Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Phạm Thái – những đặc điểm và đóng góp trong sáng tác văn chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.94 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRỊNH THU HƢƠNG

PHẠM THÁI – NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ
ĐÓNG GÓP TRONG SÁNG TÁC VĂN CHƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRỊNH THU HƢƠNG

PHẠM THÁI – NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ
ĐÓNG GÓP TRONG SÁNG TÁC VĂN CHƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng


Hà Nội - 2015


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành khóa luận của mình, tơi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt
tình của các thầy, các cô trong khoa Văn học trƣờng Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), đặc biệt là ngƣời thầy đã trực tiếp
hƣớng dẫn tôi. Nhân dịp này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn
sâu sắc tới:

 GS.TS Trần Ngọc Vương - ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tơi từng
bƣớc đi để hồn thành tốt khóa luận của mình.

 Các thầy, các cô trong khoa Văn học trƣờng Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi thực hiện tốt khóa luận của
mình.
Do hạn chế về thời gian cũng nhƣ kinh nghiệm của bản thân nên đề tài
của tôi chắc chắn sẽ không tránh khỏi những vấn đề cần bổ sung và hồn
thiện. Vì vậy, tơi hy vọng nhận đƣợc sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo và
các bạn học viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15/11/2015
Học viên

TRỊNH THU HƢƠNG


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 9
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9
5. Những đóng góp của luận văn ................................................................. 10
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 11
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH THỜI ĐẠI, TIỂU SỬ, MƠ HÌNH NHÂN CÁCH ,
QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC VÀ HÌNH ẢNH XÃ HỘI THỜI TAO LOẠN
QUA SÁNG TÁC PHẠM THÁI .................................................................... 13
1.1 Bối cảnh thời đại, tiểu sử, mơ hình nhân cách, q trình sáng tác ........ 13
1.1.1 Bối cảnh thời đại.............................................................................. 13
1.1.2 Tiểu sử, mơ hình nhân cách ............................................................. 15
1.1.3 Q trình sáng tác ........................................................................... 25
1.2 Hiện thực xã hội đƣơng thời trong sáng tác Phạm Thái ....................... 27
1.2.1 Hình ảnh xã hội thời tao loạn và cuộc sống của người dân........... 27
1.2.2 Giai cấp thống trị, bộ máy quan lại................................................. 38
CHƢƠNG 2: CHÂN DUNG NGƢỜI ANH HÙNG THỜI LOẠN VÀ
KHN HÌNH TÀI TỬ PHONG LƢU QUA SÁNG TÁC PHẠM THÁI
......................................................................................................................... 44
2.1 Chân dung ngƣời anh hùng thời loạn qua sáng tác Phạm Thái ............. 44

1


2.1.1 Phạm Thái là một nhà nho chính thống, được hưởng chế độ giáo
dục phong kiến. ......................................................................................... 44
2.1.2 Con người ngông nghênh, kiêu ngạo, khinh bạc, thể hiện tư tưởng
lớn nhưng thường cực đoan ...................................................................... 47
2.1.3 Người anh hùng bị thất bại trên con đường chính trị nên gay gắt,

hằn học, thở than, trách móc .................................................................... 49
2.2 Khn hình tài tử phong lƣu qua ngòi bút Phạm Thái ......................... 53
2.2.1 Lối sống “ngao du sơn thủy” tự do, phóng khống ....................... 54
2.2.2 Các thú vui tao nhã “bầu rượu túi thơ”, “cầm kỳ thi họa” ........... 59
2.2.3 Con người đa tình và tự do trong tình yêu ..................................... 65
Tiểu kết ............................................................................................................ 73
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐÓNG GÓP VỀ MẶT NGHỆ
THUẬT THƠ VĂN PHẠM THÁI .............................................................. 75
3.1 Một trong những ngƣời đi đầu trong việc cách tân thể thơ trữ tình tiếng
Việt, đƣa thể thơ này lên một cung bậc mới ................................................ 75
3.2 Ngƣời đầu tiên viết truyện Thơ Nơm về chính cuộc đời mình. Truyện
thơ này đã đạt tới thành công xuất sắc về mặt nội dung cũng nhƣ nghệ thuật
...................................................................................................................... 79
3.3 Xem xét lại tác phẩm Chiến tụng Tây Hồ phú nhƣ một danh tác của
Phạm Thái .................................................................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 91

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là một giai đoạn đầy biến động
của lịch sử Việt Nam. Nhiều mâu thuẫn trở nên gay gắt, xã hội Việt Nam trở
nên rối ren, chiến tranh loạn lạc giữa các phe phái xảy ra liên tiếp. Nhà nho
phải đối mặt với những thử thách nghiệt ngã của lịch sử. Các thế lực thống trị
thay nhau lên cầm quyền, đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử xảy ra một hồn
cảnh chƣa từng có, đó là sự lên ngơi của những “anh hùng nơng dân áo vải”.
Sự xa lạ đó khiến nhà nho bối rối trên con đƣờng hành đạo, và đã có nhiều

hành xử cho một vấn đề, tùy vào hoàn cảnh và nhân cách của mỗi con ngƣời.
Từ đó, xảy ra nhiều những thái độ chính trị khác nhau và những nhân cách cá
nhân của mỗi nhà nho dần dần đƣợc bộc lộ rõ ràng.
Đây cũng là giai đoạn mà văn học Việt Nam nở rộ về thành tựu cả về mặt
nội dung cũng nhƣ thể loại. Những cây bút lớn đã khẳng định những dấu ấn
cá nhân riêng nhƣ Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Phạm Thái,
Hồ Xuân Hƣơng,…và sau này đã trở thành những cây đại thụ của nền văn học
trung đại. Trong đó, Phạm Thái là một tác giả ít đƣợc nhắc đến nhất. Cho đến
nay, khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu về nhà nho này bởi vì những “bảo
thủ”, “phản động” trong thiên kiến chính trị của ông. Trong Văn học Việt Nam
(1969), Nxb Tân Việt, Phạm Văn Diêu đã khái quát nền văn học Việt đời Lê
mạt - Nguyễn sơ nhƣng ông không hề nhắc đến cái tên Phạm Thái trong tác
phẩm của mình. Ngay cả trong tác phẩm Phú Việt Nam cổ và kim (2002), Nxb
Văn hóa thơng tin do Phong Châu và Nguyễn Văn Phú giới thiệu, sƣu tầm,
chú thích, cũng khơng hề có tác phẩm của Phạm Thái. Trong phần cƣớc chú
của sách này có ghi rõ ràng: “nội dung thể hiện tƣ tƣởng phản động chống
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, nên bỏ không in” [6, tr.203]. Nguyễn Nghiệp cũng
3


đã khái quát về sự nghiệp thơ văn của nhà nho này nhƣ sau: “Xét về toàn bộ tác
phẩm mà nói, thử hỏi tác dụng giáo dục của Sơ kính tân trang đối với thế hệ
chúng ta phỏng đƣợc bao nhiêu. Một con ngƣời với tƣ tƣởng căn bản là phản động
và tiêu cực nhƣ Phạm Thái thì làm sao có thể tạo ra những giá trị nhân đạo cao cả,
có tác dụng cho thế hệ đƣợc” [26].
Trong khi đó, nhìn nhận một cách cơng bằng, Phạm Thái là một trong
những cây bút có một sự nghiệp tác phẩm khá đồ sộ. Ông là cây bút đã trải
nghiệm trên nhiều thể loại khác nhau từ văn xuôi, đến các thể loại thơ khác
nhau và đặc biệt là thể phú. Đặc biệt, cùng với Nguyễn Du, ơng cũng là ngƣời
có đóng góp lớn trong việc có ý thức sử dụng chữ Nơm trong sáng tác của

mình. Điều đó góp phần thể hiện ý thức tự hào dân tộc của Phạm Thái. Thêm
vào đó, nhà nho cũng đã có sự sáng tạo trong việc phá vỡ tính quy phạm của
thơ văn trung đại và có những lúc thơ của ơng đã đạt tới trình độ điêu luyện
về nghệ thuật. Ở bất cứ thể loại nào, Phạm Thái cũng có những tác phẩm đạt
đƣợc nhiều thành công về mặt nội dung cũng nhƣ nghệ thuật. Về mặt nội
dung, tác phẩm của ông đã có những tiếng nói tiến bộ, rất riêng và điều đặc
biệt nó thể hiện cái tơi cá tính, một nhân cách trong sạch và nhất quán trong
cách hành xử của mình. Có những bài thơ quyết liệt của Phạm Thái nói lên
tiếng nói bất bình, làm nên một trận bút chiến, ngƣời khen, kẻ chê nhƣng đa
phần là chê trách vì ơng đã đi ngƣợc với thời đại, đi ngƣợc với triều đại mà
thời điểm đó tất cả lịng dân đang hào hứng với những chuyển biến tích cực.
Cịn ơng thì khơng chỉ quay lƣng lại với thời cuộc mà cịn chống lại nó một
cách dữ dội và quyết liệt.
Tuy nhiên, trải qua thời gian, chúng ta cần phải có một sự nhìn nhận đúng
đắn và cơng bằng hơn về hiện tƣợng Phạm Thái. Những nỗ lực mà ơng đóng
góp cho nền văn học dân tộc cần phải đƣợc khẳng định. Bởi lịch sử cịn có
những trang khuất và trƣớc đó, nghiên cứu xã hội học đã ăn sâu bám rễ vào
4


nghiên cứu văn học Việt Nam. Phƣơng pháp luận xã hội học có cội nguồn từ
phƣơng pháp văn hóa - lịch sử của H. Taine, xem văn học là biểu hiện của
chủng tộc, hoàn cảnh, thời đại, coi trọng cơ sở kinh tế xã hội, đấu tranh giai
cấp, văn học hầu nhƣ là biểu hiện trực tiếp của đời sống chính trị. Nghiên cứu
văn học hầu nhƣ là nghiên cứu thái độ chính trị đối với đời sống, khơng xem
xét đặc trƣng văn học, bản tính thẩm mĩ, tính phức tạp và tồn bộ cấu trúc bên
trong của nó cũng nhƣ cá tính sáng tạo của nhà văn hầu nhƣ khơng đƣợc quan
tâm đến. Bên cạnh đó, một số vấn đề của lịch sử cũng phải đƣợc nhìn nhận lại
trên quan điểm của đời sống hiện đại.
Cho nên khẳng định lại nhân cách cũng nhƣ cá tính sáng tạo của Phạm

Thái là một cơng việc cần thiết và do đó ngƣời viết đã chọn đề tài này cho
luận văn của mình. Cho đến nay, mặc dù đã có sự chú ý nhất định đến Phạm
Thái, tuy nhiên, chƣa có những bài viết, cơng trình nghiên cứu chun sâu
nào dành cho hiện tƣợng văn học đặc biệt này. Từ đó mà chƣa đƣa ra đƣợc sự
đánh giá tổng quát, toàn diện và chân thực về những đóng góp và thành tựu
thơ văn của ơng. Vì vậy cơng việc nghiên cứu khái quát toàn bộ về thơ văn
Phạm Thái trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối XVIII - nửa đầu XIX
là việc cần thiết và có giá trị, khơng chỉ trên bình diện lý luận, phê bình mà
cịn giúp ích cho thực tiễn dạy và học tác giả Phạm Thái trong nhà trƣờng phổ
thông cũng nhƣ đại học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể tìm hiểu những bài viết, cơng trình, viết về Phạm Thái thành từ
hai nguồn. Nguồn thứ nhất là những cơng trình nghiên cứu, biên khảo, sƣu
tầm, hiệu đính, chú giải, trích dẫn, giới thiệu thơ văn Phạm Thái. Nguồn thứ
hai là những giáo trình, cơng trình khoa học, bài viết về thơ văn Phạm Thái
hoặc ít nhất đề cập đến vấn đề liên quan đến thơ văn Phạm Thái.
5


2.1 Những cơng trình nghiên cứu, biên khảo, sưu tầm, hiệu đính, chú giải,
trích dẫn, giới thiệu thơ văn Phạm Thái
Văn đàn bảo giám (1926) - Trần Trung Viên; Phổ chiếu thiền sư thi tập
(1932) - Sở Cuồng (Lê Dƣ); Việt Nam thi văn hợp tuyển (1943) và Việt Nam
văn học sử yếu (1944) - Dƣơng Quảng Hàm; Lịch sử văn học Việt Nam
(1962) của Lê Trí Viên - Phan Côn - Đặng Thanh Lê - Phạm Văn Luận - Lê
Hoài Nam đồng biên soạn; Bảng đồ lược văn học Việt Nam (1967); Hợp tuyển
thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX (Nxb Văn học Việt Nam);
Thơ văn Việt Nam thơ Đường luật từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX - Hà Xuân
Liêm sƣu tầm và biên soạn; Trần Đình Sử - Những cơng trình thi pháp học
(2005) - tuyển tập 1 - Nguyễn Đăng Điệp giới thiệu và tuyển chọn; Tổng tập

văn học Việt Nam (1997) do Nguyễn Quảng Tuân biên soạn; Giai thoại làng
nho - Lãng Nhân; Việt Nam văn học giảng minh (1974) - Vũ Tiến Phúc.
Những cơng trình trên, các tác giả có dẫn một số tác phẩm tiêu biểu của
Phạm Thái đặc biệt là bài Sơ kính tân trang và Chiến tụng Tây Hồ phú. Ngoài
ra, các tác giả cũng sơ lƣợc giới thiệu, khái quát một số nét về tiểu sử của
Phạm Thái. Trong đó, có cơng trình Chiêu - Lỳ Phạm - Thái thi tập (1959) do
Hồng Xn sƣu tầm, giới thiệu đã có những chú dẫn, phẩm bình một cách sơ
lƣợc về thơ văn Phạm Thái. Kiều Thu Hoạch trong tác phẩm Truyện Nôm Lịch sử phát triển và thi pháp thể loại (2007) đã tóm tắt truyện Sơ kính tân
trang. Tuy khơng đƣa ra những lý luận, nghiên cứu về truyện thơ này nhƣng
phần nào đã coi đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thể loại này.
Ngồi ra, có những tác phẩm bên cạnh việc giới thiệu tiểu sử, tác phẩm,
trích dẫn một vài tác phẩm thơ văn Phạm Thái còn có bƣớc đầu nhận xét về
nội dung, nghệ thuật, thể tài trong thơ văn ông nhƣ Việt Nam văn học sử giản
ước tân biên (tập 2), Phạm Thế Ngũ cũng có nhận định chung về nội dung thơ
6


văn Phạm Thái, nhận xét sơ lƣợc về Chiến tụng Tây Hồ phú, tóm tắt Sơ kính
tân trang, đề cập sơ lƣợc thể từ. Hay Lược khảo văn học Việt Nam từ khởi
thủy đến thế kỷ XX (2005), Bùi Đức Tịnh cũng có nêu hồn cảnh sáng tác bài
Chiến tụng Tây Hồ phú và tóm tắt truyện Sơ kính tân trang.
2.2 Nguồn thứ hai : Những bài viết, cơng trình có tính lý luận về Phạm Thái
Có thể kể đến nhƣ Phạm Thái, Sơ kính tân trang (1960) là cơng trình khảo
dị và hiệu đính rất cơng phu về tác phẩm Sơ kính tân trang. Cơng trình này đã
nêu ra đƣợc những thành công và hạn chế của tác phẩm này.
Trong Từ điển văn học nguồn gốc đến hết thể kỷ XIX, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Lại Nguyên Ân giới thiệu tiểu sử, tên tác phẩm chính và nhận
định thơ văn Phạm Thái.
Trong Văn học Việt Nam - nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX (1999) ở
chƣơng IV, Nguyễn Lộc có viết về tiểu sử Phạm Thái và tìm hiểu nội dung và

giá trị nghệ thuật tác phẩm Sơ kính tân trang.
Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường Phạm Thái - Nguyễn Công
Trứ - Cao Bá Quát (1999), (tuyển chọn và biên soạn), Nxb Giáo dục Vũ
Dƣơng Quý có nêu tiểu sử, giới thiệu các tác phẩm tiêu biểu, giới thiệu nét
lớn về nội dung và nghệ thuật thơ văn Phạm Thái. Trong đó có gợi ý phân
tích Cảnh chùa chiền (trong Sơ kính tân trang).
Tạp chí Văn học số 8 - 2000, Nguyễn Thị Nhàn có viết về Mơ hình kết cấu
truyện Sơ kính tân trang. Nguyễn Huệ Chi viết Nguyễn Huy Lượng và Phạm
Thái xung quanh bài phú Tụng Tây Hồ, in trong Gương mặt văn học Thăng
Long, Trung tâm hoạt động khoa học Văn miếu Quốc Tử Giám, Nxb H. 1994.
Trên Tạp chí văn học cũng có đăng bài của Đặng Thị Hảo bàn về Phạm Thái nhà thơ của mỗi thể loại, một tác phẩm tuyệt bút.
7


Trong Tự sự học (2003), Nxb Đại học Sƣ phạm, Trần Đình Sử chủ biên có
bài viết Kết cấu truyện Nôm của Đinh Thị Khang. Tác giả chỉ ra những ngoại
lệ của Sơ kính tân trang nhƣ lắp ghép hai truyện về hai cuộc tình trong một
cấu trúc tác phẩm, sử dụng mơ típ “tái thế tƣơng phùng” của dân gian để gắn
kết mối hận tình của cuộc đời thực và một mối tính trong mộng.
Về những cơng trình luận văn, nghiên cứu khoa học, có luận văn của thạc
sĩ Hồ Thị Kiều Chinh (Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) với đề
tài Phạm Thái trong dòng nhà nho tài tử. Ngồi ra cịn có luận văn của thạc sĩ
Trần Văn Đúng bàn về: Những đóng góp của Phạm Thái trong văn học Việt
Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Hai luận văn này
đã nghiên cứu một cách khá kỹ lƣỡng về những mảng đề tài trong sáng tác
văn chƣơng của Phạm Thái. Đồng thời, Trần Văn Đúng cũng chỉ ra những
đóng góp lớn của tác gia này ở hình thức thể hiện chia theo thể loại, từ ngữ và
giọng điệu.
Một cách khái quát có thể thấy, ở loại thứ nhất, chƣa có bất cứ một tổng
tập nào về Phạm Thái. Mà nếu nhƣ chúng ta làm phép liệt kê về mặt số lƣợng

tác phẩm thì Phạm Thái để lại cũng khơng ít. Ở loại thứ hai, các nhà nghiên
cứu gần nhƣ chỉ đi sâu vào phân tích hai tác phẩm tiêu biểu là Sơ kính tân
trang và Chiến tụng Tây Hồ phú mà bỏ qua những bài khác của ơng. Những
tác phẩm cịn lại ít đƣợc đề cập, ít đƣợc nghiên cứu đặc biệt là nghiên cứu
trong sự đối sánh với các tác giả viết cùng thể tài. Và hơn nữa là xâu chuỗi
các tác phẩm để làm rõ đƣợc con ngƣời và đóng góp cũng nhƣ xác lập đƣợc vị
trí của Phạm Thái. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu, phê bình cũng chƣa đi sâu
phân tích để nhìn nhận đƣợc tài hoa của Phạm Thái ở nhiều thể loại khác
nhau.

8


Tất cả những tài liệu nêu trên là nguồn tài liệu hữu ích giúp cho ngƣời viết
bắt đầu q trình tiếp cận và tìm hiểu đề tài của mình về Phạm Thái. Hƣớng
triển khai của luận văn sẽ kế thừa những phần của tác giả đi trƣớc, đồng thời
sẽ đi sâu hơn điều chƣa đƣợc nói tới, hoặc chƣa đƣợc đề cập một cách sâu sắc
và toàn diện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu là thơ văn Phạm Thái và
đặc điểm thơ văn của ông trong giai đoạn văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Bên cạnh đó, việc đƣa ra những tƣ liệu lịch sử
trong hƣớng nhìn đa chiều về triều đại Tây Sơn để lý giải cách ứng xử của
Phạm Thái là điều cần thiết. Trong đó, chúng tơi cũng cố gắng tập trung đƣa
ra những đối sánh với những nhà nho cùng thời của Phạm Thái nhƣ Nguyễn
Hữu Chỉnh, Nguyễn Huy Lƣợng, Nguyễn Du, Nguyễn Cơng Trứ,...Từ đó, để
đƣa ra một cách nhìn nhận mới hơn so với những nhận định trƣớc đó về
phƣơng thức ứng xử và nhân cách đạo đức của tác gia này. Sau đó, chúng tơi
sẽ đi sâu vào tất cả những tác phẩm của ông để thấy đƣợc những đặc điểm nổi
bật về nội dung và hình thức. Tất cả những nghiên cứu này sẽ ở thế so sánh,

đối chiếu với những nhà thơ cùng thời, trong cùng một thể loại để thấy đƣợc
những điểm mới và sự tài hoa trong sáng tác của Phạm Thái.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi vận dụng hƣớng tiếp cận văn hóa học cùng với các phƣơng pháp
thống kê, miêu tả, so sánh, phân tích, mong có đƣợc cái nhìn hệ thống và tồn
diện nhất về Phạm Thái.
Trong q trình nghiên cứu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy rằng văn
chƣơng nhà nho nói chung, đặc biệt là thơ Nơm Phạm Thái có mối liên hệ khá
mật thiết với văn học và văn hóa dân gian. Chính vì thế, việc áp dụng phƣơng
9


pháp nghiên cứu văn chƣơng dƣới góc nhìn văn hóa tỏ ra khá hữu ích. Chúng
tơi nhận thấy đây là phƣơng pháp đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu áp dụng
trong văn học trung đại. Vì thế chúng tơi cũng áp dụng phƣơng pháp này cho
cơng trình nghiên cứu của mình.
Để giải quyết vấn đề đặt ra một cách toàn diện, chúng tôi cũng áp dụng
phƣơng pháp nghiên cứu xã hội học. Bởi đặc thù của văn học nhà nho trong
thời điểm này, phần lớn phản ánh thực tế xã hội thay đổi. Hơn nữa muốn tìm
ra quy luật vận động của văn học nhà nho, chúng ta bắt buộc phải căn cứ vào
các yếu tố lịch sử, văn hóa, xã hội đƣơng thời. Hiện tƣợng này đƣợc các nhà
nghiên cứu rất chú trọng. Bởi thế chúng tôi áp dụng cả phƣơng pháp nghiên
cứu xã hội học để thực hiện công việc của mình.
Ngồi ra chúng tơi cũng kết hợp thi pháp học trong quá trình nghiên cứu
để khảo sát hệ thống thơ văn Phạm Thái. Nhìn chung tất cả những phƣơng
pháp trên đều tập trung vào việc tìm hiểu, phát hiện quy luật của tồn tại và
phát triển văn học qua một tác gia tiêu biểu đặt trong dòng chảy của lịch sử
văn học dân tộc.
5. Những đóng góp của luận văn
Qua luận văn này, chúng tôi mong muốn đƣa ra một sự nhìn nhận đúng

đắn và xác đáng về con ngƣời, nhân cách của nhà nho Phạm Thái trong xã hội
thời đó. Đồng thời, luận văn sẽ hệ thống hóa những quan điểm, đánh giá, phê
bình thơ văn Phạm Thái sau đó sẽ chỉ ra những đóng góp mới của ơng cả về
mặt nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Từ đây, chúng tơi mong muốn sẽ góp
phần mang lại giá trí đích thực của thơ văn Phạm Thái và xác định lại vị trí
xứng đáng của tác giả trong nền văn học nƣớc nhà.

10


6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, luận văn gồm nội dung chính có tất cả ba chƣơng. Trong
đó gồm:
Chương 1: Bối cảnh thời đại, tiểu sử, mơ hình nhân cách, quá trình sáng
tác và hình ảnh xã hội thời tao loạn qua sáng tác Phạm Thái
1.1 Bối cảnh thời đại, tiểu sử, mơ hình nhân cách, q trình sáng tác
1.1.1 Bối cảnh thời đại
1.1.2 Tiểu sử, mơ hình nhân cách
1.1.3 Quá trình sáng tác
1.2 Hiện thực xã hội đƣơng thời trong sáng tác Phạm Thái
1.2.1 Hình ảnh xã hội thời tao loạn và cuộc sống của ngƣời dân
1.2.2 Giai cấp thống trị, bộ máy quan lại
Chương 2: Chân dung người anh hùng thời loạn và khn hình tài tử
phong lưu qua sáng tác của Phạm Thái
2.1 Chân dung ngƣời anh hùng thời loạn qua sáng tác Phạm Thái
2.1.1 Phạm Thái là một nhà nho chính thống, đƣợc hƣởng chế độ giáo
dục phong kiến.
2.1.2 Con ngƣời ngông nghênh, kiêu ngạo, khinh bạc, thể hiện tƣ tƣởng
lớn nhƣng thƣờng cực đoan.
2.1.3 Ngƣời anh hùng bị thất bại trên con đƣờng chính trị nên gay gắt,

hằn học, thở than, trách móc.
2.2 Khn hình tài tử phong lƣu qua ngịi bút Phạm Thái
2.2.1 Lối sống “ngao du sơn thủy” tự do, phóng khống
11


2.2.2 Các thú vui tao nhã “bầu rƣợu túi thơ”, “cầm kỳ thi họa”.
2.2.3 Con ngƣời đa tình và tự do trong tình u.
Tiểu kết: Thơ văn Phạm Thái có những màu sắc tôn giáo khác nhau
Chương 3: Những đặc điểm và đóng góp về mặt nghệ thuật thơ văn Phạm
Thái
3.1 Một trong những ngƣời đi đầu trong việc cách tân thể thơ trữ tình
tiếng Việt, đƣa thể thơ này lên một cung bậc mới
3.2 Ngƣời đầu tiên viết truyện Nơm từ chính chất liệu của cuộc đời
mình. Truyện thơ này đã đạt tới thành công xuất sắc về mặt nội dung cũng
nhƣ nghệ thuật
3.3 Xem xét lại tác phẩm Chiến tụng Tây Hồ phú nhƣ một danh tác của
Phạm Thái
Cuối cùng là Kết luận và Tài liệu tham khảo.

12


CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH THỜI ĐẠI, TIỂU SỬ, MƠ HÌNH NHÂN
CÁCH, QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC VÀ HÌNH ẢNH XÃ HỘI THỜI TAO
LOẠN QUA SÁNG TÁC PHẠM THÁI
1.1 Bối cảnh thời đại, tiểu sử, mơ hình nhân cách, q trình sáng tác
1.1.1 Bối cảnh thời đại
Hậu bán thế kỷ XVIII là một trong những giai đoạn rối ren nhất và
cũng là một trong những giai đoạn hiếm hoi mà ngƣời Việt sau khi chịu đựng

những thay đổi lớn lao, thấy đất nƣớc lớn mạnh hơn, dồi dào sinh lực hơn
ngày trƣớc. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, biến cố tàn Lê, mạt Trịnh, sự phục hồi
của họ Nguyễn, tất cả đầy biến động chỉ trong một thời gian ngắn. Ở nửa đầu
thế kỷ XVIII, khi nhà nƣớc quân chủ của Lê - Trịnh ở Đàng Ngồi đã suy
thối, thì ở Đàng Trong nền thống trị của họ Nguyễn vẫn còn tƣơng đối ổn
định. Họ Nguyễn tiếp tục đẩy mạnh việc khai khẩn vùng đất phía Nam nhằm
củng cố cơ sở cát cứ và làm dịu bớt những mâu thuẫn xã hội. Nhƣng từ giữa
thế kỷ XVIII trở đi, do sự phát triển của những mâu thuẫn nội tại, nhà nƣớc
quân chủ ở Đàng Trong cũng mau chóng suy yếu. Nạn chiếm đoạt và tập
trung ruộng đất diễn ra khá mạnh ở Đàng Trong. Tình hình ngày càng nghiêm
trọng khi quan lại, địa chủ đua nhau tranh đoạt những thành quả khẩn hoang
của nông dân hoặc dùng uy thế chiếm ruộng tƣ của họ và lấn chiếm của ruộng
cơng làng xã.
Thêm vào đó, chế độ thuế khóa của chính quyền họ Nguyễn vốn đã rất
phức tạp. Các chúa Nguyễn thêm nhiều loại thuế để thỏa mãn nhu cầu xa xỉ
của tầng lớp quý tộc và bộ máy quan liêu cồng kềnh. Hàng năm có trăm thứ
thuế mà trƣng thu thì phiền phức gian lận, nhân dân thống khổ về nỗi một cổ
hai tròng. Một khi địa vị thống trị đã đƣợc củng cố, tầng lớp quý tộc ở Đàng
13


Trong ngày càng sống xa hoa, trụy lạc do của cải tích lũy đƣợc trong q trình
bóc lột nơng dân. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khốt (1738 - 1765) thì đời
sống xa hoa của tầng lớp thống trị lên đến cực độ. Sự thối nát của tầng lớp
thống trị ở Đàng Trong cùng với bộ máy quan liêu phình ra khủng khiếp từ
những năm 60 của thế kỷ XVIII. Chỉ trong một xã có vơ số chức sắc làm nạn
mua quán bán tƣớc phổ biến, số quan lại ngày một tăng thêm. Sức sản xuất bị
kìm hãm, đời sống nhân dân lầm than cơ cực. Thêm vào đó là nạn mất mùa
đói kém từ năm 1769, trong khoảng 5 năm liền, nạn đói xảy ra liên tiếp.
Với ý đồ biến Đàng Trong thành một quốc gia riêng biệt, đối lập hẳn

với Đàng Ngồi, năm 1774, Nguyễn Phúc Khốt tự xƣng vƣơng, tự tổ chức
chính quyền theo quy cách một triều đình và gọi thành Phú Xn là “đơ
thành”. Họ Nguyễn còn bắt dân Đàng Trong phải thay đổi phong tục tập quán,
ăn mặc theo lối nhà Thanh, mƣu tính việc cát cứ lâu dài. Sang nửa sau thế kỷ
XVIII, những mâu thuẫn chứa chất trong xã hội Đàng Trong ngày một gay gắt
dẫn đến những cuộc nổi dậy của nông dân và các dân tộc thiểu số, kể cả
thƣơng nhân. Trƣớc khi nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, nhân dân các dân tộc
dọc Trƣờng sơn và vùng Tây Nguyên đã nhiều lần nổi dậy. Ở miền xuôi cũng
đã xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ mà cuộc khởi nghĩa của Lía ở Quy
Nhơn có quy mơ to hơn cả, ảnh hƣởng sâu rộng trong nhân dân. Những cuộc
đấu tranh lẻ tẻ trên chỉ mới là phần giáo đầu, chuẩn bị cho một cuộc khởi
nghĩa nông dân to lớn và mãnh liệt là khởi nghĩa Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa
bắt đầu nổ ra ở ấp Tây Sơn năm 1771 do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Sau 17 năm (1771 - 1788) kể từ ngày bùng lên ở
Quy Nhơn, cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn đã nhanh chóng tiêu diệt các
thế lực thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê chia cắt đất nƣớc gây nội chiến tƣơng tàn.
Một chiến công hiển hách nữa của triều đại Tây Sơn là đại phá quân Thanh.
Sau sự kiện này, Quang Trung nhìn thấy vấn đề cấp thiết trƣớc mắt là phải
14


nhanh chóng giải quyết tình trạng ruộng đất bỏ hoang, tận dụng sức lao động
vào sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở đó mà bƣớc đầu phục hồi nền kinh tế
tiểu nông đang bị phá hoại nghiêm trọng.
Nhƣ vậy, chỉ trong vài năm đã thay đổi đến bảy đời vua, trong vịng hai
mƣơi năm đã có biết bao thăng trầm, hƣng phế chớp nhoáng của bao nhiêu
triều đại, vọng tộc, thơn xóm, thị thành, thân phận con ngƣời. Giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn mà con đƣờng chính trị
của các tầng lớp nho sĩ có sự phân hóa chƣa từng có trong lịch sử trung đại
Việt Nam. Họ phải đắn đo lựa chọn xem theo Tây Sơn hay trung thành với

vua Lê - chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Đến khi Nguyễn Ánh thắng lợi một lần
nữa họ phải lựa chọn con đƣờng chính trị cho riêng mình.
1.1.2 Tiểu sử, mơ hình nhân cách
Phạm Đan Phƣợng còn gọi Phạm Thái, Phạm Phƣợng Sinh, hiệu Chiêu
Lì (hoặc Chiêu Lỳ); là một danh sĩ trong lịch sử Việt Nam. Ông sinh ngày 19
tháng Giêng năm Đinh Dậu (26 tháng 2 năm 1777) trong gia đình quý tộc, tại
làng Yên Thị, xã Yên Thƣờng, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc
Gia Lâm, Hà Nội). Cha ông là Trạch Trung hầu Phạm Đạt, một võ tƣớng cao
cấp đời Cảnh Hƣng. Khi Tây Sơn tiến ra bắc, Trạch Trung hầu mộ binh chống
lại. Nhƣng trƣớc khí thế mạnh nhƣ nƣớc vỡ bờ của quân đội Tây Sơn, “nghĩa
binh” của Trạch Trung hầu đã hoàn toàn bại trận. Trạch Trung hầu qua đời
khi Phạm Thái 20 tuổi. Gia đình Phạm Thái do việc thất trận của Thạch Trung
hầu mà ly tán. Sự kiện này đã ảnh hƣởng rất nhiều tới tâm lý Phạm Thái.
Đồng thời chính những sự kiện này cũng đã quyết định những cách cƣ xử về
con đƣờng chính trị cũng nhƣ ảnh hƣởng đến nhân cách của Phạm Thái về
sau.

15


Nối chí cha, năm 20 tuổi, Phạm Thái đi ngao du nhiều nơi để tìm và kết
giao với ngƣời cùng chí hƣớng. Ơng gặp Nguyễn Đồn rồi cùng nhau chống
Tây Sơn, nhƣng khơng thành cơng. Tƣơng truyền Phạm Thái có soạn bài
Quân yếu bàn luận thế đánh. Khi Nguyễn Đoàn bị giết thì Phạm Thái phải
trốn đi. Bị truy nã, ông cắt tóc, đội lốt nhà sƣ, vào tu ở chùa Tiêu Sơn (tức
chùa Thiên Tâm nằm trên lƣng chừng núi Tiêu, nay thuộc xã Tƣơng Giang,
huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đặt đạo hiệu là Phổ Chiếu Thiền sƣ. Trong
thời gian này, Phạm Thái đã soạn mấy bài văn phả khuyên giáo lấy tiền, gạo
sửa chữa chùa. Đồng thời cùng với trụ trì, ơng tiếp tục lên kế sách về việc phù
Lê.

Đi tu đƣợc mấy năm, thì bạn ơng là Thanh Xuyên hầu Trƣơng Đăng
Thụ (ngƣời làng Thanh Nê, thuộc huyện Kiến Xƣơng, trấn Sơn Nam, nay
thuộc tỉnh Thái Bình), đang làm quan ở Lạng Sơn, cho ngƣời đón ông lên
đấy, tính chuyện chống Tây Sơn. Một năm sau, khi ơng trở về Kinh Bắc thăm
nhà, thì đƣợc tin Trƣơng Đăng Thụ bị đại thần Vũ Văn Dũng đầu độc chết, và
đang đƣợc đem về chôn cất ở quê nhà. Phạm Thái liền đến làng Thanh Nê
điếu tang bạn. Ở đây, ông đã giúp nàng Long Cơ (vợ Thanh Xuyên hầu) soạn
Văn triệu linh gọi hồn chồng, làm Văn bia mộ Thanh Xuyên hầu và viết Lời
đề nhà Nghĩa lư.
Vì yêu nết, trọng tài, Kiến Xƣơng hầu Trƣơng Đăng Quỹ (cha Thanh
Xuyên hầu) đã mời Phạm Thái ở lại để làm gia sƣ dạy trẻ. Nhờ vậy, Phạm
Thái quen đƣợc em gái bạn là Trƣơng Quỳnh Nhƣ. Họ cùng xƣớng họa thơ
văn, rồi thầm yêu nhau. Cảm phục tài thơ của Phạm Thái, Kiến Xƣơng hầu
định gả con cho ơng, nhƣng ngƣời mẹ khơng bằng lịng, vì muốn gả cho một
ngƣời khác. Bị ép gả, Quỳnh Nhƣ tự tử, cịn Phạm Thái cũng vì q đau xót,
đã rời bỏ nơi đó đi lang bạt. Qng đời cuối của ơng là những trận rƣợu say li
bì, là những bài thơ văn bi quan và yếm thế. Năm 1802, chính quyền Tây Sơn
16


bị diệt vong trƣớc sự phản công của Gia Long. Giấc mơ phù Lê của Phạm
Thái từ đây chính thức khơng thực hiện đƣợc. Ơng ngậm ngùi mà nói về cuộc
đời mình:
Ngày tháng trơi như bóng thoảng nhanh
Cơng lao, sự nghiệp phú tan tành
Phạm Thái mất khi tuổi đời chƣa qua hết lúc 37 tuổi tại Thanh Hóa (1813)
chơn vùi cả giấc mơ lớn còn chƣa thực hiện đƣợc, bao uất ức và cả một nỗi
niềm tiếc thƣơng khuôn nguôi vì tình u khơng thành.
Nhìn chung chƣa có một giai đoạn nào rối ren và phức tạp nhƣ giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XIX. Trong thế kỷ nông dân khởi nghĩa,

thế kỷ mà bao điều chủ chốt của Nho giáo đã bị gỡ bỏ. Trƣớc hiện thực vĩ đại
khắc nghiệt, Phạm Thái cũng nhƣ bao kẻ sĩ đồng thời hoang mang, lúng túng
trƣớc con đƣờng chính trị đồng thời nhiều lúc cũng dao động, bế tắc cùng
đƣờng. Nhƣ phần đầu ngƣời viết đã nói đến có rất nhiều ý kiến tiêu cực về
thái độ chính trị của Phạm Thái chỉ vì trƣớc sau nhƣ một ông đã ôm lấy cái
ƣớc mơ phù Lê, chống Tây Sơn của mình. Trong khi đó lịch sử đã đánh giá
Tây Sơn là triều đại tiến bộ và xác lập đƣợc vị thế của mình. Xuất phát từ một
loạt sự kiện gọi là “công thần” của Tây Sơn đối với việc thống nhất đất nƣớc,
dẹp giặc ngoại xâm và những chính sách của vua Quang Trung nhằm phát
triển kinh tế, khơi phục đất nƣớc.
Do đó những sự nghiệp về văn học của Phạm Thái cũng bị phủ nhận bởi
“nội dụng thể hiện tư tưởng phản động chống cuộc khởi nghĩa Tây Sơn” [6,
tr.203]. Nhƣng chúng ta cần phải nhìn nhận lại về nhân cách cũng nhƣ thái độ
ứng xử của Phạm Thái khi mà đến nay lịch sử đã một sang trang mới. Cùng
với đó chúng ta cũng nên có một sự ngối lại cơng bằng mà khơng có định
kiến chính trị. Cái đáng quý ở Phạm Thái là trong lúc những ngƣời khác có
17


thể nhanh chóng thay thầy đổi chủ thì ơng vẫn trung với vua hết mực dù đã
qua hai triều đại kế tiếp nhau là Tây Sơn và nhà Nguyễn (Gia Long).
Trƣớc hết, có thể thấy Phạm Thái sinh ra trong một gia đình q tộc,
thuần Nho. Từ nhỏ ơng đã đƣợc giáo dục những tƣ tƣởng cốt yếu của Nho
giáo đặc biệt là tƣ tƣởng trung quân “trung thần bất nhị quân”. Nền giáo dục
Nho giáo bộc lộ nhiều sự bảo thủ và cứng nhắc đã ảnh hƣởng nhiều tới con
ngƣời Phạm Thái. Việc Nho giáo đƣợc lựa chọn và trở nên học thuyết ý thức
hệ độc tôn kéo dài hơn hai ngàn năm trong lịch sử chính trị Trung Quốc, hàng
nghìn năm trong lịch sử chính trị Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam đã tạo ra áp
lực khổng lồ, đe nén và ngăn chặn có hiệu quả mọi định hƣớng dân chủ hóa
chứ đừng nói đi ngƣợc lại cả một triều đại. Một mẫu nhà nho truyền thống đã

hằn sâu tƣ tƣởng này là điều dễ hiểu và lý giải cho những ứng xử của Phạm
Thái. Điều đó chứng minh nhân cách đáng quý, trong sạch hơn là bị gọi là
bảo thủ, lạc hậu và phản động. Hơn hết trong xã hội loạn lạc, khi tuổi đời cịn
mới đơi mƣơi ông đã chứng kiến cảnh ngƣời nông dân Nguyễn Huệ phá tan
mộng cơng danh sự nghiệp của mình và nhìn thấy rất rõ sự thất bại thảm hại
của cha mình và hệ quả là gia đình tan nát. Cho nên những tổn thƣơng về mặt
tâm lý đó đã hằn lên tƣ tƣởng chống Tây Sơn của Phạm Thái dù thời thế đã
thay đổi. Tây Sơn đã trở thành ngọn cờ đầu của phong trào nông dân, lập nên
một triều đại mới. Khi một vƣơng triều phong kiến cắm rễ bao năm qua đã đi
vào hoài niệm, tâm thế của con ngƣời ấy vẫn còn nuối tiếc và thiết tha phục
hồi nó.
Cho nên từng có rất nhiều ý kiến, cơng trình nghiên cứu về nhân vật lịch
sử này, nhƣng thủy chung, lời giải đáp rốt ráo, phẩm bình về Phạm Thái, về
lập trƣờng chính trị - xã hội của Phạm Thái vẫn là phản động. Đa số cho rằng
Phạm Thái khơng có đƣợc cái nhìn thức thời và tiến bộ nhƣ Ngơ Thì Nhậm,
Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lƣợng vì đã thuận theo lịch sử. Nhƣng sự hƣng
18


phế của một triều đại và sự đánh giá “tiến bộ” thì cịn đƣợc xem xét ở thế đa
diện. Khoảng mƣơi lăm năm trở lại đây, trong khoa học xã hội ở ta, tuy chƣa
xuất hiện những cơng trình nghiên cứu ghi dấu những bƣớc đột phá, nhƣng
nhiều vấn đề phong phú, phức tạp đã đƣợc đặt lại một cách nghiêm túc, khách
quan hơn, nhiều vấn đề mới cũng đƣợc đặt ra để suy nghĩ. Giữa những vấn đề
thuộc lịch sử Việt Nam, đƣợc nêu ra hoặc đƣợc đặt lại ấy, có việc xem xét, đánh
giá lại vai trị của một số vƣơng triều hay thế lực chính trị.
Theo Giáo Sƣ Trần Ngọc Vƣơng trong Thực thể Vệt nhìn từ các tọa độ
chữ: “Hệ quả lớn thứ ba của lƣỡng đầu chế Lê Trịnh nhƣ phần trên ít nhiều đã
nghị bàn, là sự xuất hiện liên miên không dứt của những cuộc nổi loạn “trên
mọi miền Tổ quốc”. Cả một thời kỳ dài trƣớc đây, giới sử học định danh cho

phần lớn những cuộc nổi loạn này là “khởi nghĩa nông dân”, gắn cho chúng
những ý nghĩa to tát về đấu tranh giai cấp, thậm chí là cách mạng xã hội.
Chúng tơi cũng chƣa có điều kiện bàn sâu về loại hiện tƣợng này ở đây, chỉ
xin nêu ngắn gọn rằng thật khó mà chia sẻ cái lịch sử quan đó, bởi phần lớn
những cuộc “khởi nghĩa” này đều có quá trình hình thành rất giống với sự
hình thành của những ổ nhóm tội phạm trong mọi thời đại, con đƣờng chung
mà các thủ lĩnh của các tập hợp này trải qua - nếu họ may mắn tiến xa đƣợc
trên quỹ đạo đó - đó là từ đại ca thành đại vƣơng, và cục diện phổ biến mà họ
tạo ra chính là thứ mà sử gia gọi là “loạn thế”, sử gia nay gọi là “thế kỷ bão
táp của cuộc khởi nghĩa nông dân” [57, tr. 135]. Từ đây, ngƣời viết sẽ đi theo
định hƣớng này để chỉ ra nếu nhƣ đánh giá Tây Sơn là một triều đại tiến bộ và
Phạm Thái là ngƣời phản động thì sẽ tạo ra oan ức biết bao cho nhân cách ấy.
Sự kiện quan trọng nhất xảy ra trong lịch sử Đại Việt vào giữa hậu bán
thế kỷ XVIII là “loạn Tây Sơn”. Từ trƣớc khơng phải khơng có những ngƣời
thƣờng dân lên làm vua, dựng nên một triều đại mới, nhƣng họ lập nghiệp
bằng cách đánh đuổi giặc ngoại xâm, hoặc bằng cách phụ tá triều đại trƣớc,
19


mang quan tƣớc của dịng họ này rồi tìm cách sốn đoạt (Trần, Mạc). Chỉ
riêng có anh em Tây Sơn truất quyền các triều đại có mặt bằng mƣu mơ binh
lực, đem vào lịch sử những tên ngƣời nông dân và cả những kẻ sống ở ngồi
vịng pháp luật. Tây Sơn là vùng đất thuộc phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam.
Thời các chúa Nguyễn, dinh Quảng Nam vốn là một miền trù phú nhƣng cũng
là khu vực chịu tô thuế hà khắc. Nạn chiếm đoạt ruộng đất cùng với thuế khóa
nặng nề là nguyên nhân quan trọng làm cho dinh Quảng Nam từ một trung
tâm kinh tế giàu có vào bậc nhất ở Đàng Trong sớm trở thành trung tâm của
phong trào nổi dậy chống áp bức cƣờng quyền. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu nổ ra
ở ấp Tây Sơn năm 1771 do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn
Lữ lãnh đạo. Thuở nhỏ, ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ có theo học ơng giáo Hiến,

một nho sĩ bất mãn với chế độ họ Nguyễn, về mở trƣờng dạy học. Riêng
Nguyễn Nhạc đã từng đi buôn trầu ở miền núi mang về xi bán. Có nhiều tài
liệu trong sử sách còn ghi Nguyễn Nhạc đã từng làm biện lại ở đất Vân Đồn,
gá bạc, tiêu lạm tiền thuế, bị Đốc trƣng Đằng đòi hỏi gắt gao mới trốn vào
rừng tụ đảng ăn cƣớp. Nguyễn Nhạc có lực lƣợng phối hợp lớn lao là chúng ta
căn cứ vào tính chất cƣ dân trong vùng. Nguyễn Nhạc nhanh chóng tập hợp
lực lƣợng này khi nêu cao khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho ngƣời
nghèo” và ban đầu khi phản kháng thì chỉ tụ tập đƣợc đám ngƣời Thƣợng trên
một vùng núi. Vùng này còn khối di dân Trung Hoa sinh sống nhƣ một tập
thể tự trị, nhƣng vẫn chịu dƣới quyền nhà Nguyễn. Chính quyền tập hợp họ
thành từng “thuộc”. Họ sống bên lề một ít trong đất nƣớc thu nhận họ, phần
lớn là dân lƣu vong nằm trong các tổ chức hội kín ít chịu dung hợp với chính
quyền. Nhƣng ngay cả tập thể ngƣời Việt cũng có một phần lớn thốt ra ngồi
kỷ cƣơng của triều đình: những ngƣời lên rừng, xuống biển trao đổi phẩm vật,
những ngƣời làm thuê, gặt hái theo vụ mùa khác nhau của lúa núi, lúa đồng,
những kẻ trốn xâu lậu thuế… Vào những lúc rảnh rỗi, tất cả đều tụ tập quanh
20


chiếu bạc, nơi đám hát. Triều đình khơng thể nào kiểm sốt đƣợc đám dân
“vong mạng, vơ lại” này. Cho nên dƣới triều Nguyễn Nhạc có bọn cƣớp
Nhƣng Huy, Tứ Linh ở nguồn An Tƣợng. Không ngạc nhiên với đám quân
của Tập Đình, Lý Tài “ngƣời cao lớn, gọt đầu kết tóc, giả làm ngƣời Thanh,
khi đánh giặc, uống rƣợu say ở trần, đeo giấy vàng bạc xung trận liều mình”.
(Thực lục tiền biên).
Về sau, khi phong trào Tây Sơn lớn mạnh hơn thì lại xảy ra những cuộc
tranh chấp “nồi da nấu thịt” giữa anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc.
Trong đám binh lính Tây Sơn có kẻ ngả về phe này, có kẻ ngả về phe kia, nên
ngồi chiến tranh chính thức, Nhạc và Huệ cịn lo thanh toán nội bộ. Nhiều
phe phái khác nhau, trong cuốn Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802,

tác giả có viết: “ Đó là tập hợp hỗn độn những ngƣời Mƣờng, Man di và các
ngƣời mọi khác nhƣ Cao Miên, Cambien, và Xiêm. Quân tƣớng chui rúc ở
các chùa, vứt lăn lóc các tƣợng thần Phật khơng ngại ngùng gì hết, bởi vì
khơng phải thần của họ” [49, tr.51]. Tây Sơn, cả Nhạc lẫn Huệ đều cần tiền.
Nhạc đòi vàng đất Bắc, Huệ cố giữ và nhân đã có mâu thuẫn cũng muốn
chiếm luôn kho vàng ở Quy Nhơn. Nguyễn Huệ kéo quân ra Quy Nhơn với số
lƣợng quân lớn. “Ông bắt tất cả mọi ngƣời phải ra trận”, tức là tất cả mọi
ngƣời “từ 15 đến 60 tuổi”. Cho nên vùng Thuận hóa, nhà thờ biến thành trại
lính, tƣợng thần Phật bị lấy ra đúc súng, đại bác, đúc nồi. Có nhiều sử sách
ghi lại và điều khơng thể phủ nhận là nƣớc Việt cũng đã bị tổn hại rất nhiều
những giá trị văn hóa tinh thần, những di sản bằng vật chất ở triều đại Tây
Sơn.
Lịch sử Tây Sơn rốt cuộc lại là những cuộc chiến liên tiếp và những
chiến thắng vang dội. Mọi cơng tích có vẻ nhƣ dễ dàng giải thích bằng cách
trút cho Nguyễn Huệ tài ba của các trận chiếm đất Bắc, chống xâm lƣợc sau
này. Đến thời bình, Nguyễn Huệ đƣợc đánh giá cao bởi những chính sách ơng
21


đƣa ra nhằm cải thiện đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế đất nƣớc.
Không thể phủ nhận, đây là những chính sách vơ cùng tiến bộ và có hiệu quả
tuy nhiên khơng phải là khơng có hạn chế. Giáo sƣ Phan Huy Lê trong cuốn
Tìm về cội nguồn đã nhận xét: “Trên lĩnh vực xây dựng, Quang Trung cũng
gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Thời gian thực hiện quá ngắn ngủi. Các thế
lực cũ chống đối điên cuồng. Trong nhận thức và chính sách cụ thể, nói chung
Quang Trung cũng chƣa vƣợt ra đƣợc những khuôn mẫu cũ. Quang Trung vẫn
muốn củng cố chế độ ruộng đất công của làng xã, buộc nông dân trở về
nguyên quán, chƣa mạnh dạn phát triển chế độ tƣ hữu ruộng đất và mở rộng
quan hệ giao thƣơng với nƣớc ngoài, tiếp nhận thành tựu khoa học tiên tiến
của thế giới. Về văn hóa giáo dục, vẫn trói buộc trong khn mẫu Nho giáo

đã lỗi thời. Vì vậy những chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa của Quang
Trung khó có cơ sở để coi là những cải cách theo hƣớng đầy đủ của nó và
chƣa có khả năng đƣa đất nƣớc đến những thay đổi căn bản hay mở đƣờng
một cuộc duy tân kiểu Minh Trị mà có ngƣời đã nêu lên” [22, tr.655]. Những
ý kiến này có thể thấy tác giả đặt cho Quang Trung những yêu cầu vƣợt quá
hiện thực của bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Tuy nhiên khơng
thể phủ nhận những chính sách này của Quang Trung chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn, ở một phạm vi hẹp và chỉ ở một bộ phận ngƣời dân.
Từ những viện dẫn ở trên, có thể thấy triều đại Tây Sơn khơng thể hồn
tồn trọn vẹn là một cuộc tổng khởi nghĩa nông dân vĩ đại, lý tƣởng, gắn cho
chúng những ý nghĩa to tát về đấu tranh giai cấp, thậm chí là cách mạng xã
hội. Cho nên khó có thể nói nếu Phạm Thái không theo Tây Sơn là bảo thủ và
không tiến bộ. Chỉ sống ở thời đại đó, mới thấy hết những cảm quan thời đại
và những lối ứng xử chính trị - xã hội chỉ nói lên định hình nhân cách mà
không thể quy chụp về lối tƣ tƣởng, sai lầm nhƣ lịch sử quy kết. Xã hội Phạm
Thái sống bị hỗn loạn tận gốc rễ, nhất là về ý thức hệ. Hồi đó trí thức nho sĩ
22


×