MỞ ĐẦU
Việt Nam là một đất nước được biết là có lịch sử lâu đời và nền văn
hóa vơ cùng độc đáo, đa dạng và đặc sắc. Sự phong phú của văn hóa Việt
Nam được thể hiện rõ nét từ phong tục tập quán, ẩm thực cho đến trang phục
của từng dân tộc. Do đó, trang phục nói chung của từng tộc người nói riêng
thật phong phú đa dạng và đầy tính năng qua từng thời kỳ của lịch sử Việt
Nam từ trước đến ngày nay. Thơng qua cái nhìn lịch sử cho tới ngày nay, ta
thấy trang phục người Việt, từ kiểu dáng đơn sơ, giản dị, đẹp như tâm hồn
người Việt cổ tiếp tục phát triển, hài hòa với môi trường khắc nghiệt của
thiên nhiên nhiệt đới, khỏe khoắn với bao cuộc chiến tranh chống ngoại xâm
liên miên. Trang phục người Việt là một trong những gì thân thiết nhất đối
với con người Việt Nam. Sự gắn bó có tâm hồn này chính là điều xuất phát từ
những trái tim yêu thương quê hương đất nước. Dù trải qua nhiều thời kỳ
nhưng trang phục của người Việt vẫn mang những nét đặc thù riêng. Qua
trang phục truyền thống của các nhóm dân tộc ở Việt Nam, có thể thấy được
những biểu hiện quan trọng của văn hóa gắn với điều kiện tự nhiên, xã hội,
lịch sử, môi trường, phong tục, tập quán, trình độ nghệ thuật và thị hiếu thẩm
mỹ. Trang phục truyền thống của mỗi dân tộc (tộc người) ở Việt Nam đều có
những nét đặc trưng riêng do hoàn cảnh, điều kiện sống lâu đời quy định. Vì
thế, tìm hiểu trang phục truyền thống của người Việt ta là một vấn đề rất cân
thiết, giúp ích cho việc nghiên cứu văn hóa, đồng thời giúp cho sự hiểu biết
lẫn nhau giữa các cộng đồng trên đất Việt Nam
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SÔ VẤN ĐỀ LI LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA
TRANG PHỤC TRUYỀN THƠNG
VÀ QUAN NIỆM MAY MẶC
CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
1.1. Mợt số khái niệm về văn hóa trang phục truyền thống
1.1.1. Khái niệm “Văn hóa”
Văn hóa là một khái niệm gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Theo
nghĩa thơng dụng nhất, người ta thường hiểu văn hóa là những nét tinh hoa,
nét đẹp của cuộc sống cộng đồng hoặc là cách ứng xử giữa con người với
nhau trong xã hội. Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa
phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau trong đó có một số định
nghĩa nổi bật đáng chú ý:
Định nghĩa của UNESCO
Tổ chức Văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO)
đã từng đưa ra nhiều định nghĩa về văn hoá theo cả nghĩa rộng và hẹp. Quan
điểm của UNESCO về văn hoáđược thể hiện rõ hơn cả là vào năm 1994 như
sau: “Đó là một phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo về tinh thần,
vật chất, tri thức và tình cảm khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng, gia
đình, xóm, làng, vùng, miền quốc gia, xã hội. Văn hố khơng chỉ bao gồm
nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của
con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng...” 1
Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong trang cuối của bản thảo tập “Nhật ký trong từ” (1943) Bác Hồ
đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống con người sáng
tạo ra, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, nghệ thuật, văn học, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
2
ăn, mặc, ở... và phương tiện, phương thức sử dụng... Tồn bộ những sáng
tạo đó là văn hố”. Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
những nhu cầu đời sống, những đòi hỏi của sự sinh tồn.2
Hai định nghĩa vừa nêu về văn hố là tương đối tồn diện có thể sử
dụng để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu những vấn đề của nền văn hoá
mới Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm “Văn hóa truyền thống”
Về văn hố truyền thống hiện nay có rất nhiều cách hiểu khơng giống
nhau. Tuy nhiên cũng có những điểm khá thống nhất là: những gì được lưu
truyền trao từ thế hệ này sang thế hệ khác, có thể là tính cách, đạo đức, phong
tục, tập qn, lối sống, thói quen chính là văn hoá truyền thống. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Hồng Hà cho rằng văn hố truyền thống là “Tồn bộ giá trị,
thành quả, thành tựu vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được lưu giữ trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm
rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.” 3
“Bản sắc văn hoá thường thể hiện ở tổng thể di sản văn hoá vật chất
tinh thần của xã hội ở cảnh quan thiên nhiên đãđược văn hoá, ở cốt cách
tâm hồn, tập quán dân tộc, ở thị hiếu thẩm mỹ, cách sống và mô thức ứng
xử của toàn dân tộc.” 4
1.1.3. Khái niệm “Trang phục”
Trang phục là một trong những tiêu chí quan trọng góp phần hình
thành văn hóa dân tộc, trong trang phục bao gồm nhiều nội dung khác nhau
như: y phục quần áo), đồ trang sức (vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, hạt
chuỗi...), khăn, nón, trâm cài tóc, các vật trang trí trên quần áo và cơ thể con
người.
3
Cũng như các dân tộc khác trên thế giới, trang phục của người Việt cổ
luôn luôn phù hợp với môi trường tự nhiên, phù hợp với hoàn cảnh sống, với
thực tế lao động sản xuất. Cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, khi xã hội
phân chia thành giai cấp, tầng lớp thì trang phục ln mang theo những yếu tố
phản ánh địa vị xã hội, đồng thời mang theo những yếu tố tâm linh, tín
ngưỡng phản ánh những ước mơ, khát vọng, phong tục tập quán của từng dân
tộc.
1.1.4. Khái niệm “Trang phục truyền thống và văn hóa trang phục”
Trang phục truyền thống là quần áo và trang phục truyền thống của
một quốc gia, một địa phương, một dân tộc, hoặc có khi là một thời kỳ lịch sử
nào đó của một nhóm người. Mặc quốc phục thường mang ý niệm củng cố
tinh thần đoàn kết của một cộng đồng hay đoàn thể.
Trang phục truyền thống của người Việt Nam cũng được lưu truyền
qua bao đời nay và ở mỗi một dân tộc lại có những nét đặc trưng riêng do
hoàn cảnh, điều kiện sống lâu đời quy định. Tuy nhiên, những trang phục
của các nhóm tộc người này lại có nhiều điểm chung, thể hiện ở chỗ trang
phục truyền thống của họ mang tính thực tiễn cao, chú ý tới giá trị sử dụng
sao cho thích hợp với môi trường, với điều kiện tự nhiên, gắn với kỹ thuật thủ
cơng truyền thống, sự cần cù, óc sáng tạo, sự khéo léo và trong quá trình phát
triền, chúng không tồn tại hiệt lập mà tiếp xúc, đan xen với nhau, tiếp thu
những nét tinh túy nhưng vẫn bảo lưu truyền thống. Ngoài ra, trang phục
truyền thống của các nhóm dân tộc ln nối bật ở sắc màu sặc sỡ, kết hợp
nhiều gam màu mạnh, nóng, tạo nên sự thú vị và bất ngờ của văn hóa Việt
Nam.
Văn hóa trang phục là sự tổng hợp những cách chế tạo, những thói
quen và quan niệm thẩm mỹ của một cộng đồng dân cư để tạo ra những
trang phục phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế của dân tộc
mình, góp phần phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
4
1.2. Lịch sử hình thành và tính đa đạng của trang phục truyền
thống
1.2.1. Nguồn gốc hình thành trang phục truyền thống
Sự xuất hiện của trang phục đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức
của con người. Lúc đầu trang phục chỉ là nhu cầu bảo vệ cơ thể, che nóng,
che lạnh. Dần dần, trang phục trở thành nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu làm đẹp
của con người. Trang phục thể hiện nghề nghiệp, đẳng cấp, phong tục, tập
quán, tôn giáo, lễ nghi…Trang phục liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời
sống như: địa lý, lịch sử, kinh tế, môi trường văn hóa… Chính vì thế, trong
mỗi giai đoạn lịch sử, trang phục lại có những biến đổi, cách tân cho phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử và đời sống sinh hoạt của con người.
1.2.2. Tính đa dạng của trang phục truyền thống
Tính đa dạng của trang phục người Việt thể hiện rõ nhất qua từng địa
phương. Có khi tính đa dạng này hoàn toàn do kỹ thuật. Nhân dân lao động
với áo quần bằng vải, thường hay mặc trước rồi mới nhuộm sau. Do thị hiếu
và cũng vì lý do khách quan để cho bền màu, người ta thường nhuộm lót
trước: lót xanh cho màu đen, lót đỏ cho màu gụ v.v... Vì thế tuy chỉ cùng một
bộ, nhưng Đơng Xuân, ta gặp nhiều người mặc màu cháo lòng, màu xanh,
màu gạch non... đến Hè Thu lại là những áo quần màu nâu, màu đen, màu gụ
v.v... Từ khi giành lại được quyền độc lập, tự chủ vào thế kỷ X, các vương
triều phong kiến đã lưu ý đến một sự thống nhất trong đa dạng, với những
quy chế, thể lệ. Tính thống nhất này cũng có thể nhận thức được qua tính giai
cấp trên trang phục, ở từng mẫu áo, kiểu quần, màu sắc, hoa văn, trang điểm.
Trang phục thể hiện tôn ti, trật tự phong kiến, ngăn cấm mọi sự vi phạm.
Ngày nay, trang phục của Quân đội nhân dân đã "vượt khung" khỏi phạm
vi của một tộc người cụ thể, trở thành một sự thống nhất Việt Nam.
1.3. Quan niệm về mặc và nguồn gốc nông nghiệp trong chất liệu
may mặc của người Việt
5
1.3.1. Quan niệm về mặc của người Việt Nam
Đối với con người, sau ăn thì đến mặc là cái quan trọng. Nó giúp cho
con người đối phó được với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu. Nhân dân
ta nói một cách đơn giản : Được bụng no, cịn lo ấm cật .Vì vậy, cũng như
trong chuyện ăn, quan niệm về mặc của người Việt Nam trước hết là một
quan niệm rất thiết thực : “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền và Cơm ba bát, áo ba
manh, đói khơng xanh, rét không chết”. Nhưng mặc không chỉ để đối phó với
mơi trường, mặc có một ý nghĩa xã hội rất quan trọng : “Quen sợ dạ, lạ sợ
áo”. Người ta hơn kém nhau nhiều khi bởi nó:
“Hơn nhau cái áo manh quần
Thả ra ai cũng bóc trần như ai”
và người ta khổ sở nhiều khi cũng vì nó:
“Cha đời cái áo rách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi!”
Mặc trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong mục đích trang
điểm, làm đẹp cho con người:
“Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa”.
Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở
thành biểu tượng của văn hóa dân tộc. Ở những vùng có khí hậu nóng, nhiều
ánh sáng con người sử dụng các loại vải mỏng mát, màu sáng. Ngược lại ở
những vùng có khí hậu giá lạnh con người đã biết sử dụng các loại vải giấy,
chất len sợi để đỡ lạnh hơn. Hay ở những vùng rừng núi con người đã biết
ăn mặc hòa đồng với thiên nhiên bằng các loại vài có màu sắc sặc sỡ tượng
trưng cho thiên nhiên núi rừng.
1.3.2. Nguồn gốc nông nghiệp trong chất liệu may mặc của người Việt
6
Với người phương Nam, chất liệu may mặc để đối phó hữu hiệu với
mơi trường tự nhiên là ở việc tận dụng các chất liệu có nguồn gốc thực vật là
sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng là những chất liệu may mặc mỏng, nhẹ,
thống, phù hợp với xứ nóng. Trước hết, đó là tơ tằm, nghề tằm tang có từ rất
sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá mới cách nay khoảng 5000
năm (như di chỉ Bàu Tró), đã thấy có dấu vết của vải có dọi xe chỉ bằng đất
nung. Từ phương Nam, nghề tằm tang đã được đưa lên phương Bắc. Từ tơ
tằm, nhân dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất phong phú : tơ, lụa, lượt,
là, gấm, vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, dũi, địa, nái, sồi, thao, vân,... mỗi loại lại
có hàng mấy chục mẫu mã khác nhau.
Trong khi sở trường của phương Nam ta là các loại vải nguồn gốc thực
vật thì người phương Bắc có sở trường dùng da thú là sản phầm của nghề
chăn nuôi làm chất liệu mặc, thêm vào đó, da (và lơng) thú lại rất phù hợp
với thời tiết phương Bắc lạnh. Mùa lạnh ở Việt Nam, bên cạnh cách mặc đơn
giản và rẻ tiền nhất là mặc lồng nhiều áo vào nhau, người ta may độn bông
vào áo cho ấm (áo bông, áo mền…). Người nơng thơn cịn dùng loại áo làm
bằng lá gồi, gọi là áo tơi mặc đi làm đồng vừa tránh rét,tránh mưa, vừa tránh
gió.
7
CHƯƠNG 2: TRANG PHỤC TRUYỀN THÔNG CỦA VIỆT NAM QUA
TỪNG THỜI KÌ VÀ NHỮNG NÉT ĐỔI MỚI TRONG GIAI ĐOẠN
NGÀY NAY
2.1. Các loại trang phục truyền thống
Trang phục người Việt ta từ thời khai hoang mở nước cho đến bây giờ
vẫn luôn kế thừa và biến đổi theo biến động lịch sử. Nếu trang phục của tầng
lớp quý tộc mang nhiều đường nét, hơi hướng của giai cấp phong kiến Trung
Hoa, thì trang phục của người dân lao động lại thể hiện nét thẩm mỹ độc đáo,
là tinh hoa văn hóa dân tộc qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển đất
nước.
2.1.1. Áo tứ thân
Áo tứ thân là một loại trang phục truyền thống của người phụ nữ miền
Bắc Việt Nam. Loại áo này mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, tượng trưng cho
những đức tính, truyền thống tốt đẹp: Bốn tà tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu
(cha mẹ mình và cha mẹ chồng); vạt cụt phía bên trong hai vạt áo tượng trưng
cho cha mẹ ôm ấp đứa con vào lịng, năm hạt nút được bố trí nằm cân xứng
tượng trưng cho ngũ thường (5 đạo làm người) là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; hai
vạt áo phía trước được buộc lại tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng quấn
quýt nhau. Hiện nay, áo tứ thân chỉ còn được mặc trong các dịp lễ hội truyền
thống tuy nhiên đây vẫn được xem là biểu tượng của người con gái miền Bắc.
2.1.2. Áo dài
Nhắc đến trang phục truyền thống của người Việt Nam thì chắc hẳn
điều đầu tiên mà mọi người nghĩ đến sẽ là Áo dài. Áo dài được xem là trang
phục truyền thống đồng thời cũng là quốc phục của nước ta. Áo dài được may
dành cho cả nam lẫn nữ tuy nhiên hiện nay lại được biết đến chủ yếu là trang
phục dành cho nữ. Trước đây, Áo dài được sử dụng vào mọi thời điểm tuy
nhiên hiện nay thì trang phục này chỉ cịn được mặc trong các dịp lễ hội,
8
trình diễn thời trang, các chương trình, buổi lễ quan trọng, được xem như
đồng phục nữ sinh hay đồng phục đi làm ở một số cơ quan, công sở.
2.1.3. Áo bà ba
Áo bà ba là loại trang phục truyền thống của cả nam và nữ ở khu vực
các tỉnh thành phía Nam nước ta. Áo bà ba có thiết kế khá tương tự như các
loại áo thông thường với tay áo dài hoặc ngắn, cổ áo giữa và được cài bằng
một hàng khuy kéo dài từ cổ thẳng xuống bụng. Mang lại vẻ đẹp và sự thoải
mái, áo bà ba hiện vẫn đang rất được ưa chuộng sử dụng trong mọi dịp, từ đi
làm cho tới đi chợ, đi chơi hay trong cả các dịp lễ hội. Áo bà ba cũng được
xem là biểu tượng cho người con gái miền Nam.
2.1.4. Áo chàm
Áo chàm là trang phục truyền thống của nhiều dân tộc trên các vùng
núi cao phía Bắc nước ta như Tày, Nùng, Thái. Cái tên áo chàm xuất phát từ
cây chàm được sử dụng để nhuộm màu cho vải. Chiếc áo chàm truyền thống
thường được làm từ vải tự dệt, khơng trang trí hoa văn như trang phục của
các dân tộc thiểu số khác và được mặc trong mọi dịp. Tuy nhiên do sự phát
triển của xã hội hiện đại, áo chàm hiện nay dần trở nên mai một do quá trình
sản xuất tương đối phức tạp.
2.1.5. Trang phục các dân tộc trên đất nước Việt Nam
Với 54 dân tộc anh em phân bổ trên khắp mọi miền tổ quốc, trang phục
truyền thống dân tộc của nước ta rất phong phú và đa dạng với nhiều kiểu
dáng, màu sắc, loại vài khác nhau. Có thể kể ra đây một số trang phục nổi bật
như:
Người Mường: Nam mặc loại áo cánh, ngực xẻ, cổ tròn, quần ống rộng
dùng khăn thắt ở giữa bụng. Nữ mặc áo cánh thân ngắn, ống tay dài, váy dài
đến mắt cá chân với cạp váy có thể được trang trí hoa văn dệt rất kỳ công.
9
Người Ba Na Nam mặc áo cộc tay chui đầu, cổ xẻ, mang khổ hình chữ
I. Nữ mặc áo cộc tay hoặc dài tay chui đầu, mang váy hở (tấm vải rộng quấn
quanh thân thành vảy) dài tới chân.
Người Chăm: Nam mặc áo cánh xếp chéo và cài dây, mang quần sooc
bên trong, váy xếp quần bên ngồi. Nữ có trang phục khá đa dạng tùy theo
khu vực, thường là mặc áo cổ tròn cài nút từ ngực xuống đến bụng và váy
xếp hoặc váy ổng thông thường.
Người Ê Đê. Nam mặc áo dài trùm mơng có xẻ tà hoặc áo dài quá gối
có khoét cổ để chui đầu, mang khổ. Nữ mặc áo dài tay ngắn thân, có khoét cổ
để chui đầu, mang váy hở tương tự như người Ba Na.
Người Xơ Đăng: Nam cởi trần hoặc mặc áo chui đầu, tay áo khoét sát
nách và đóng khố. Nữ mặc áo kiểu chui đầu, khơng có ống tay, mang vảy
quần màu đen có dây buộc ở bụng.
2.2. Dấu ấn lịch sử trên từng trang phục
2.2.1. Trang phục thời Hùng Vương
Cách đây khoảng 4.000 năm vào thời đại đồng thau phát triển, nước
Việt Nam thời đó gọi là nước Văn Lang. Khác với nhiều tranh ảnh, sách
truyện thường minh họa trang phục phổ biến thời này là nam cởi trần, đóng
khố bằng lá cây, nữ mặc yếm và váy ngắn khá sơ khai, theo nhiều khảo sát có
cơ sở khoa học vững chắc, các nhà nghiên cứu đã khẳng định ngay từ thời kỳ
đầu mở nước, nghệ thuật dệt vải đã ở trình độ cao, với ít nhất hai loại vải dệt
từ cây và sợi.
Những hoa văn trên mặt trống đồng hay hình khắc trên cán dao bằng
đồng có từ thời kỳ này cho thấy phục trang Việt đã được định hình rất rõ nét.
Đây cũng chính là căn ngun cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục
truyền thống của người Việt Nam hiện nay. Theo đó, cả trang phục nữ giới và
nam giới đều đã được phân biệt rõ rệt, trong đó trang phục dành cho phái nữ
10
phong phú và mang giá trị nghệ thuật hơn cả. Phụ nữ thời Hùng Vương
thường mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực, bó sát vào người, phía trong mặc
yếm kín ngực có cổ trịn sát cổ, trang trí thêm hình những tấm hạt gạo. Cũng
có những loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín
ngực, hở một phần vai và trên lưng. Hai loại sau có thể là loại mặc chui đầu
hay cài khuy bên trái. Trên áo đều có hoa văn trang trí. Thắt lưng có ba hàng
chấm trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng...
Nghiên cứu về trang phục thời Hùng Vương, ta tìm hiểu được khía
cạnh về đời sống, mối quan hệ xã hội thời đó. Mặt khác, ta cịn chắt lọc ra
những yếu tố thẩm mỹ làm tôn vẻ đẹp con người gắn bó với thiên nhiên, hài
hịa với đất nước non trẻ, với xã hội vào thời kỳ đầu dựng xây.
2.2.2. Trang phục thời Ngô - Đinh - Tiền Lê
Đến thời kì này, ngành dệt may đã có những phát triển vượt bậc, với sự
xuất hiện của hàng loạt các chất liệu vải khác nhau như vải bông thô, vải đay,
vải gai, vải cát bá loại mịn, lụa…, đặc biệt là các loại vải được dệt từ tơ tre, tơ
chuối, trong đó loại vải dệt từ tơ chuối có tên gọi là vải Giao Chỉ rất nổi tiếng.
Cùng với sự phát triển của xã hội, quan niệm về cái đẹp, thẩm mỹ và
thời trang cũng không ngừng tiến bộ. Các loại trang sức ngày càng phong
phú và đa dạng hơn trước, với các loại vòng tay, nhẫn, hoa tai, trâm… được
chế tác hết sức tinh xảo bằng nhiều chất liệu quý: vàng, bạc, hổ phách, thủy
tinh….
Đến triều đại nhà Đinh (968 - 980), về trang phục, sử sách đời sau chỉ
nhắc đến một số rất ít hiện tượng như (năm 974) quân lính "đều đội mũ
chỏm", bằng, bốn bên hình vng (Mũ làm bằng da, bốn cạnh khít lại, trên
hẹp dưới rộng), gọi là mũ "tứ phương bình đỉnh". Hoặc có nhắc đến mũ của
các đạo sĩ là màu vàng, áo của các nhà sư là màu thâm, các quan được dùng
ấn vàng thì thắt lưng dải tím, được dùng ấn bạc thì thắt dải xanh.
11
Sang thời (tiền) Lê (981 - 1009), ta thấy: Vua Lê Đại Hành lên ngôi
mặc áo long cổn, về sau áo mặc thường dùng vóc đỏ, mũ trang sức trân châu.
Như vậy là suốt thời gian dài này, tư liệu và hiện vật về trang phục để
lại rất hiếm. Kể cả về sau, những tài liệu thành văn cũng chỉ chủ yếu nói về
trang phục trong Triều Đình (nhắc đến tên mũ, tên áo, màu sắc... chứ không
miêu tả tỉ mỉ, cặn kẽ). Tuy nhiên, trong những thời kỳ chế độ phong kiến ổn
định, thì càng về sau, trang phục cũng đã dần dần được qui định cho từng
thành phần trong xã hội (vua, quan, dân...) cho mọi nghi thức trong cuộc sống
(cưới, tang, lễ, hội...). Căn cứ trên hình thức, màu sắc, họa tiết... trong trang
phục, ở từng giai đoạn, sự phân biệt mang tính chất giai cấp đã được hình
thành rõ rệt.
2.2.3. Trang phục thời Lý
Là một trong những giai đoạn cực thịnh của triều đại phong kiến, vua
thời Lý đã ban hành những quy định về phục trang để phân biệt giữa các tầng
lớp nhân dân và quan lại. Nhà vua còn thể hiện tinh thần tự lập tự cường của
dân tộc qua việc không dùng gấm vóc của triều Tống để may lễ phục mà sử
dụng các chất liệu vải trong nước.
Điểm nổi bật nhất trong trang phục thời này là sự phát triển sang một
cấp độ mới của hoa văn trang trí, khơng cịn là những hình ảnh đơn giản và
thơ sơ, các hoa văn hình xoắn, hình móc… được thêu tinh xảo trên trang
phục, thể hiện sự giao hòa đầy ý nghĩa giữa thiên nhiên và cuộc sống con
người.
2.2.4. Trang phục thời Trần
Điểm nổi bật nhất trong triều đại nhà Trần chính là 3 lần đánh bại giặc
xâm lược Nguyên – Mông. Do liên tiếp phải đối đầu với những kẻ thù hùng
mạnh, nên tâm lý sẵn sàng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” luôn thường
trực trong cuộc sống quân dân thời Trần, ảnh hưởng đến cả phục sức và quan
12
niệm thẩm mỹ của cả dân tộc. Bên cạnh tập tục xăm lên mình hai chữ “Sát
thát” đã trở thành huyền thoại, người dân Đại Việt còn xăm lên bụng những
chữ “Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc” vừa thể hiện tinh thần báo đền
ơn nước, vừa thể hiện quan điểm thẩm mỹ lúc bấy giờ.
Với phụ nữ, trang phục thường là áo tứ thân, đàn ông thường để mình
trần hoặc mặc áo tứ thân, quần mỏng bằng lụa thâm, màu sắc của hai giới
cũng rất giản dị, thường là màu đen. Tục nhuộm răng đen bắt đầu phổ biến.
Thực tế luôn phải đối đầu với giặc ngoại xâm đã không cho phép sự cầu kỳ
trên phương diện thời trang, thế nên dễ hiểu vì sao giai đoạn này, trang sức
và trang phục đều cực kỳ đơn giản, phụ nữ không trang điểm diêm dúa, vua
quan ăn mặc giản dị… Đáng quý nhất là tinh thần độc lập tự chủ thể hiện
trong việc nhà Trần không quy định màu sắc trang phục theo quan điểm
Khổng giáo coi trọng chính sắc, mà vẫn dùng các màu gián sắc như màu tía,
màu hồng, biếc, lục… để may mặc cho quan các cấp.
2.2.5. Trang phục Triều Nguyễn
Đời sống xã hội trong thời kỳ này có ảnh hưởng khơng nhỏ đến trang
phục của người dân. Nếu như trang phục của tầng lớp thống trị ngày càng bị
“pha tạp” theo lối đua đòi cải cách nửa mùa, thì trong xã hội, những phục
trang truyền thống như áo dài, áo yếm, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai
thao… đã trở thành hơi thở và là kết tinh văn hóa của cả dân tộc. Trong khi
chiếc yếm đào vượt khỏi chốn cung đình để cùng người phụ nữ cần lao “dầm
mưa dãi nắng” ngoài đồng ruộng, hay cùng áo tứ thân lượt là trong những
buổi hội Lim, thì thời trang phương Tây với những chiếc váy xòe, những
chiếc đầm cách tân hiện đại cũng dần du nhập và được phụ nữ quý tộc trẻ ưa
chuộng, trong đó Hồng hậu Nam Phương – vị hồng hậu cuối cùng của triều
đại phong kiến Việt Nam, là người rất thích mặc trang phục Tây phương và
mặc rất đẹp.
2.2.6. Trang phục từ Cách mạng tháng Tám đến nay
13
Lịch sử đất nước có những thay đổi lớn lao: Cách mạng Tháng Tám
(1945) thành cơng rồi sau đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và
chống Mỹ. Vào thời kỳ này, trong nhân dân, người già như trẻ lại. Họ mặc
những bộ quần áo mới đi học, đi làm. Nhiều người cất áo the, khăn đóng,
mặc áo cánh hoặc sơ-mi gọn gàng hơn. Phụ nữ nhà giàu bớt diêm dúa, đi
theo chị em lao động làm việc công ích. Công nhân áo trắng, quần yếm xanh,
nông dân quần áo nâu mới. Đặc biệt, lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng (nhất là
các em ở thành thị), các em mặc đồng phục, tập trung hội họp, ca hát... bước
đầu làm xóa ranh giới giữa con "ơng chủ", con "chị sen", con "ông đốc", con
"anh thợ" của những ngày hôm trước.
2.3. Những biến đổi trong trang phục truyền thống cho tới ngày
nay
Đầu tiên phải kể đến sự xuất hiện của trang phục hiện đại ở đất nước
ta. Khái niệm trang phục hiện đại chỉ được đặt ra khoảng những năm đầu của
thế kỷ 20. Khi đó, xã hội Việt Nam đang ở trong giai đoạn nửa thuộc địa, nửa
phong kiến với nhiều biến chuyển sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Trong giai đoạn này, nhiều bộ âu phục được du nhập cho phù hợp với lối
sống ở đơ thị, cùng với đó là một số bộ trang phục truyền thống cũng được
cách tân. Tiêu biểu nhất cho xu hướng này là bộ quần áo dài tân thời trong
những giai đoạn thập niên 30, 40 của thế kỷ 20. Đó là hình thức trang phục
nữ được cải tiến từ áo truyền thống như áo tứ thân, ngũ thân với sự thay đổi
hai vạt trước, sau mặc với quần sa tanh và đi giày cao gót. Cùng với đó là áo
cổ tròn, quần âu cũng đã bắt đầu xuất hiện. Từ sự vận động chung của xã hội
qua từng giai đoạn, trang phục cũng có nhiều biến đổi cho phù hợp với hồn
cảnh và cơng việc khác nhau nhưng vẫn giữ được yếu tố truyền thống và gắn
liền với đặc điểm vùng miền. Phải đến những năm cuối thế kỷ 20, phong cách
ăn mặc mới chú ý đến vóc dáng của mỗi cá nhân theo hướng tôn vinh vẻ đẹp
của mỗi người. Điều này cũng phù hợp với bối cảnh xã hội đã và đang mở
14
cửa trên nhiều phương diện, cả về kinh tế lẫn văn hóa nghệ thuật. Q trình
hội nhập sau này cũng tạo nên những xu hướng thời trang theo những phong
cách khác nhau trên thế giới, dẫn đến sự xung đột trong nhận thức về vẻ đẹp
giữa truyền thống và hiện đại.
Đến nay, Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ trong phong
cách thời trang. Vấn đề ăn mặc ngày càng được quan tâm nhiều hơn, người
Việt Nam bắt đầu lựa chọn trang phục theo phong cách và không ngừng cập
nhật xu hướng thời trang thế giới. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những nhà
thiết kế tài năng, sự ra đời của vô số thương hiệu, cửa hàng, trung tâm mua
sắm… cho thấy bức tranh sôi nổi của ngành công nghiệp thời trang ở Việt
Nam. Những bộ trang phục thoải mái, phóng khống, năng động như áo thun,
quần short là lựa chọn hàng đầu của rất nhiều người hiện nay. Bên cạnh đó,
những chiếc đầm ngắn hiện đại, kết hợp áo khốc len nhẹ bên ngồi cũng
thường xun được chị em phụ nữ lựa chọn. Có thể thấy rằng so với thời kỳ
thập niên 80, văn hóa mặc của người Việt Nam ngày nay phóng khống, đa
dạng về mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng và giúp phái đẹp tôn lên sự cá tính, năng
động.
15
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VÀ MỘT SÔ GIẢI PHÁP
3.1. Nguy cơ mai một, biến dạng của trang phục truyền thống
Cũng giống như tiếng nói, trang phục là một trong những dấu hiệu
quan trọng để nhận biết sự khác biệt trong văn hóa của từng dân tộc. Theo
thời gian, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trang phục truyền
thống của Việt Nam đã và đang có một số thay đổi để phù hợp với nhu cầu
và điều kiện sống thực tế. Tuy nhiên, đang xuất hiện những biểu hiện đáng lo
ngại có thể đưa tới nguy cơ biến dạng, bị mai một, thậm chí biến mất nét đặc
sắc riêng của các bộ trang phục truyền thống. Từ việc coi trang phục truyền
thống là lỗi thời, lạc hậu, thiếu tiện dụng nên không chỉ giới trẻ mà người lớn
tuổi ở một số nơi cũng kém mặn mà với những bộ trang phục này. Thay vào
đó, hầu hết người dân chọn cách ăn mặc theo kiểu hiện đại, ngay cả trong
những lễ hội quan trọng. Chính vì thế, giờ đây việc nhận biết bản sắc, định
danh dân tộc qua cách ăn mặc hằng ngày tại khơng ít nơi trở nên khó khăn.
Đặc biệt là ở giới trẻ ngày nay, ngày càng ít người trẻ chọn trang phục
truyền thống để mặc trong các dịp đặc biệt và một trong số đó có dấu hiệu
lệch lạc trong phong cách ăn mặc. Trước hết, là do sự phát triển của nền
kinh tế thị trường. Điều này cho phép các bạn trẻ tiếp cận và tiếp nhận các
kiểu trang phục của các dân tộc trên khắp thế giới. Sự bắt chước khập khiễng
được xem là một cơ hội để thể nghiệm và khẳng định bản thân. Thời đại
internet mở rộng đẩy mạnh tốc độ trao đổi thông tin không giới hạn. Khả
năng tiếp cận và sáng tạo cao khiến cho nhu cầu học hỏi cũng tăng theo. Họ
bắt chước cách ăn mặc của các thần tượng hoặc đua đòi theo xu hướng thời
trang “kì lạ”. Mục đích là tạo ra sự khác biệt, gây chú ý từ người khác. Nhưng
điều mà các bạn trẻ chú ý không phải là phong cách đẹp đẽ, kín đáo, phù hợp.
Cái các bạn quan tâm là sự lập dị, bụi bặm hoặc hở hang. Một xu hướng thời
trang “lệch chuẩn” có dấu hiệu bùng phát mạnh. Những chiếc áo quá mỏng,
16
quá hở, quần jean xé gấu, áo thun in hình ảnh phản cảm hoặc những dòng chữ
tối nghĩa hoặc tục tĩu,… vẫn thường xuất hiện trên đường phố. Đặc biệt là
các bạn nữ là lối ăn mặc hở hang, “mặc như khơng mặc”. Ra đường, khơng
khó để bắt gặp những chiếc quần ngắn cũn cỡn làm người ta đỏ mặt. Hay
những chiếc áo xun thấu có thể nhìn thấy tồn bộ nội y bên trong. Khoe vẻ
đẹp hình thể vốn là một nhu cầu của con người. Nhưng khoe mẽ một cách
quá lố lại đi ngược với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục.
Ngoài ra, ngay cả ở trong những trang phục mang tính biểu tượng như
là Áo Dài– một trong những loại trang phục truyền thống và cịn là quốc phục
của Việt Nam cũng đang có sự thay đổi theo nhiều chiều hướng. Không chỉ
được xem là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt Nam, áo dài còn được
coi là biểu tượng của nghệ thuật giúp khơi gợi cảm hứng cho rất nhiều nghệ
sĩ trên mọi lĩnh vực. Áo dài đã từ đời sống đi vào nghệ thuật điện ảnh, âm
nhạc, hội họa…, thậm chí trở thành một biểu tượng, một phần tâm hồn người
Việt trên chính q hương hay ở khắp thế giới.
Thật khó mà dịch từ "Áo Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào vì khơng ở
đâu có một tà áo dài như ở Việt Nam. Áo Dài, trang phục truyền thống của
phụ nữ Việt Nam, ơm sát cơ thể, có cổ cao và dài khoảng ngang gối. Nó được
xẻ ra ở hơng. Áo Dài vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo nhưng vẫn
biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ.
Áo dài đã có nhiều sự biến đổi trong suốt hành trình lịch sử của dân tộc
ta, hình ảnh cổ xưa nhất của áo dài được biết đến là áo Giao lĩnh (khoảng năm
1744). Lúc này, áo có kích thước rộng, thân áo được may bằng 4 tấm vải, dài
chấm gót chân, xẻ 2 bên hơng, phần tay áo dài, cổ tay rộng. Áo mặc cùng váy
đen bên trong và thắt lưng vải bên ngoài. Đến thế kỷ XVII, để thuận tiện hơn
trong công việc làm đồng và buôn bán, chiếc áo Giao lãnh được thiết kế gọn
lại thành kiểu áo tứ thân, trong đó vạt trước được xẻ rời thành 2 vạt, người
mặc có thể buộc 2 vạt này lại với nhau ở phía trước bụng. Áo tứ thân thường
17
có màu tối vì trang phục này được sử dụng phổ biến ở tầng lớp nông dân những người lao động quanh năm với ruộng đồng. Trong những thập kỷ đầu
của thế kỷ XX, áo dài Lemur được ra đời bởi bàn tay sáng tạo của họa sĩ Cát
Tường. Áo được may ơm sát cơ thể, chỉ có hai vạt trước và sau, vạt trước dài
chấm đất. Nhằm tạo điểm nhấn, chiếc áo dài Lemur được Âu hóa với phần áo
có thắt eo, dáng tay phồng, cổ áo kht hình trái tim. Đến thời áo dài Lê Phổ,
dưới bàn tay khéo léo của nhà thiết kế cùng tên, bà đã thu gọn kích thước áo
dài để ơm vừa vặn thân hình người phụ nữ Việt Nam, đẩy cầu vai, kéo dài tà
áo chạm đất và đem đến nhiều màu sắc mới mẻ. Nói cách khác, bà khiến nó
trở nên gợi cảm, tinh tế và thu hút hơn, nhận được nhiều lời khen ngợi và
được sử dụng qua nhiều thời kì. Đến những năm 1960, áo dài Raglan (còn gọi
là áo dài Giắc lăng) ra đời do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra.
Điểm khác biệt lớn nhất của áo dài Raglan là áo ơm khít cơ thể hơn, cách nối
tay từ cổ chéo xuống một góc 45 độ giúp người mặc thoải mái linh hoạt hơn.
Hai tà nối với nhau bằng hàng nút bấm bên hông. Đây chính là kiểu áo dài
góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.
Và trong những năm gần đây, bên cạnh áo dài truyền thống, áo dài cách
tân đã trở thành xu hướng thời trang của nhiều người, trong đó, nhiều nhà
thiết kế đã có sáng tạo, đổi mới và có sự phá cách dẫn tới nhiều ý kiến trái
chiều. Tà áo dài không chỉ theo chị em phụ nữ đến mỗi dịp lễ tết, ngày đặc
biệt mà đã trở thành trang phục hết sức đời thường để đi làm, đi chơi, đi chụp
ảnh. Phần lớn, phái đẹp cho rằng chiếc áo dài truyền thống quá dài và rườm
rà để có thể hoạt động hằng ngày, đặc biệt là trong công việc phải di chuyển
nhiều và liên tục. Cùng với đó là thời tiết của Việt Nam khá nóng bức nên bộ
trang phục áo dài truyền thống đã khơng cịn thích hợp để trở thành bộ trang
phục đời thường như ngày xưa. Đó là lý do áo dài cách tân hiện đại ra đời.
Vài năm trước đây, những bộ áo dài cách tân dường như chỉ xuất hiện trên
sàn diễn thời trang, sàn catwalk chuyên nghiệp trong bộ sưu tập của nhà
thiết kế nổi tiếng như Thủy Nguyễn, Hà Linh Thư, Sĩ Hoàng…Phải đến
18
cuối năm 2016, với sự xuất hiện của rất nhiều ngôi sao trong bộ sưu tập áo
dài cách tân nữ cùng ấn tượng mới thực sự tạo nên “cơn sốt” cho mẫu áo dài
mới mẻ của Việt Nam những năm Tết 2017.
Tuy nhiên chính điều này đã dẫn đến nhiều ý kiến trái chiều và đã tốn
không biết bao nhiêu giấy mực của các nhà báo. Theo nhà nghiên cứu trang
phục Trịnh Bách, cách tân là phải bám vào nét truyền thống, trong khi những
chiếc áo dài cách tân trên thị trường hiện nay, nhiều thiết kế khơng có được
điều đó. Có nhà thiết kế đưa những sáng tạo mới vào nhưng lại khơng cịn
giống áo dài truyền thống Việt Nam. Ơng lấy ví dụ, như áo dài của nam,
người ta không chiết eo mà may suông thẳng để thể hiện sự nam tính. Đối với
việc kết hợp váy đụp với áo dài mới xuất hiện trong năm vừa qua mà nhiều
người cho rằng đó là kiểu kết hợp ngày xưa của các cụ là khơng chính xác,
mà đó là váy có nguồn gốc của dân tộc Choang ở Trung Quốc. Cũng theo nhà
nghiên cứu Trịnh Bách, trong lịch sử áo dài ghi nhận nhiều dấu ấn về sự cách
tân, nhưng muốn giá trị của trang phục này được lan tỏa thì phải giữ cho
được sự mềm mại, tinh thần của người Việt trong đó.
Nhà thiết kế Đức Hùng cũng đã từng có ý kiến: “Tơi khẳng định ln,
đó khơng phải áo dài Việt Nam. Nếu chúng ta cổ xúy, ủng hộ kiểu áo dài
cách tân phối với váy đụp này thì hình ảnh tà áo dài truyền thống của Việt
Nam sẽ bị mai một đi…”. Quả thật, những thay đổi quá khác lạ so với áo dài
truyền thống đã gây nên làn sóng phẫn nộ với những ai muốn gìn giữ vẻ đẹp
nguyên bản của chiếc áo dài truyền thống. Song, đây cũng là câu hỏi bỏ ngỏ
khi mâu thuẫn giữa những giá trị cũ và những thay đổi “cần có” của thời đại
mới vẫn ln tồn tại khơng chỉ ở tà áo dài, mà còn ở mọi thứ trong cuộc sống.
Ở nhiều cuộc thi sắc đẹp mang tầm cỡ quốc tế hiện nay, những hoa hậu
đại diện cho Việt Nam đi thi cũng chọn ra những bộ trang phục mang tính
thời sự và biến tấu trang phục cho hồnh tráng, ấn định vào cơ thể một
cách vơ đối. Nếu muốn khẳng định áo dài là quốc phục, là di sản Việt Nam
19
thì thế hệ trẻ hãy khẳng định nó khi mặc áo dài truyền thống, đừng gọi áo dài
cách điệu là áo dài truyền thống, sẽ làm mất đi hình ảnh cao quý của di sản
mà từ bao đời nay vẫn được trân trọng như một bảo vật quốc gia. Mọi sự cách
tân đều có giới hạn, đi quá giới hạn đó sẽ khiến trang phục truyền thống bị
biến dạng, méo mó, hậu quả là sự nhìn nhận lệch lạc của các thế hệ sau về
các giá trị truyền thống thể hiện thơng qua trang phục.
3.2. Những chuyển biến mang tính tích cực của trang phục truyền
thống
Song song với việc các trang phục truyền thống đang bị biến dạng, mai
một thì chúng ta khơng khó để nhận ra việc bảo tồn, phát huy những giá trị
văn hóa, trang phục truyền thống vẫn được đơng đảo mọi người giữ gìn, phát
huy. Dạo quanh một vòng các trang mạng xã hội chúng ta rất dễ bắt gặp hình
ảnh các nhóm bạn trẻ xuất phát từ mong muốn tìm lại những nét văn hố
truyền thống mà phong trào mặc cổ phục, trang phụ truyền thông Việt đã
được lan toả và dần phát triển thành trào lưu trong giới trẻ. Các hội nhóm về
việc chia sẻ kiến thức lịch sử trang phục, đam mê và muốn tìm hiểu chuyên
sâu về từng loại trang phục truyền thống của nước ta càng lúc càng nở rộ.
Không chỉ vậy, giờ đây trang phục truyền thống còn được các nghệ sĩ
hưởng ứng và lan tỏa mạnh mẽ. Cùng với sự nỗ lực của các bạn trẻ, sự phát
triển của các bạn trẻ, cổ phục Việt những năm gần đây cũng nhận được sự
quan tâm đông đảo của giới nghệ thuật. Các dự án phim cổ trang, từ điện ảnh
như “Quỳnh hoa nhất dạ” tới truyền hình như “Phượng Khấu”, các MV ca
nhạc như “Không thể cùng nhau suốt kiếp” (ca sỹ Hoà Minzy) hay Hết
Thương Cạn Nhớ (Đức Phúc) và Anh Ơi Ở Lại (Chi Pu) nối đuôi nhau lên
sóng đã gây được tiếng vang lớn thu hút sự chú ý đông đảo của khán giả
trong nước lẫn quốc tế. MV “Không Thể Cùng Nhau Suốt Kiếp” của ca sĩ
Hịa Minzy hay “Anh ơi ở lại” của Chipu khơng chỉ được đầu tư về bối
cảnh, nội dung đến từng chi tiết nhỏ, tạo hình, phục trang mơ phỏng các nhân
20
vật cũng được đầu tư rất chỉn chu. Phượng Khấu - Bộ phim cung đấu đầu
tiên của Việt Nam lấy bối cảnh thời Nguyễn cũng được đầu tư hơn 5 tỷ đồng
để tạo nên hơn 500 bộ cổ phục công phu và chăm chút đến từng đường kim
mũi chỉ.
Trước đây khi nhắc đến trang phục truyền thống các quốc gia nhiều
người chỉ biết đến Hán phục (Hanfu) của Trung Quốc, Hàn phục (Hanbok)
của Hàn Quốc và Hòa phục (Wafuku hay Kimono) của Nhật Bản. Nhưng
hiện nay, với những nỗ lực phục dựng trang phục cổ Việt Nam của các bạn
trẻ, khái niệm “Việt phục” đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết, đưa trang phục
truyền thống Việt từng bước đứng ngang hàng với các nước trên thế giới.
Những bộ trang phục của quá khứ được tạo nên một sứ mệnh mới trong cuộc
sống hiện đại đã cho chúng ta thấy, giới trẻ hiện nay không phải không quan
tâm tới lịch sử mà họ chỉ nghiên cứu và phát triển chúng theo cách của mình.
Chúng ta có thể thấy rõ ràng trang phục truyền thống vừa tiện lợi vừa phản
ánh nét nhã nhặn, thanh lịch mặn mà, lại thể hiện sâu sắc nền văn hóa thuần
hậu của dân tộc. Kết hợp với nét hiện đại trẻ trung làm tôn vinh vẻ đẹp Việt
Nam. Qua từng hành động, đóng góp của mọi người để giúp phục dựng trang
phục truyền thống còn cho thấy được tinh thần đoàn kết, mong muốn sục sơi
muốn giữ gìn, lưu truyền những nét cổ xưa của người Việt ta – chúng ta hịa
nhập chứ khơng hịa tan.
3.3. Các giải pháp bảo tồn và phát triển văn hóa trang phục truyền
thống
Bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đồng thời với cuộc “cách
mạng công nghiệp 4.0” đã và đang ảnh hưởng mạnh đến nhiều quốc gia,
nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa đặc biệt là về văn hóa trang phục. Phong
cách ăn mặc thể hiện trình độ văn hóa của mỗi người. Nó cịn làm đẹp hơn
cho bộ mặt của xã hội. Qua phong cách ăn mặc của người dân ở một quốc
gia ta hiểu được nơi đó phát triển đến độ nào. Với vai trò, chức năng, nhiệm
21
vụ trong lĩnh vực văn hóa, thời gian qua Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
có một số chương trình, chính sách cụ thể nhằm bảo tồn, phát huy trang phục
truyền thống. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng để trang phục truyền thống có
chỗ đứng xứng đáng trong sinh hoạt của cộng đồng thì bên cạnh những kế
hoạch, chính sách bài bản, khoa học và các giải pháp khả thi từ phía cơ quan
chức năng, rất cần sự hỗ trợ, hợp tác nhiệt thành của cả cộng đồng. Trước hết
là việc chính mỗi cộng đồng dân tộc cần chủ động và tự giác coi việc gìn giữ,
phát triển trang phục truyền thống của dân tộc mình là việc phải làm cho hiện
tại và tương lai. Chưa kể, để trang phục truyền thống có "đất sống", phát
triển cần tạo điều kiện, mơi trường văn hóa, khơng gian phù hợp để người
dân tăng cường sử dụng trang phục truyền thống. Ðó chính là lễ hội truyền
thống, những ngày văn hóa dân tộc, sự giao lưu văn hóa trong cộng đồng, các
cuộc thi nhằm tơn vinh giá trị văn hóa trang phục.
Ngoài ra, nhà trường cũng là nơi việc giáo dục về tầm quan trọng của
trang phục truyền thống nên được nhắc đến. Nhà trường cần khuyến khích
học sinh, giáo viên sử dụng trang phục truyền thống trong dịp kỷ niệm những
ngày lễ lớn, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về trang phục truyền thống, tổ chức
thi mặc trang phục truyền thống. Ðiều này sẽ góp phần khiến việc tiếp xúc, sử
dụng trang phục truyền thống trong sinh hoạt thường ngày trở thành những
hoạt động có tính chất thường xun, liên tục và được giới trẻ đón nhận.
Chỉ khi mỗi cá nhân cho tới cả cộng đồng co y thức đúng đắn với trang
phục truyền thống, thì giá trị văn hóa đặc sắc về trang phục mới được tơn
vinh và có vị trí xứng đáng trong đời sống, góp phần tích cực vun đắp tình
u văn hóa truyền thống, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Do vậy, mọi
người cần chú ý khi lựa chọn trang phục sao cho phù hợp với vóc dáng, hồn
cảnh và xu thế thời đại. Nhưng quan trọng hơn cả là không làm mất đi bản
sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam.
22
KẾT LUẬN
Trong lịch sử phát triển của dân tộc, với những nốt thăm trầm của lịch
sử, sự tiếp thu và du nhập của hàng trăm thứ văn hóa khác nhau từ việc tìm
hiểu trang phục của những người Việt cổ đến trang phục dân tộc Việt ngày
nay và trang phục của các tổ chức chung trong xã hội Việt Nam, chúng ta
thấy rõ sự tiếp nối vững vàng giữa truyền thống và hiện đại, trong điều kiện
giao lưu văn hóa đa dạng và thường xuyên đã có những sự sáng tạo nhuần
nhị và cởi mở giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Chúng ta khơng hẹp hịi, bảo
thủ trước sự phát triển, thay đổi các kiểu trang phục, nhất trong thanh niên,
nhưng khơng vì thế mà cơng nhận những hiện tượng ăn mặc đua địi, chạy
theo “mốt” phơ trương, xa hoa, lãng phí... xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Đồng thời, cũng cần phản đối những quan điểm cho rằng nền
kinh tế của ta chưa phát triển cao, nên có thể ăn mặc tùy tiện, cẩu thả, thiếu
thẩm mỹ, làm giảm giá trị cao đẹp của con người Việt Nam. Trang phục là
đối tượng của thị giác, nó phải là biểu hiện bên ngồi của một nội dung bên
trong mang đầy đủ những chuẩn mực lành mạnh, hài hòa, thanh lịch, thực
tiễn. Việc lựa chon ăn mặc như thế nào là quyền của mỗi cá nhân. Song qua
trang phục làm con người đẹp hơn là một điều cần phải quan tâm hơn nữa.
Trang phục phù hợp, đứng đắn sẽ giúp chúng ta tự tin, cởi mở và tiếp thu
được tinh hoa dân tộc.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, Lê Minh Hạnh, Nxb Khoa học
& Kỹ Thuật, 2006.
2. Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, Phạm Ngọc Trung, Nxb Hà
Nội, 2013
3. Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nguyễn Phi Hoành, Nxb Khoa học
xã hội, 1970. Mỹ thuật thời Lê Sơ, Nxb Văn hóa, 1978.
4. Mỹ thuật thời Lý, Nxb Văn hóa, 1973.
5. Mỹ thuật thời Mạc, Nxb Văn hóa, 1993.
6. Mỹ thuật thời Trần, Nxb Văn hóa, 1977.
7. Nét cũ duyên xưa, Bùi Quang Thắng, Nxb Lao động, 2017.
8. Nguyễn Hồng Hà, Văn hoá truyền thống dân tộc với việc giáo dục
thế hệ trẻ, Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội, 2001, tr.19.
9. Nhiều tác giả, Bản sắc dân tộc trong văn hoá văn nghệ, Nxb Văn
học, Hà Nội, 2001, tr.698.
10.Nhiều tác giả. Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt
Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.17.
11.Tục ngữ ca dao Việt Nam, Vũ Ngọc Phan, Nxb Khoa học xã hội,
1978.
12.Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, GS.TS. Ngô Đức
Thịnh, Nxb Tri thức.
13.Trang Phục Truyền Thống Của Các Dân Tộc Việt Nam, nhiều tác
giả, Nxb Văn hóa – Thông tin
24
14.Trang phục Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, Nguyễn Thu
Phương, Nxb Lao động, 2005.
15.Trang phục Việt Nam, Đoàn Thị Tình, Nxb Mỹ thuật, 2007.
16.Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hố
Việt Nam - Trong cuốn: Những vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội 1998, tr. 113 - 114
25