.
Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói riêng lại đặt ra u cầu tự
làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại và tạo nên những cá tính
riêng độc đáo.
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào
hùng của cuộc chiến thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những
đau thương, mất mát mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế
của kẻ thắng trận nhưng vẫn cịn đó là những hoang tàn, đổ nát của quê
hương, là những đau thương của người mẹ “khóc vì những đứa con, lần lượt
ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói.
Tổ quốc hơm nay
Tuy gọi sống hồ bình
Nhưng mới chỉ là trang thứ nhất
Chúng ta cịn mn việc rối tinh
14


(Nhất định thắng - Trần Dần)
Một câu hỏi lớn đặt ra cũng là trăn trở của bao nhà thơ lúc đó: “Đất nước
khó khăn này sao khơng thấm được vào thơ?” (Nhất định thắng - Trần Dần).
Bởi vậy, thơ ca giai đoạn sau 1975 mà đặc biệt là sau công cuộc đổi mới đã
có nhiều bước chuyển mình. Khác với thơ trước 1975, các nhà thơ tập trung
hơn vào các giá trị thẩm mĩ của thơ. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt
trước, trong vẻ hào hùng, tráng lệ mà cịn được nhìn từ phía sau, từ những nỗi
đau trĩu nặng và bao vết thương nhức nhối khó lành. Từ thời điểm hiện tại,
nhà thơ có cái nhìn sâu xa về đất nước, về lịch sử oai hùng nhưng cũng khơng
ít những đau thương, bất hạnh. Ý thức nói về bi kịch nhiều hơn đã khiến thơ ít
dần giọng điệu ca tụng dễ dãi mà chìm vào chiều sâu suy ngẫm của nhà thơ về
nhân tình thế thái. Cùng viết về đất nước nhưng đã vơi dần những hân hoan,
ngợi ca:

Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn!
(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Mà thay vào đó là những ngẫm ngợi của một người “nhìn từ xa... Tổ
quốc”:
Thời hậu chiến ta vẫn người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày?
(Nhìn từ xa... Tổ Quốc - Nguyễn Duy)
Nếu như thơ trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết
về những nỗi buồn thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói
nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước sự xoay
vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và
khuynh hướng phát triển đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi buồn
15


xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời cuộc;
thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo, con
người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cơ đơn hơn”
[25; tr.380].
Dịng thơ cách tân sau 1975 cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa
tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực phương Tây. Các nhà thơ đã đưa những
yếu tố siêu thực, phi lý, phí tuyến tính của thơ hậu hiện đại phương Tây vào
những bài thơ, bộc lộ những mảng khuất lấp của đời sống, những vùng mờ
của tâm linh. Cái tôi không chỉ được tìm hiểu trong mối quan hệ với hiện
thực, sự tương tác giữa cá nhân và hoàn cảnh mà cịn được tìm hiểu trong cấu
trúc quan hệ với chính nó. Thơ đi sâu vào tính độc đáo của thân phận, nhấn
mạnh tính chủ thể hơn là khách thể. Nhà thơ khơng nhìn con người như là
một sinh linh bé bỏng giữa vũ trụ mà coi đó chính là một tiểu vũ trụ, trung

tâm của cái vô cùng. Tại đây, các nhà thơ đề cao lối viết tự động, có ý thức
chống lại các quy tắc sẵn có trong thơ, khước từ sự có mặt của tư duy duy lý
trong nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương đã nói về những điều mơ hồ, rối rắm
trong lòng người bằng những câu thơ rối rắm, mơ hồ:
Tiếng nói của em màu lam chuyển dần sang màu lục
Và cuốn lên một cái cây chưa tỉnh táo
Cuốn lên những quả chuông reo vang trận mưa rào
Ngân nga giọng của trăng sao
(Em vào hoa)
Đoạn thơ trên không tuân thủ trật tự cấu trúc cú pháp thông thường với
cách tổ chức ngơn từ lạ, hình ảnh chuyển hoá liên tục từ trạng thái này sang
trạng thái khác. Tuy nhiên, không phải nhà thơ nào sử dụng lối viết tự động
để đi sâu vào thế giới tâm linh cũng được người đọc tiếp nhận. Thậm chí

16


nhiều nhà phê bình đã lển tiếng phủ nhận và cho đây là những vần thơ rối rắm
và vô nghĩa. Song, đây là những cách tân mới mẻ và cần được tôn trọng.
Song song với những thay đổi về nội dung, hình thức thơ cũng có nhiều
biến đổi linh hoạt để phù hợp với yêu cầu của nội dung. Các thể thơ truyền
thống như lục bát, năm chữ, bảy chữ khơng cịn ở dạng ngun bản mà đã có
sự biến thiên đáng kể về cấu trúc, nhịp điệu. Tính điệu nói được gia tăng và
cấu trúc thể loại dựa vào nhịp nhiều hơn vần.
Tính hiện đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của
thơ tự do và thơ văn xuôi so với các thể thơ khác. Đứng trước những thay đổi
lớn của văn học, thơ vừa tìm cách níu giữ những yếu tố hạt nhân mang tính
thể loại, vừa mở rộng, biến đổi chính nó để thích ứng với u cầu và điều kiện
mơi trường văn hoá mới. Thực tế phản ánh rằng thơ hiện đại khó nhớ và khó
thuộc hơn rất nhiều so với thơ ca giai đoạn trước. Khơng cịn xuất hiện nhiều

câu thơ mang tính vần điệu véo von mà thay vào đó là những câu thơ có phần
khó hiểu, được viết theo lối viết tự động. Thơ hiện đại thường tập trung vào tổ
chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng
này đôi khi không dễ nhận ra bằng cảm xúc và tư duy nghệ thuật thơng
thường. Các hình ảnh, hình tượng này địi hỏi người đọc phải giàu trải nghiệm
và khả năng tiếp nhận cái siêu nghiệm trong thơ. Đặc biệt, khi thơ cách tân
sau 1975 có xu hướng đi sâu vào cái bản thể và coi con người như một tiểu vũ
trụ cần khám phá. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực
phương Tây, các nhà thơ khơng cịn thuyết minh, giải thích nhiều mà để
người đọc tự khám phá ý nghĩa nhân sinh ẩn sau cấu trúc thi phẩm. Nhà phê
bình Nguyễn Thanh Tâm đã cho rằng quá trình giải mã thơ đương đại cũng
chính là q trình khai phá bản thân mình. Bởi vậy, người đọc phải bằng trải
nghiệm của bản thân để tự tìm tịi và lí giải những phức tạp trong thể thơ và
cấu trúc thi phẩm.
17


Lao động thơ trước hết là lao động chữ nghĩa. Chính những con chữ, qua
cấu trúc nghệ thuật của nhà thơ sẽ cho ta hiểu được chiều sâu và sự vang ngân
của tình ý, giai điệu và tư tưởng nghệ thuật của họ. Vì vậy, sự đổi mới trong
thơ bao giờ cũng là sự đổi mới đồng bộ giữa cái nhìn nghệ thuật sâu sắc và
ngơn ngữ thơ. Nhìn chung, ngơn ngữ thơ sau 1975 khơng cịn êm mượt, réo
rắt, véo von như thơ ca 1945 – 1975 mà trúc trắc hơn, phong phú hơn và
giọng điệu cũng đa dạng hơn. Thơ đi sâu vào cá nhân, hoà nhập vào cuộc
sống thường ngày nên các nhà thơ có ý thức đưa thứ ngôn ngữ giản dị, đời
thường vào trong thơ. Bên cạnh đó, trong dịng thơ cách tân sau 1975, các nhà
thơ đã mạnh bạo đưa vào trong thơ những ngôn ngữ đậm chất siêu thực. Điểm
qua sáng tác của hầu hết các cây bút như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình
Phương, Mai Văn Phấn,... người đọc đều nhận thấy những dịng ngơn ngữ
mới lạ, từ ngữ được tỉnh lược tối đa để gia tăng tính biểu đạt cho ngơn ngữ,

buộc người đọc phải tư duy khi tiếp nhận thơ.
Đặc biệt, sự xuất hiện của nhóm Dịng chữ (đối ngược với nhóm Dịng
nghĩa) cùng một số thi phẩm ở cuối thập niên 80 của thế kỉ XX như Ngựa
biển, Bóng chữ... đã nhận được nhiều quan tâm của công chúng. Với tư tưởng
làm thơ trước hết là làm chữ, những sáng tác của họ là một trong những mũi
nhọn đột phá vào quan niệm thơ truyền thống. Nhóm chủ trương đi tìm một
thứ ngơn ngữ mới, thay thế cho những ngơn ngữ thơ đã cũ, sáo mịn, đơn
điệu, đưa ngơn ngữ thơ về mới bản thể tự nhiên. Họ muốn làm tươi trẻ, hồi
sinh lại những con chữ bằng cách trả nó về với hình thức, sự khơi gợi và ám
ảnh ngữ âm ban đầu. Ngôn từ phải được xem như một đối tượng sáng tác,
phải bộc lộ tất cả vẻ đẹp tự thân nó.
Như vậy, diện mạo thơ sau 1975 đã có những cách tân, thay đổi mạnh
bạo cả về nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh những nhà thơ chống Mỹ, những
cây bút bước ra từ thời chiến như Trần Dần, Hồng Cầm, Phùng Cung,... cịn
18


là sự xuất hiện của nhiều gương mặt trẻ như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn
Phấn, Inrasara, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hồng Ly,... Mỗi người
đều có một cách nhìn riêng, một giọng điệu riêng và một hướng đi riêng
nhưng tựu chung lại đều là sự khẳng định mạnh mẽ của cái tôi cá nhân và nỗ
lực cách tân thơ Việt.
1 2 Mai Văn Phấn và những chặng đƣ ng áng t o:
. . . h ng chặng đường áng tạo thơ:
Mai Văn Phấn là nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong những cây
bút xuất sắc của dòng thơ cách tân sau 1975. Những tác phẩm của ông đã góp
phần không nhỏ trong cuộc cách tân thơ ca. Nhà thơ sinh năm 1955 tại một
làng quê thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình. Mảnh đất với bề sâu truyền thống
lịch sử và đặc thù văn hóa Thiên chúa giáo đã in đậm vào tâm trí nhà thơ, tạo
nên những trang viết giàu chất ám ảnh và cảm hứng tâm linh, tôn giáo. Từ

nhỏ, cái mộng văn chương đã ấp ủ trong lòng nhà thơ.

ng yêu thơ và làm

thơ từ khi còn là cậu bé mười sáu, mười bảy tuổi và đạt giải nhì trong cuộc thi
chọn học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc năm 1972. Bài thơ đầu tay Hoa xoan
ghi dấu lại những ngày tháng sống và chiến đấu gian khổ trong quân ngũ của
Mai Văn Phấn. Song, cũng từ đây, nhà thơ bắt đầu có những trăn trở về con
đường thơ của mình, muốn xóa đi tất cả những quan niệm, hiểu biết về thơ ca
trước đó. Khơng thể có thơ hay khi mà tác giả khơng tự xây dựng cho mình
một cá tính, một bản sắc riêng trong thế giới tinh thần. Sau mười sáu năm
khoanh tay đứng ngoài cuộc thơ, Mai Văn Phấn đã tìm cho mình một giọng
thơ riêng, tinh tế với những cảm xúc sâu lắng và vẻ đẹp trắc ẩn của ngơn từ.
Để từ đó, nhà thơ cho ra đời hàng loạt các tập thơ ấn tượng:
1992), ọi anh (thơ 1995), ầ ng
tên (thơ, 1999),

iọt n ng (thơ,

n an mai (thơ, 1997), ghi

nhận

gười c ng thời (trường ca, 1999), Vách nư c (thơ, 2003),

19


Hơm sau (thơ, 2009), Và đ t nhiên gió th i (thơ, 2009), ầ trời kh ng mái
che (thơ, 2010),


oa giấ mặt (thơ, 2012), Vừa inh ra từ đó (thơ, 2013)…

Thơ Mai Văn Phấn hiện được dịch ra nhiều thứ tiếng và giới thiệu tại nhiều
quốc gia như Anh quốc, Hoa Kì, Thái Lan, Indonesia, Thụy Điển,… Thành
cơng trong sáng tác thơ ông đã được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng
uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần áo

gười

à

i năm 1994,

Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần áo Văn ngh năm 1995, chuỗi giải thưởng
Văn h c Ngu ễn

nh

hi m (Hải Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994,

1995 và Giải thƣ ng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập thơ

ầ trời

kh ng mái ch năm 2010.
iai đoạn từ khởi nghiệp đến năm
Đây là giai đoạn mở đầu cho hành trình thơ của Mai Văn Phấn, đánh dấu
bằng sự ra đời của hai tập thơ:


iọt n ng (1992) và ọi anh (1995). Chủ đề

thường xoay quanh tình yêu đơi lứa, tình u đất nước, thiên nhiên, là những
chủ đề có tính truyền thống. Thể thơ đa phần là thể lục bát truyền thống:
Con chim bay vút lên không
Để lại gió với cánh đồng rộng thênh
(Khơng đề I - Giọt n ng)
Mặc dù chưa thốt khỏi hệ hình thi pháp truyền thống nhưng tập thơ
đánh dấu sự trở lại của Mai Văn Phấn sau mười sáu năm nghỉ bút cũng đã thể
hiện phần nào những đổi mới, hướng đi mới của nhà thơ trên hành trình sáng
tạo. Thể lục bát truyền thông bị phá vỡ, trật tự cấu trúc bị đảo ngược:
Nhoà tan anh với mung lung
Em là giếng gió trong lịng anh
Nhấn chìm anh thoắt đã khơng cịn gì
Hư vơ thành thật cũng vì u em!
20


(Em xa - Giọt n ng)
Thể 6/8 đã được cấu trúc lại dưới dạng 6/6/8/8. Cảm giác lạ lẫm khởi
sinh từ những định dạng như thế này. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trong
lời giới thiệu tuyển tập Thơ t ển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời
phỏng vấn đã nhận xét: "Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ
điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi
anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của
khn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự
thăm dị để bung phá"[42; tr.8].
Ngồi ra, thơ giai đoạn này cũng xuất hiện hình thức mới lạ như kiểu thơ
vắt dịng:
Có giọt sương lạnh giá

Rơi xuống hồn anh đang
Lẫm chẫm vào xốn xang
Cho lòng mềm tơ lụa.
(Chân thật – Giọt n ng)
Cách đổi mới hình thức văn bản này đã có từ Thơ mới trong những trạng
thái tràn đầy của xúc cảm. Vắt dòng tạo nên sự tràn nhịp đồng thời cũng thể
hiện sự thách thức, hồi nghi những hình thức biểu đạt mỹ cảm cũ trong các
thể thơ truyền thống, hướng tới việc tự do hơn trong triển khai cảm xúc và tư
duy.
Với quan niệm mỗi bài thơ là một dự phóng kinh nghiệm riêng biệt, Mai
Văn Phấn cũng sáng tạo ra những hình ảnh khác lạ, độc đáo trong một không
gian đa chiều:
Tôi thổi vào lịng ống sáo tối đen địa ngục, để tìm ra bảy lối tới
thiên đường đồ rê mi fa son la si.

21


Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng trong ánh sáng bảy
màu lung linh huyền ảo để những bóng tối kia cũng mang hình
ống sáo cho tơi ghé mơi khắc khoải thổi vào.
(Viết cho cây sáo - Gọi xanh)
Hình thức thơ khá tự do, vần được giải phóng bởi sự phá vỡ cấu trúc thể
loại quen thuộc. Mặc dù thơ vẫn mang hơi hướng truyền thống nhưng những
sáng tác trong giai đoạn đầu cũng cho thấy, Mai văn Phấn đã dũng cảm là
người bước lạc nhịp ra khỏi dàn dồng ca, để tự khai phá một con đường mới.
iai đoạn từ

đến 2000:


Với sức sáng tạo thi ca hết sức dồi dào, Mai Văn Phấn liên tục cho ra đời
các tập thơ. Mỗi đứa con tinh thần ra đời lại đánh dấu một bước chuyển mình
lớn của nhà thơ trên hành trình sáng tạo, hành trình "tự phản bội mình". Giai
đoạn này, ông lần lượt giới thiệu đến bạn đọc ba tập: Cầu nguy n ban mai
(1997), Nghi l nhận tên (1999) và trường ca gười cùng thời (1999).
Nhà thơ Lê Xuân Đố cho rằng thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này đã bứt
phá cách tân thi pháp với “nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện
nhiều vấn đề của thời cuộc và bản tính con người hiện đại và phát hiện những
vẻ đẹp tiềm ẩn của tình yêu và cuộc sống” [29; tr.283].
Nhìn mặt ao đầm biết mùa thu nghìn tuổi lũ cá mại cờ, địng đong
cung quăng chẳng chịu già đi Trong kí ức chúng ln giật mình và
bơi khe khẽ.
(Kí sự mùa thu - Cầu nguy n ban mai)
Nghi l nhận tên là một tập thơ mang tính bước ngoặt trong hành trình
thơ của Mai Văn Phấn bởi những dự cảm trong các tập thơ trước đến đây dần
được định hình. “quả thực, từ Giọt n ng, Gọi xanh, Cầu nguy n ban mai đến
Nghi l nhận tên, Mai văn Phấn đã có một nhận thức về chính những chuyển
22


×