Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tiểu luận cao học đẩy MẠNH CÔNG tác NGHIÊN cứu lí LUẬN của ĐẢNG và QUÂN đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.95 KB, 20 trang )

ĐẨY MẠNH CƠNG TÁC NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN,
TỔNG KẾT THỰC TIỄN CỦA ĐẢNG VÀ QUÂN ĐỘI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chủ nghĩa Mác ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX và nhanh chóng
được truyền bá vào phong trào công nhân, đặc biệt ở các nước tư bản chủ nghĩa
Châu Âu. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Nga, Lênin tiếp thu, bổ xung, phát
triển chủ nghĩa Mác trên tất cả các lĩnh vực và vận dụng lãnh đạo thành công
cách mạng tháng mười Nga, thiết lập nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới.
Đến giữa những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã truyền bá
chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Ở Việt Nam, lí luận chủ
nghĩa Mác - Lênin đã nhanh tróng kết hợp với phong trào cơng nhân và phong
trào yêu nước tạo ra sự chuyển hướng căn bản cho con đường đấu tranh giành
tự do và độc lập cho nhân dân và dân tộc Việt Nam, sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là mốc quyết định, đánh dấu sự chuyển hướng ấy. Nắm vững
lập trường, quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan
tâm đến việc nghiên cứu lí luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng
Việt Nam; học tập có chọn kinh nghiệm của các Đảng anh em. Đảng ta đã xác
định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, thích hợp với điều kiện hoàn
cảnh một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến để tiến hành cách mạng giành
độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận chính là nguồn gốc của đường lối
cách mạng đúng đắn, là cơ sở của phong trào cách mạng. Nghị quyết hội nghị
lần thứ 5 của BCHTW Đảng khoá IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác
của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” đã chỉ rõ: Trong những
năm tới phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ
hơn nữa về nhận thức về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Hội nghị nhấn mạnh: Phải coi trọng tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu
lý luận và cả trong hoạt động của các cấp uỷ đảng, coi tổng kết thực tiễn là


2



2

nhiệm vụ thường xuyên của các cấp các ngành, gắn nghiên cứu thực tiễn
Việt Nam với tiếp thu có trọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại.
Đây là nội dung rất quan trọng, một nhiện vụ trọng yếu của Đảng ta và
của quân đội trong giai đoạn các mạng hiện nay.
1. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và Những vấn đề
đặt ra đối với công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng và
quân đội ta.
1.1. Vai trò của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và quân đội.
Vai trò lý luận và tổng kết thực tiễn
Hoạt động của con người khác loài vật ở chỗ, là hoạt động có mục đích,
làm việc gì cũng phải có ý thức, có sự suy tính, có định hướng trước và cao
hơn nữa là có sự dẫn dắt của lý luận. Nhờ có lý luận đúng giúp cho con người
có khả năng đánh giá xem xét mọi sự vật hiện tượng một cách khách quan,
khoa học, nắm chắc được bản chất, nhận thức đúng chiều hướng và quy luật
phát triển của chúng. Từ đó để xác định những chủ trương, biện pháp phù
hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình. Làm cách mạng là
đổi cái cũ ra cái mới, là một hoạt động khó khăn, phức tạp, ở trình độ cao, cho
nên lại càng cần phải có lý luận soi đường. Lênin đã khảng định: “Khơng có
lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng”, “chỉ Đảng nào
được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai
trị chiến sĩ tiên phong”. Hồ Chí Minh nói: Đảng mà khơng có lý luận dẫn
đường thì “cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ
ra rằng, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận, xét tới cùng, là từ thực tiễn mà
đúc kết, khái qt nên. Khơng có thực tiễn thì khơng có lý luận. Lý luận và

2
2


3

3

thực tiễn có mối quan hệ hữu cơ biện chững với nhau, ln ln gán bó với
nhau và thường xun tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai
trị là cơ sở. Bởi vì, thực tiễn, hiểu một cách khái quất nhất, đó là hoạt động
của con người, đồng thời đó cũng là hoạt động cải tạo - cách mạng của các
lực lượng xã hội nhằm làm biến đổi thế giới.
Còn lý luận là cái phản ánh thực tiễn. Lý luận được thể hiện dưới dạng
hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối
hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách
quan. Nói cách khác, lý luận là kinh nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong
trong ý thức của con người, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có
tác dụng tái hiện trong lơgích của các khái niệm cái lơgích khách quan của
hiện thực mà nó phản ánh.
Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ để kiểm chững tính
đúng đắn của lý luận. Mọi lý luận rốt cuộc đều phải đối diện với thực tiễn và
được kiểm chứng trong thực tiễn. Tác dụng và sức sống của lý luận phụ thuộc
vào khả năng của chính nó trong việc khái quất bản chất của hiện thực khách
quan từ vô số các hiện tượng cụ thể; phụ thuộc chỗ nó tạo ra sự tiến bộ của
lịch sử, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, và tựu trung lại là để
tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Lý luận phản ánh hiện thực khách quan và được nảy sinh trong những
điều kiện lịch sử nhất định, cho nên các khái niệm, các phạm trù lý luận đều
mang tính lịch sử. Sự phát triển của hiện thực và sự thay đổi của điều kiện

lịch sử tất yếu đòi hỏi lý luận cũng cần được bổ sung và phát triển theo, và
nhờ thế mà lý luận khoa học sẽ ngày càng trở nên phong phú hơn chính xác
hơn. khơng nên biến các nguyên lý lý luận thành các giáo điều kho cứng, máy
móc. Điều cơ bản hơn là rút ra tư đó những gia trị về phương pháp luận. Nếu
coi những khái niệm, những mệnh đề lý luận là khuôn mẫu của mọi hiện thực
3

3


4

4

để từ đó bắt hiên thực phải vận động theo một cách máy móc thì sẽ phạm
những sai lầm tai hại. Nó khơng những chỉ làm cho lý luận bị thui chột, trở
nên khơ héo mà có khi cịn kìm hãm, thậm chí cịn kéo lùi tiến bộ của lịch sử.
Căn cứ để nghiên cứu xây dựng và phát triển lý luận chính là xuất phát từ thự
tiễn, phải tìm trong thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn. Hồ Chí
Minh đã nói: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lí luận sng”T8,tr496
Ở trong nước, cũng như trên thế giới đã chứng minh hùng hồn rằng lý
luận có ảnh hưởng rất lớn đến thành công hay thất bại của phong trào cách
mạng, một cuộc cách mạng.
Nhìn vào thực tiễn đất nước trong những năm gần đây, có thể nhận thấy
nếu khơng nghiên cứu lý luận, khơng tổng kết thực tiễn thì chắc chắn khơng
thể có lý luận đổi mới, khơng thể có đường lối đổi mới đúng đắn. cũng giống
như khơng có sự chỉ đạo của lý luận, khơng có lý luận đổi mới đúng đắn thì
khơng thể có thực tiễn đổi mới thành công.
Nước ta đã từng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xx hội hết sức tầm

trọng trong những năm cuối thập kỷ 70, dàu thập kỷ 80 của thế kỷ XX: sản
xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vaay cám vận về kinh tế,
đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lịng tin của quần chúng đối với sự
nghiệp lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước giảm
sút. Tình trang đó một phần là do những nguyên nhân khách quan, song về
chủ quan là do trong thời gian đó, chúng ta dã phạm những sai lầm nghiệmm
trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chién lược và tổ
chức thực hiện. Căn nguyên của những si lầm ấy, là bệnh giáo điều, chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành đơng giản đơn, nống vội, sự ấu trĩ, lạc
hậu về nhận thức lý luận, không chú ỹ đầy đủ dến viẹc tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu phát triển lý luận.
4

4


5

5

Đại hội VI (12/1986) là cột mốc dấnh dấu bước chuyển quan trọng về
nhận thức ttổng kết thực tiễn , nghiên cứu phát triển lý luận,, Với phương
tram nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thâtk, nói rõ sự thật, từ việc
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và “Điều quan trọng là phải coi trọng công tác
lý luận nhằm cung cấp nội dung khoa học cho việc đổi mới tư duy” 1. Đại hội
VII (6/1991) tiếp tục tổng kết thực tiễn, tổng kết kết quả đươnngf lối đỏi mới,
trên cơ sở đó đề ra “cương klĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” và “chién lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000”. Đại hội VIII (6/1996) đã đánh giá thấu đáo tình hình đất nước và nhận
định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xa hội ở nước ta ngày càng được xác

định rõ hơn”. “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối
đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng dịnh hướng xã hội
chủ nghĩa”. Đại hội IX của Đảng (4/2001) trên cơ sở tổng kết thực tiễn sau
15 năm đổi mới đã bổ xung, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hoàn thiện thêm
một bước những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Như vậy, rõ ràng là cho tới đại hội Đảng IX, nhận thức của
chúng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước tya theo tinh thần đổi
mới đã từng bướ được xác lập và hồn thiện. Đó là kếtư quả tổng kết thực tién
nghiên cứu lý luận, xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống cuat xã hội Việt Nam,
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói,
sự đổi mới tư duy, đi sâu nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn là kâu đột
phá của Đảng ta.
Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
đảng”. Người yêu cầu huấn luyện cán bộ phải tồn diện, bao gồm bồi dưỡng
cả nghề nghiệp, văn hố, chính trị, lý luận, quân sự. Nhưng theo Hồ Chí
Minh, trong việc bồi dưỡng cán bộ thì việc bơì dưỡng lý luận chính trị là quan
trọng. Bác coi đây là cái hồn của việc huấn luyện cán bộ. Bác viết: “Vì kém lý
1 Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốcc lần thứ VI,Nxb. Sư
thật, Hà Nội, 1997, tr.126.

5

5


6

6

luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng,

sử trí cho khéo. Khơng biết nhận rõ điều kiện hồn cảnh khách quan, ý
mình nghĩ thế nào làm thế ấy, kết quả thường thất bại” và “khơng có lí
luận thì như nhắm mắt mà đi”. thậm chí nếu khơng có lý luận đúng đắn thì
hoạt động của người cán bộ có thể trở thành hành động phá hoại sự nghiệp
cách mạng của Đảng. Thực tế trong nước cũng như trên thế giới đã chứng
minh hùng hồn rằng lý luận có ảnh hưởng rất lớn đến thành công hay thất bại
của phong trào cách mạng, một cuộc cách mạng.
Đối với Đảng Cộng sản, lý luận cách mạng chính là cái cốt của Đảng,
là yếu tố đầu tiên phải có để tập hợp, giác ngộ giáo dục quần chúng; để tổ
chức xây dựng Đảng. Đảng là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của của giai
cấp cơng nhân. Vì vậy, Đảng phải được vũ trang bằng lý luận tiện phong. Có
như vậy mới nâng cao được trình độ trí tuệ của Đảng. V.I.Lênin viết “khơng
có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng” và “chỉ
Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
trịn vai trị người chiến sĩ tiên phong”. Hồ Chí Minh đã khảng định: “Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, Đảng mà khơng có chủ nghĩa
làm cốt như người khơng có trí khơn, tầu khơng có bàn chỉ nam”.
Mọi lý luận chân chính đều bắt đầu từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn và
trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận xét tới cùng là thực tiễn khái quát, đúc rút
nên. Hồ Chí Minh cho rằng “lý luận do kinh nghiệm ở các nước và trong
nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp, phân
tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành lý luận”. Lý luận cốt là để áp
dụng vào thực tiễn, là kim chỉ nam cho hành động; soi đường dẫn dắt chỉ đạo
thực tiễn.
Tuy nhiên do tính dán tiếp và trừu tượng hoá cao trong việc phản ánh
hiện thực nên lý luận có thể xa rời thực tiễn, trở thành giáo điều. Vì vậy, lý
6

6



7

7

luận nhất định phải liên hệ với thực tiễn, phải thơng qua thực tiễn để kiểm
nghiệm tính đúng đắn. lý luận phải được đem ra thực hành, nhnwng thực hành
phải tuân theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của lý luận. Lý luận khơng phải là cái
đích của thực tiễn, lý luận là để làm cho hoạt động thực tiễn thực tiễn tốt hơn.
Nếu coi lý luận là một cái gì hồn chỉnh, là khn mẫu cho mọi hành động thì
tất sẽ xa vào may móc , giáo điều; sẽ làm cho lý luận bị khô cứng, thui chột,
mất đi sức sống của nó. Để xây dựng và phát triển lý luận phải dựa vào thực
tiễn. Hồ Chí Minh từng nói thực tiễn mà khơng có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông.
Nguyên cứu lý luận là một lĩnh vực quan trọng của công tác lý luận.
Nhiệm vụ bao trùm của nó là nghiên cứu sâu sắc, đồng thời phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, một học thuyết cách
mạng khoa học; là vũ khí tinh thân của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc ta; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng; là cơ sở để định ra đường lối cách mạng XHCN và hiện nay định ra
đường lối sáng tạo với tầm nhìn xa trơng rộng.
Tổng kết thực tiễn là một nội dung hết sức quan trọng trong lĩnh vực
nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ của tổng kết thực tiễn là nhìn nhận, đánh giá
xem những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước
triển khai và thực hiện như thế nào, nghị quyết quyết đi vào cuộc sống ra sao,
kết quả thực hiện đó thực hiện được đến đâu, điều gì cịn gây khó khăn trở
ngại cho việc thực hiện đó, nguyên nhân nào đạt được kết quả và nguyên nhân
nào cản trở các quá trình? Vấn đề quan trọng nhất là qua tổng kết thực tiễn để
rút ra được những bài học kinh nghiệm về sự thành công cũng như sự chưa

thành công. Và như vậy kết quả của tổng kết thực tiễn trực tiếp cung cấp
những cơ sở cho việc nâng cao trình độ lý luận; bổ xung, hồn thiện hoạch
7

7


8

8

định đường lối, chính sách cũng như tìm ra cách thức, biện pháp thích hợp để
đưa sự nghiệp cách mạng nước ta vững bước đi lên.
Việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn gắn kết chặt chẽ với nhau,
bổ xung hổ trợ nhau để cùng thực hiện một nhiệm vụ là góp phận vào việc
hoạch định chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước. Tổng kết thực tiễn tốt giúp cho việc nghiên cứu, phát triển lý luận được
phong phú, bao quát, toàn diện hơn. Mặt khác, nghiên cứu lý luận phát triển
tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện tổng kết thực tiễn được chính xác,
hiệu quả. Nhìn vào sự phát triển của đất nước trong những thập kỷ gần đây,
chúng ta có thể khảng định: Nếu khơng xuất phát từ thực tiễn, khơng tổng kết
thực tiễn thì chắc chẵn khơng thể có lý luận đổi mới, khơng thể có đường lối
đổi mới đúng đắn và nêu khơng có sự chỉ đạo của lý luận, khơng có lý luận
đổi mới đúng đắn thì khơng thể có thực tiễn đổi mới thành cơng.
Với tư cách là lực lượng chính trị của Đảng, lực lượng vũ trang để bảo
vệ đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ nhân, hoạt động nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn đã bám sát đường lối cính trị, quân sự của Đảng, thực tiễn
đất nước, hoạt động của quân đội, kịp thời phát hiện dự báo, đề xuất phướng,
biện pháp giải quyết những vấn đề mới nẩy sinh, cung cấp nhiều luận cư khoa
học cho việc xây dựng đường lối, chiến lược quốc phòng - an ninh, xây dựng

lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng và nhà nước, phục vụ sự lãnh đạo chỉ
đạo của Đảng uỷ quân sự trung ương, bộ quốc phòng trong việc xây dựng
quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại. Đồng thời góp phần làm rõ hơn những vấn đề cơ
bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đưa
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước đi đến thành cơng.
của qn đội góp phần quan trọng vào khảng định đường lối của Đảng, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại các quan điểm tư tưởng phản động;
8
8


9

9

bảo vệ sự trong sạch vững mạnh của các tổ chức trong hệ thơng chính trị, giữ
vững định hướng XHC; cũng cố niềm tin cho bộ đội và nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng; đấu tranh ngăn chặt và khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong
xã hội và trong một bộ phận cán bộ đảng viên. Việc đẩy mạnh tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận làm cho quân đội luôn giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp cơng nhân, bảo dảm ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc XHCN, với nhân dân.
Cùng với những kết quả đã dạt được, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
lý luận trong quân đội vẫn còn một số mặt hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng
kịp sự phát triển của thực tiễn cách mạng, thực tiễn xây dựng quân đội cụ thể
là: “Tổng kết thực tiễn triển khai chậm, chưa rộng khắp ở các ngành, các
cấp và chưa thật sự bám sát yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, kết quả nghiên
cứu chậm được ứng dụng, triển khai. Đấu tranh chống lại các quan điểm,

tư tưởng thù địch, sai trái chưa thật sắc bén; đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý
luận chưa được đầu tư xây dựng đúng mức, trình độ năng lực chưa ngang
tầm địi hỏi của tình, nhiệm vụ...”2
1.2. Những vấn đề đặt ra đối với công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận của Đảng và quân đội ta.
*Nhận thức lại CNTB từ truyền thống tới hiện đại và đổi mới nhận
thức về CNXH từ lý luận tới thực tiễn, làm rõ con đường đi lên CNXH ở nước
ta.
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ bước ngoặt đầy biến động của
lịch sử những năm đầu thế kỷ XXI, bối cảnh đó cho thấy, những suy ngẫm về
thế giới đương đại nói chung, nhất là “thế giới tư bản chủ nghĩa” cần không
ngừng đổi mới. Những đánh giá giản đơn về nó được đưa ra từ thế kỷ XX đã
gây thất vọng lớn, thậm chí hoảng loạn cho những ai nơn nóng, giáo điều. Do
2 Tổng cục chính trị:

9

9


10

10

đó, trong hàng loạt vấn đề lý luận, trước mắt nổi bật hai điểm then chốt cơ
bản: Một là, nhận nhức lại chủ nghĩa tư bản từ truyền thống tới hiện đại, và
hai là, đổi mới nhận thức về CNXH từ lý luận tới thực tiễn. Nghĩa là cần
nghiên cứu một cách đầy đủ, rõ ràng vì sao CNTB vẫn tỏ ra có sức sống đến
vậy? Có một lý do đáng nói là chúng ta một thời dường như bằng sự nơn nóng
và máy móc đã qun đi cách xem xét của C.Mác và lời nhắn nhủ của Người,

khi nhìn nhận xã hội tư bản là phải “hiểu sự vĩ đại và tính tất yếu nhất thời”
của nó và V.I.Lênin cũng có lời cảnh báo tương tự.
Vấn đề đang địi hỏi cấp bách ở đây là chúng ta cần nghiên cứu một
cách căn bản các “dung mạo” của CNTB: ở Tây Âu, Châu Mỹ, ở Châu Á...
để tiếp tục tìm ra và làm rõ những quy luật và những vấn đề có tính quy luật,
nét tương đồng và dị biệt trong sự phát triển của chúng. Điều này hết sức
quan trọng về mặt phương pháp trong việc nghiên cứu về CNXH. V.I.Lênin
đã nghiệm khắc phê phán những ai tự hạn chế ở chỗ chỉ đem CNXH đối lập
một cách cứng nhắc và “điên rồ” với CNTB. Khi mà cuộc đấu tranh càng
diễn ra phức tạp, đa dạng, nhiều cấp độ hơn và quyết liệt hơn. Cho nên việc
nghiên cứu sự tác động qua lại của các hình thái kinh tế xã hội, sự vận đông
đấu tranh và phát triển của chúng phải trở thành một vấn đề có ý nghĩa
phương pháp luận cơ bản của việc nghiên cứu CNXH. Nghĩa là trong khi
quan niệm CNXH đầu thế kỷ XXI phải nghiên cứu không chỉ đối lập mà cả
mối liên hệ tất yếu và tính kế thừa biện chứng giữa các hình thái kinh tế xã
hội, điều này ngày càng trở nên phù hợp với thực tế rằng, những mặt đối lập
của mâu thuẫn biện chứng nằm trong cả sự loại trừ lẫn nhau, cũng như trong
sự xâm nhập lẫn nhau trong mỗi bước phủ định biện chứng một cách tất yếu.
Do đó, sự phát triẻn khơng ngừng lý luận về con đường đi lên CNXH đang trở
thành vấn đề hết sức cấp bách, cho dù con đường XHCN của chúng ta “ngày
càng rõ hơn”. Vì các nhà kinh điển chưa đưa ra được một mơ hình hồn
chỉnh về xã hội XHCN, mà chỉ mới phác thảo, một số đặc trưng cơ bản của
10

10


11

11


nó. Cho nên con dường sáng tạo lý luận về CNXH càng rở nên rộng rãi trong
việc xác lập nên diệm mạo và chất lượng mới của CNXH. Điều dó đòi hỏi
phải vừa trung thành nhưng phải vừa sáng tạo để khơng ngừng phát triển lý
luận mác xít nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.
Tổng kết thực tiễn đang cần không ngừng thâu thái, phân tích và tiếp
thu có trọn lọc các kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực
với thái độ thực sự cầu thị, không xa lánh với phương pháp độc lập sáng tạo,
nhất là khơng dập khn và khơng thực dụng, đó chính là con đường hiệu quả
nhất để khắc phục sự chủ quan, duy ý chí, sự máy móc thiển cận, bảo đảm
cho sự nhiệp xây dựng CNXH của chúng ta tiến lên đúng hướng, vừa đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu hướng vận động của hời đại,
nhất là góp phận vào phát triến lý luận về CNXH.
Không chỉ nhận thức lại CNTB từ truyền thống tới hiện đại và đổi mới
nhận thức về CNXH từ lý luận tới thực tiễn, mà quan trọng là tìm ra con
đường, biện pháp, hình thức, bước đi của trình xây dựng CNXH trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Bản thân việc các định xây dựng CNXH trong thời
kỳ quá độ có nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường, mở cửa hội
nhập với thế giới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự sáng tạo
của Đảng, nhưng Đảng cũng tự nhận thấy cần phải tiếp tục làm sáng tỏ thêm
nhiều vấn đề trong đó. Tuy nhiên, đây là con đường đi đúng đã được khảng
định bởi những thành tựu kinh tế, xã hội, văn hố, quốc phịng an ninh, đối
ngoại được nhân dân trong nước và bè bạn thế giới thừa nhận. Đương nhiện
không vì thế đã bằng longnf và cuộc sống đqã xong xuôi. nhiều vấn đề đặt ra
cần tiếp tục phải làm rõ hơn như kinh tế thị trường với định hướng XHCN,
thế nào là kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế? V.v...

11


11


12

12

* Nghiên cứu tổng kết thực tiễn sinh động trên các lĩnh vực lớn của 20
của công cuộc đổi mới
Khi các nước XHCN lâm vào khủng hoảng, buộc phải tự đổi và cải tổ,
cải cách. Nhưng vì sao có nước đổi mới, cải cách tành công như Việt Nam,
Trung Quốc ttrong khi đó Liên Xơ và các nước XHCN Đơng Âu lại tan vỡ?
Tổng kết thực tiễn để xác định bài học kinh nghiệm, cơ sở thành công của
chúng ta. Bắt đầu từ Đại hội VI, Đảng ta đã thiết kế công cuộc đỏi mới dựa
trên những nguyên tắc tư tưởng, cơ sở lý luận nào? Suốt quá trình đổi mới,
Đảng ta đã cụ thể hố đường lối đó, bổ sung, phát triển nó một cách tồn diện,
hệ thống như thế nào? Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận diễn ra đầy cam go,
phức tạp và sáng tạo để tạo nên sự đồng thuận giữa Đảng với nhân dân trên
chặng đường ấy ra sao? Những vấn đề gì mới nẩy sinh hoặc dang đặt ra đồi
chúng ta phải tiếp tục nhận thức và đi sâu làm sáng rõ, tìm biệnpháp giải
quyết? V.v. Đấy là những vấn đề đòi hỏi cần đi sâu tìm tịi, tổng kết, thực hiện
đúng chủ trương của bộ chính trị trung ương Đảng khố IX chỉ đạo tổng kết
lý luận 20 năm đổi mới báo cáo trình Đại hội X.
* Nghiên cứu sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước ta.
Đây là vấn đề nhằm trang bị cơ sở khoa hgọc, thế giới quan và phương
pháp luận đúng đắn trong quá trình hoạt động. Việc tiếp thu vận dụng, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay như thế nào? Đâu là những nội dung cơ
bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh? Những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh với
cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp đổi mới xây dựng CNXH hiện nay

như thế nào, v.v... Và, v.v... rất cần được đi sâu nghien cứu.
*Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để từng bước làm sáng tỏ tính
quy luật của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghiữa xã hội, làm rõ

12

12


13

13

những vấn đề xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta, các vấn đề chính
trị xã hội hiện nay.
Giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH cho các tầng lớp nhân
dân là một nhiệm vụ lớn lao và lâu dài của Đảng. lý tưởng ấy có thấm sâu vào
các tầng lớp nhân dân hay khơng, có trở thành niềm tin, sức mạnh vật chất và
tinh thần của nhân dân ta hay không, tuỳ thuộc rất lớn vào những thành tựu
của cách mạng và cách luận giải, tiếp cận vấn đề một cách khoa học, có sức
thuyết phục. Hiện nay nhận thức về vấn đề này đang có độ “chênh” nhất định
giữa lý luận và thực tiễn. Độc lập dân tộc là vấn đề rất rõ và đã được khảng
định trong nhận thức lý tính cũng như tình cảm mọi người dân nước ta. tuy
nhiên, xây dựng CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta nói riêng và
trên thế giới nói chung đang đứng trước những vấn đề
2. Những giải pháp nhằm tăng cường công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận của Đảng và quân đội ta hiện nay.
2.1. Sự cần thiết phải tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận của Đảng và quân đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để trong

lịch sử xã hội loài người. Như trên đã khảng định, cuộc cách mạng đó phải
được hướng dẫn bằng một lý luận khoa học và cách mạng, lý luận mác xít.
Tuy nhiên, chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ có thể đưa ra những quy luật
chung, chỉ ra những nguyên tắc phương hướng, phương pháp, con đường,
mục tiêu, đối tượng của cách mạng vô sản. Nhận thức của lồi người là vơ
hạn. Hiểu biết của mỗi cá nhân con người là vô hạn, dù đó là con người kiệt
xuất đến đâu. Vì vậy, có thể có những điểm mà C.Mác - Ph.ăngghen ,
V.I.Lênin đưa ra trong học thuyết của mình đã bị lịch sử bỏ qua, khơng cịn
phù hợp với đặc điểm tình hình điều kiện phát triển mau lẹ, phức tạp hiện nay
nữa. Điều đó địi hỏi những người cách mạng cùng với việc trung thành vô
13

13


14

14

hạn với những nguyên tắc bất di bất dịch của học thuyết chủ nghĩa Mác Lênin cịn phải tích cực đào sâu suy nghĩ nghiên cứu để vận dụng và phát
triển lý luận đó phù hợp với điều kiện thực tế của cách mạng. Chính các nhà
kinh điển cũng đã từng chỉ rõ rằng, học thuyết của các ông là học thuyết mở,
không ai và không bao giờ được coi đó là học thuyết đã xong xi, hồn
chỉnh hẳn. học thuyết đó ln có nhu cầu được bổ xung, phát triển cho phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Đó chính là
trách nhiệm chính trị của các thế hệ những người cộng sản.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện hoàn cảnh nước ta; kế thừa và phát triển những giá trị tốt đẹp của dan
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để xây dựng nên một hệ thống những
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cua cách mạng Việt

Nam . Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nề tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động.
Đảng ta là một Đảng khoa học và cách mạng, có nhiệm vụ lãnh đạo dân
tộc ta, nhân dân ta tiếp tục đi tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đây là việc làm địi hỏi Đảng ta phải có trí tuệ, được trang bị khơng
chỉ bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, mà cịn cả tư tưởng tiên phong,
trình độ lý luận sắc sảo.
Qua nửa thế kỷ xây dựng CNXH, nhất là công cuộc đổi mới vừa qua đã
đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi bộ mặt và vị thế
của đất nước.
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức mới, đồng
thời phải đối mặt với các thách thức gay gắt; nhiều vấn đề mới mẻ đang đặt ra
đối với Đảng.
Xây dựng Đảng càng nổi rõ là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống cịn,
địi hỏi phải tập trung nỗ lực đổi mới mạnh mẽ, trên cơ sở tổng kết thực tiễn
14

14


15

15

20 năm đổi mới, để chuẩn bị Đại hội Đảng X của Đảng, Hội nghị BCHTƯ lần
thứ 11, 12 khoá IX đã thảo luận, thống nhất một số định hướng quan trọng về
xây dựng đảng trình Đại hội X.
Phương hướng, mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng là:
“Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn tăng cường bản chất
giai cấp cơng nhân và tính tiền phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị tư
tưởng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tầm trí tuệ cao, có
phương thức lãnh đạo khoa học, ln gắn bó với nhân dân, phát huy sức
mạn toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển”3, trong đó về: “2. Cơng tác chính trị tư
tưởng. Tiếp tục đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, nhận thức sâu sắc hơn
nữa về chủ nghĩa xa hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Chống các khuynh hướng tư tưởng
sai trái. Đặc biệt coi trọng nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh,
coi trọng giáo dục phẩm chất và năng lực, đạo đức lối sống của cán bộ,
đảng viên, cán bộ đảng viên phải là tấm gương về đạo đức lối sống trong
mọi cơng việc; xử lý hài hồ các lợi ích của tổ quốc, của dân tộc trên hết.
Quan tâm giáo dục rèn luyện thế hệ trẻ.
Tiếp tục đổi mới nghiên cứu lí luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm
sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc mà cuộc sống đặt ra, chú trọng phát
huy dân chủ, nâng cao tính khoa học, tính thiết thực và hiệu quả của công
tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn”4

3 Trần Đình Hoan uỷ viên BCT, bí thư TW Đảng, Trưởng ban TCTW, Một số vấn đề về xây
dựng Đảng, Tạp chí QPTD số 9/2005 tr.5
4 Trần Đình Hoan uỷ viên BCT, bí thư TW Đảng, Trưởng ban TCTW, Một số vấn đề về xây
dựng Đảng, Tạp chí QPTD số 9/2005 tr.6

15

15


16


16

2.2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận của Đảng và quân đội trong thời gian tới.
- Để góp phần thực tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận như các nghị quyết của trung ương đã chỉ rõ để đáp ứng yều cầu
nhiệm vụ của cách mạng hiện nay, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ một số giải
pháp cơ bản:
Một là, kết hợp chặt chẽ công tác tổng kết thực tiễn với nghiên cứu
phát triển lý luận.
Thực tiễn là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý. Vì thế, muốn phát triển lý luận thì phải gắn chặt lý luận với
thực với hực tiễn, gắn chặt việc tổng kết thực tiễn với phát triển lý luận.
Cần coi trọng tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận và ngay trong
hoạt động thực tiễn của các cấp uỷ đảng, coi tổng kết là nghiệm vụ thường
xuyên của các cấp, các ngành các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong và ngoài
quân đội; gắn nghiên cứu lý luận với tiếp thu có trọn lọc những thành tựu,
những tinh hoa văn hoá nhân loại, những kinh nghiệm quý báu của các nước
khác trên thế giới.
Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận trong quân đội ta phải kết hợp
chặt chẽ việc phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin với việc bảo vệ và phát
triển Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch càng tăng cường chống phá nền tảng tư tưởng
của Đảng, của quân đội, chính vì vậy, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
trong quân đội làm sáng tỏ âm mưu “diễn biến hoà bình”, các quan điểm thù
địch sai trái như phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
phủ nhận vai trò lãnh đạo của đối với quân đội, đối xã hội, phủ nhận các thành
quả của chủ nghĩa xã hội, đồng thời làm cơ sở để phê phán, uốn nắn những
16

16


17

17

nhận thức lệch lạc, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa...
trong tình mới; ngăn chặn biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, độc đoán, chuyên
quyền, gia trưởng tham nhũng, cơ hội thực dụng, trung bình chủ nghĩa, thiếu
ý chí vươn lên, dao dộng nhút nhát, thiếu dũng khí chiến đấu, thấy đúng
không bảo vệ, thấy sai không giám đấu tranh...ở một bộ phận không nhỏ cách
bộ đảng viên trong quân đội.
Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng, bảo vệ được nền tảng tư tưởng cho bộ đội
cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Khơng bảo vệ được thì khơng phát
triển được; ngược lại không nghiên cứu phát triển lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thì cũng khơng bảo vệ được chủ nghĩa đó trước
sự tấn cơng mạnh mẽ, tinh vi, xảo quyệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch hiện nay trên mặt trận tư tưởng lý luận.
Hai là, Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của quân đội phải hướng
vào làm sáng tỏ và cụ thể hoá những chủ trương, phương hướng có tính
ngun tắc: lấy xây dựng qn đội về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho quân
đội tuyệt đội trung thành với Đảng, với Tổ quốc , với nhân dân.
Tính chất của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đặc biệt là trên
mặt trận chính trị tư tưởng ngày càng gay go quyết liệt và phức tạp, cùng với
sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc đã và đang đặt ra yêu cầu rát cao,
rất toàn diện về chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong tình hình hiện nay, hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của

quân đội phải hướng vào làm sáng tỏ và cụ thể hoá những chủ trương, phương
hướng xây dựng quân xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. trước mắt cần tập trung vào một số vấn đề mà hiện tại
17

17


18

18

chưa tạo ra được sự thống nhất cao trong toàn quân như Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VII đã chỉ ra: “vấn đề chấn chỉnh tổ chức,
vấn đề triển khai luật sĩ quan, vấn đề nghiên cứu chính uỷ chính trị viên...” và
triển khai thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW, “Nghị quyết của Bộ chính trị
về tiếp hồn thiện cơ chớ lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người
chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội
nhân dân Việt Nam”.
Có thể khảng định rằng, những vấn đề trên là những vấn đề rất quan
trọng trong xây dựng quân đội cách mạng, được chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh đề cập rất tồn diện và sâu sắc; được phản ánh rõ trong
thực tiễn xây dựng quân đội các nước XHCN trước đây. Quá trình xây dựng
quân đội ta hơn nửa thế kỷ qua, vấn đề chấn chỉnh tổ chức, thực hiện chế độ
chính sách đối với sĩ quan, đặc biệt là chế độ chính uỷ, chính trị viên là vấn đề
cần tổng kết, nghiên cứu triển khai thực hiệu quả. Điều quan trọng trong
nghiên cứu những vấn đề này là: phải đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn chặt giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn, lấy thực tiễn được tổng kết đối chiếu với lý luận. Có như vậy mới
có thể bảo vệ, bổ sung và phát triển lý luận một cách khoa học. Trên cơ sở đó,

có căn cứ đúng đắn để khảng định cái đúng, cái đã bị thực tiễn và lịch sử vượt
qua.
Ba là, Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải nắm vững tính đảng,
tính khoa học, đồng thời đề cao tính chiến đấu, kịp thời và kiên quyết đấu
tranh, khắc phục tư tưởng sai trái.
bảo thủ, nhận thức giản đơn, phiến diện và những biểu hiện giáo điều,
độc đốn gia trưởng. Trong tình hình hiện nay, một mặt, phải đi sâu nghiên
cứu làm rõ hơn nữa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin ............. ,
Mặt khác thông qua nghiên cứu lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn, phải
18

18


19

19

kịp thời vạch rõ những hạn chế, khuyết điểm bắt nguồn từ nhận thức không
đầy đủ, vân dung thiếu sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh. trên cơ sở đó, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, từng bước đấu tranh
khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong tư duy lý luận và chỉ đạo hoạt động
thực tiễn.
Bốn là, Phải chủ động xây dựng các cơ quan, lực lượng chun trách,
nịng cốt làm cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ của toàn đảng, tồn
qn, tồn dân ta. Nhưng vai trị của cơng tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
lý luận đòi hỏi phải có những cơ quan lực lượng chuyên trách, nịng cốt tiến
hành cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng trong xã hội
nói chung trong quân đội nói riêng. Chất lượng số lượng các cơ quan, lực

lương này ảnh hưởng trực tiếp, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu
quả công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận đủ về số lượng có
chất lượng cao, có đức có tài, trong đó đáng chú ý là bản lĩnh chính trị, lập
trường giai cấp, quan điểm tư tưởng phải thật vững vàng, có trình độ trí tuệ,
năng lực chun mơn giỏi, thực sự là những chiến sĩ trung kiên tài ba của
Đảng, của quân đội, có số lượng dồi dào và cơ cấu cân đối, hợp lý. Đây chính
là lực lượng thường trực , xung kích trong tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý
luận, trên mặt trận tư tưởng lí luận. Một sai lầm nhỏ một sai lầm nhỏ của lực
lượng này có thể dẫn đến những hậu quả lớn về mặt chính xã hội, đến sự mất
cịn của chế độ, đến sức mạnh chiến đấu của quân đội, sự thất bại trong chiến
trong chiến tranh. Cần phải có chính sách nhằm phát huy tốt những cán bộ đã
trải qua các cuộc kháng chiến, có nhiều thành tích, nhiều kinh nghiệm trong
tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Đồng thời phải có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, từng bước hình thành nhiều thế hệ cán bộ đảm
19

19


20

20

nhiệm chuyên sâu về công tác tư tưởng lý luận, thực sự có bản lĩnh, có tài
năng và tâm huyết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận trong thời kỳ mới.

Năm là, Các cấp các ngành phải nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng và
những nội dung cơ bản để đi sâu nghiên cứu tổng kết


20

20



×