Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TL CSVHVN ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến việc hình thành, phát triển văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.4 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Xuyên suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội lồi người,
khơng có bất cứ nền văn hóa nào, khơng có bất cứ xã hội nào sống và tồn tại
bên ngoài giới tự nhiên, tách rời giới tự nhiên, mà ngược lại, con người ln
ln gắn bó khăng khít với tự nhiên, giới tự nhiên được xem như là tiền đề, là
điều kiện, là môi trường sống đầu tiên để con người sống và tồn tại. Từ chỗ
sợ hãi tự nhiên, nương theo tự nhiên, càng ngày, con người càng tác động
mạnh mẽ tới mơi trường tự nhiên.
Văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam cũng khơng nằm ngồi quy
luật khách quan đó. Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước. Cho đến ngày nay, để lập lại sự cân bằng giữa tự
nhiên và con người, giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định và phát triển hài
hòa, với mong muốn xây dựng một mơi trường xã hội bền vững, thì văn hóa
lại đóng vai trò vừa là động lực, vừa là hệ điều chỉnh cho sự phát triển kinh tế
- xã hội. Văn hóa như chất keo kết dính các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội…tạo nên hình hài và bản sắc dân tộc. Văn hóa có khả năng bao quát một
cách trực tiếp, đảm bảo tính bền vững của xã hội, tính kế thừa của lịch sử và
khơng bị trộn lẫn ngay cả khi hội nhập vào những cộng đồng lớn hơn.
Với mong muốn nghiên cứu kỹ hơn về văn hóa người Việt trong mối
quan hệ với mơi trường tự nhiên, văn hóa người Việt với các khía cạnh ẩm
thực, trang phục, đi lại và làm ăn, tôi đã lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng của
môi trường tự nhiên đến việc hình thành, phát triển văn hóa Việt Nam”
làm đề tài tiểu luận kết thúc mơn Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hy vọng rằng
những góc nhìn được đề cập trong tiểu luận sẽ góp thêm giá trị vào việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa mơi trường và văn hóa, từ đó xây dựng phương
hướng phát triển văn hóa phù hợp.
1



2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích:
Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa mơi trường
tự nhiên và văn hóa xã hội, nhìn nhận lại q trình phát triển văn hóa Việt
Nam, từ đó đề xuất phương hướng phát triển văn hóa Việt Nam trong thời
gian sắp tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu


Hệ thống những khái niệm, cơ sở lý luận về mối quan hệ biện

chứng giữa môi trường tự nhiên và sự hình thành, phát triển văn hóa.• Vận
dụng mối quan hệ biện chứng giữa môi trường tự nhiên và văn hóa xã
hội để đánh giá thực trạng phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay.


Đề xuất phương hướng đối với nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt

Nam trong giai đoạn sắp tới.
3. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu; kết luận; danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 3 chương, 10 tiết.

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA MƠI
TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ VĂN HĨA
1.1.


Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm tất cả các sinh vật sống và không sống có
trong tự nhiên, có nghĩa là khơng phải là nhân tạo. Thuật ngữ này thường
được áp dụng cho Trái Đất hoặc một số phần của Trái Đất. Môi trường này
bao gồm sự tương tác của tất cả các loài sống, khí hậu, thời tiết và tài
ngun thiên nhiên có ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người và hoạt động
kinh tế. Khái niệm mơi trường tự nhiên có thể được phân biệt thành các thành
phần:
• Các đơn vị sinh thái hoàn chỉnh hoạt động như các hệ thống tự
nhiên mà khơng có sự can thiệp lớn của con người văn minh, bao gồm tất cả
thảm thực vật, vi sinh vật, đất, đá, khí quyển và các hiện tượng tự nhiên xảy
ra trong ranh giới và bản chất của chúng.
• Các nguồn tài nguyên thiên nhiên phổ biến và các hiện tượng vật lý
thiếu ranh giới rõ ràng, chẳng hạn như khơng khí, nước và khí hậu, cũng như
năng lượng, bức xạ, điện tích và từ tính, khơng bắt nguồn từ hành động văn
minh của con người.
Trong cuốn “Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam”, mơi trường tự nhiên
được hiểu là “phần ngoại cảnh bao quanh chúng ta, là cơ sở, nền tảng cho
cuộc sống của con người, tồn tại và phát triển. Mơi trường tự nhiên gồm có
các yếu tố: khí quyển, sinh quyển, thủy quyển và thạch quyển”. [1, tr22]
Khí quyển là tầng khơng khí bao quanh Trái đất, trong đó có tầng ozon
ngăn chặn các tia cực tím và các tia sáng ngồi vũ trụ khơng cần thiết cho
cuộc sống xâm nhập vào bề mặt Trái đất; ngồi ra, trong khí quyển cịn có các
ngun tố oxi, nito, cacbon, hydro…là nguồn dưỡng khí duy trì sự sống của
3


con người. Sinh quyển bao gồm thế giới thực vật và thế giới động vật, chúng

vô cùng đa dạng và phong phú, tồn tại ở trên mặt đất, dưới biển sâu và trong
lòng đất. Thủy quyển là quyển nước, một nhân tố hết sức quan trọng cho sự
sống của thế giới và được phân bố ở khắp mọi nơi. Thạch quyển là là quyển
đá. Theo các nhà địa chất, từ khi hình thành Trái Đất, núi lửa hoạt động phun
lên các nham thạch bằng đá rồi trải qua hang tỷ năm, những nham thạch đó bị
phong hóa, dần dần tạo ra đất. Nhờ mưa, lũ, bão tố mà các dòng suối, dịng
sơng được hình thành, vận chuyển phù sa tạo nên những vùng thung lũng,
đầm lầy và đồng bằng màu mỡ.
Trong môi trường thực tế, 4 thành tố nêu trên ln ln có sự hịa trộn
để tạo ra một mơi trường tự nhiên vừa gần gũi, thân thiện, vừa biến đổi khôn
lường tác động đến cuộc sống của con người theo những cách khác nhau.
Trên thực tế, môi trường tự nhiên được chia ra làm hai loại: môi trường thiên
tạo và môi trường nhân tạo. Môi trường thiên tạo là núi, sơng, biển, mặt trời,
khơng khí…, đó là những yếu tố được tạo thành bởi năng lượng vũ trụ mạnh
mẽ mà con người không thể tự tạo ra được. Môi trường nhân tạo là môi
trường do con người tác động vào tự nhiên nhằm phục vụ cuộc sống của
mình, như đê biển, đê sơng, kênh rạch, làng xóm,…
1.1.2. Văn hóa
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta nói nhiều về “văn hóa”, văn hóa
ăn, văn hóa ở, văn hóa mặc, văn hóa lao động, văn hóa gia đình, văn hóa
nghe nhìn, văn hóa đọc,… Trong ngơn ngữ thường ngày, sắc thái nhiều vẻ và
ý nghĩa đa dạng của từ “văn hóa” được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, khoa học; xuất hiện trong các văn kiện, các cương lĩnh chính trị của
Đảng, được báo chí sử dụng làm công cụ truyền đạt tư tưởng. Đặc biệt, các
hoạt động nghệ thuật thường xuyên sử dụng từ “văn hóa”. Có thể nói, văn
hóa là một khái niệm gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Thế nhưng, văn hóa
hồn tồn “khơng phải là khái niệm có nội hàm hẹp, đơn nghĩa, đơn tuyến,
4



được sử dụng trong việc khái quát trí thức lịch sử hay một vài tri thức xã hội
nào đó”. [2, tr.14]
Nếu được hiểu theo chiết tự từ, thì “văn” là đẹp, “hóa” là giáo hóa. Vậy
thì “văn hóa”, hiểu một cách đơn giản, chính là giáo dục, giáo hóa con người
ta hướng đến cái đẹp, điều hay lẽ phải trong cuộc sống.
Nếu văn hóa được tiếp cận dưới góc độ khoa học, người ta bắt đầu thấy
tính phức tạp và đa dạng của nó đến mức khó hiểu. Thời buổi đầu, qua nghiên
cứu mối tương quan của thuật ngữ “văn hóa” trong tiếng Pháp, tiếng Anh với
tiếng Hy Lạp cổ, người ta cho rằng: văn hóa gắn với sự sáng tạo của con
người, gắn với sự tác động của con người vào tự nhiên nhằm tạo ra những sản
phẩm nông nghiệp phục vụ cuộc sống. Cũng từ nền văn minh Hy Lạp cổ đại,
Xixeron quan niệm: Triết học là văn hóa vì triết học là khoa học mở đường,
là khoa học bao trùm văn học, sử học, nghệ thuật. Nhưng đến thế kỷ XVIII,
từ Châu Âu văn minh, một học giả người Pháp cho rằng văn hóa là trí tuệ
của con người, vì con người có trí tuệ thì mới có thể góp phần xây dựng một
xã hội tốt đẹp. Vào năm 1774, một nhà luật học người Đức định nghĩa: văn
hóa là sự tác động của con người vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên, văn hóa
là hoạt động mang tính xã hội và là sản phẩm đặc trưng của con người.
Sang đến phương Đông, Mạnh Tử quan niệm văn hóa đồng nghĩa với
giáo dục, giáo hóa, bởi vì giáo dục, giáo hóa nhằm chế ngự bản năng không
tốt, hướng con người đến với cái chân, thiện, mỹ. Nhà tư tưởng người Ấn lại
cho rằng: văn hóa là một khái niệm rộng, khơng chỉ bao hàm giáo hóa, giáo
dục mà còn bao gồm cả phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật và khoa
học. Tức là khái niệm văn hóa đã được phát triển, bao gồm thêm nhiều lĩnh
vực ngoài giáo dục.
Các nhà khoa học trong nước cũng có những cách tiếp cận khác nhau
về văn hóa. Có quan niệm cho rằng văn hóa là cách sinh hoạt của con người;

5



có quan niệm lại nhấn mạnh văn hóa là quá trình nhân hóa, là sự tách ra khỏi
giới động vật.
Trong cuốn giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, đã nêu ra khái niệm về
văn hóa một cách khái quát, đầy đủ nhất như sau: “Văn hóa là một tổng thể
hệ thống những giá trị, những chuẩn mực, những thói quen, những hoạt động
trong thực tiễn, có ý thức, mang tính xã hội, sáng tạo và nhân văn của một
cộng đồng người nhất định trong lịch sử nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc
sống và tạo ra bản sắc riêng”. [3, tr.9]
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra mấy đặc tính tiêu biểu của văn hóa
như sau:
• Văn hóa mang tính tổng thể, hệ thống
• Văn hóa là sự kết tinh những giá trị
• Văn hóa mang tính chuẩn mực
• Văn hóa mang tính thực tiễn
• Văn hóa bao gồm những hoạt động có ý thức của con người
• Văn hóa mang tính xã hội
• Văn hóa mang tính sáng tạo và nhân văn

6


1.1.3. Phát triển văn hóa
Khi đánh giá sự phát triển văn hóa trong các thời đại khác nhau, C.Mác
và Ph.Angghen không luận chứng cho những thành tựu riêng biệt của mỗi
thời đại ở một hoạt động nào đó, mà các ông đề cập tới trình độ phát triển
chung thông qua những thông số quan trọng nhất về tồn tại của con người
trong quan hệ với tự nhiên và với xã hội. Có thể nói, trong tư tưởng của
C.Mác và Ph.Angghen, sự phát triển văn hóa được thể hiện trực tiếp trong sự
phát triển những điều kiện tự nhiên và xã hội, và những tiền đề của hoạt động

con người được thể hiện trong q trình ấy.
Nếu văn hóa là sự thống nhất trong thực tiễn hoạt động của con người
với tự nhiên và xã hội, thì phát triển văn hóa phải phát triển cả hoạt động
thực tiễn – tinh thần và thực tiễn – vật chất của con người. Như vậy, phát
triển văn hóa có liên quan đến tiến bộ xã hội, bởi bản chất của tiến bộ xã hội
tức là phát triển con người.
1.2. Mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và văn hóa
1.2.1. Mơi trường tạo tiền đề hình thành văn hóa
Trước hết, con người được sinh ra từ tự nhiên, môi trường tự nhiên là
tiền đề cần thiết cho sự xuất hiện của con người, điều này chính là mối quan
hệ giữa con người với mơi trường tự nhiên. Càng ở thời kỳ sơ khai, môi
trường tự nhiên tác động đến đời sống con người ngày càng mạnh mẽ và sâu
sắc, con người nguyên thủy, ban đầu là sợ hãi thiên nhiên, dần dần sống dựa
vào thiên nhiên, phụ thuộc vào thiên nhiên. Môi trường nào thì con người
phải kiếm ăn theo cách tương ứng: Những cư dân tại các hòn đảo chắc chắn
phải kiếm ăn bằng nghề săn bắt cá, cư dân trên các thảo nguyên phải biết
chăn nuôi, du mục, những người sống bên những cánh rừng trên lục địa lại
kiếm ăn bằng săn bắn, hái lượm… Quá trình lao động sản xuất ra của cải vật
chất này dần dần tạo thành những phương thức sản xuất nhất định, và phương
7


thức sản xuất lại quy định lối sống, văn hoá của xã hội ấy. Có thể nói, hoạt
động sản xuất của cải vật chất là hoạt đống sống căn bản nhất của con người
và chính nó quyết định nhiều nhất đến sự hình thành và phát triển văn hố
của từng xã hội. Có thể nói, tuy gián tiếp nhưng chính mơi trường đã quy
định sự hình thành và phát triển của mỗi một nền văn hố nói chung và một
hình thái biểu tượng nào đó nói riêng.
Năm 1898, một nhà văn người Anh đã nêu lên 2 mơ hình thể hiện mối
quan hệ giữa văn hóa với mơi trường tự nhiên: mơ hình phương Đơng nhấn

mạnh đến sự hài hịa giữa Thiên – Địa – Nhân; trong khi người phương Đơng
theo văn minh trồng trọt, sống định cư, ít di chuyển, theo tín ngưỡng vạn vật
hữu linh, thì người phương Tây theo văn minh du mục, thích di chuyển,
hướng ngoại, có tư tưởng chinh phục tự nhiên, có tư duy khoa học nhưng
mạnh mẽ và cực đoan.
Bên cạnh đó, mơi trường cịn tác động đến tâm trí, tư tưởng và đời
sống tinh thần của con người. Xuất phát từ gốc văn hóa nơng nghiệp, khác
với gốc văn hố du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với
các hiện tượng tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt chú tâm đến
các mối quan hệ mà sản phẩm điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (khơng
hồn tồn giống Trung Quốc) và biểu hiện cụ thể rõ nhất là lối sống quân
bình hướng tới sự hài hồ. Sau đó, chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng của Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hố đã góp phần vào sự phát
triển của xã hội và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt các nhà Thiền học đời Trần đã
suy nghĩ và kiến giải hầu hết các vấn đề triết học mà Phật giáo đặt ra (TâmPhật, Khơng-Có, Sống-Chết...) một cách độc đáo, riêng biệt. Tuy Nho học về
sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng không nghiên cứu KhổngMạnh một cách câu nệ, mù quáng, mà họ tiếp nhận cả tinh thần Phật giáo,
Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thốt, phóng khống, gần gũi nhân
dân và hồ với thiên nhiên hơn. Như vậy, Việt Nam khơng có một hệ thống lý
8


luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế. Nhưng khơng
có nghĩa là khơng có những triết lý sống và những tư tưởng phù hợp với dân
tộc mình.
Xã hội nơng nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều
tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt
Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp, một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh
nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển
chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi. Đó là một lối sống nặng tình
nghĩa, đồn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút

cả làng). Đó là một cách hành động theo xu hướng giải quyết dung hoà, quân
bình, dựa dẫm các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã
từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử.
1.2.2. Văn hóa tác động trở lại đến mơi trường
Một trong những tác động của văn hóa đến xã hội thể hiện qua hiệu
ứng chức năng. Đó là sự phản ánh cách thức văn hóa hoạt động để có thể duy
trì và phát triển xã hội. Những tác động này có thể kể đến việc thúc đẩy sự
tham gia của người dân, góp phần phát triển cộng đồng, hình thành và giữ
gìn bản sắc, xây dựng sự gắn kết xã hội… Suy nghĩ và hành vi của mỗi
người chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố cá nhân và môi trường xã hội và hai hình
thức định hướng là điều chỉnh và chế tài.
Thứ nhất, những hành động được điều chỉnh theo quy định của pháp
luật, theo những quy phạm pháp luật, chịu những chế định cụ thể. Đây là
cách định hướng bề nổi vì chúng có thể được nhận diện rõ ràng. Mọi người
dân sống trong xã hội đều phải tuân thủ những điều được quy định trong Hiến
pháp và pháp luật. Nếu vi phạm những điều đó, con người sẽ phải chịu xử
phạt theo các chế tài. Đây là những quy định theo hình thức mang tính chất
bắt buộc và góp phần định hướng hoạt động của con người trong hoạt động
thực tiễn với mục đích bảo vệ và bảo đảm sự công bằng giữa mọi người.
9


Thứ hai, những ảnh hưởng ngầm không được công nhận theo hướng
chính thức ở bề nổi và khó nhìn thấy được. Đó là các thơng lệ, thói quen và
các “luật bất thành văn” góp phần hình thành nên văn hóa, bởi quan niệm
“trăm cái lý không bằng một tý cái tình” trong văn hóa Việt Nam. Trong cách
tư duy của người Việt, cái tình ln có tác động mạnh và trực tiếp đến hành
vi của con người. Trong một xã hội như vậy, những hành động thể hiện nhân
tính, tình người được đánh giá cao, được tôn vinh. Bởi vậy, để có được sự
ủng hộ của cộng đồng trong quá trình phát trình phát triển xã hội, việc tác

động đến tình cảm của con người là rất quan trọng.
Trên cơ sở hai định hướng đó, văn hóa được hình thành, phát triển và
chi phối đến suy nghĩ, hành vi của con người trong xã hội. Tuy nhiên, văn
hóa vừa thể hiện những tác động, vừa được hoàn thiện theo sự phát triển xã
hội.
Điểm quan trọng nhất của văn hóa tác động đến sự phát triển xã hội là
cách con người giao tiếp với nhau. Xã hội được hình thành trên nhiều mối
quan hệ khác nhau của con người, trong đó quan hệ giữa con người với con
người là mối quan hệ cơ bản nhất. Để duy trì và phát triển nó, con người trao
đổi thơng tin, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau thông qua phương tiện giao tiếp
bằng ngôn ngữ, thể hiện qua lời nói, chữ viết, hay giao tiếp phi ngôn ngữ, thể
hiện qua nét mặt, cử chỉ, trang phục… Qua đó, con người tạo mối liên hệ, sự
tương tác và khẳng định sự tồn tại, sự sống của mình trong xã hội.

10


CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA MƠI TRƯỜNG TỰ NHIÊN ĐẾN
HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VĂN HĨA VIỆT NAM
Văn hóa vùng có thể được hiểu là tập hợp những đặc điểm của một
cộng đồng dân cư về lao động sản xuất, tổ chức xã hội, sinh hoạt cộng đồng
mà những đặc điểm đó được hình thành do sự tác động ảnh hưởng của điều
kiện địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng trong một khu vực (vùng) nhất định. Trong
một vùng văn hóa có thể cùng tồn tại những tộc người khác nhau và mỗi một
tộc người sẽ có những cách ứng xử khác nhau tạo nên những sắc thái đa
dạng. Như vậy, trong văn hóa vùng vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác
biệt. Dựa vào điều kiện tự nhiên như núi rừng, sơng ngịi, biển cả, khí hậu,
thổ nhưỡng…ở nước ta có thể chia thành các vùng văn hóa sau:
2.1. Vùng văn hóa Tây Bắc – Việt Bắc
• Đặc điểm địa lý: Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền

bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Đây là một
trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Mường Lay, Lai
Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Báí. Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có
nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây BắcĐông Nam, trong đó
có dãy Hồng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên,
các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m, Yam Phình 3096m, Pu Lng
2.983m. Dãy Hồng Liên Sơn, được người Thái gọi là "sừng trời" (Khau
phạ), chính là bức tường thành phía đơng và vùng Tây Bắc. Vùng Tây Bắc có
hai con sơng lớn, đó là sông Đà (tên Thái là Nặm Tè) và sông Thao (tức sông
Hồng), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây Bắc, phía
Tây tỉnh Sơn La. Các con sông này không chỉ là cơ sở cho sự định cư của của
các dân tộc nơi đây cũng như nền nơng nghiệp trong vùng mà cịn là nguồn
cảm hứng cho những câu hát và truyền thuyết của các tộc người Thái,
Mường...

11


• Dân cư: Tây Bắc là nơi sinh tụ lâu đời, ngàn năm của cư dân văn
minh đồng thau với hơn 20 tộc người cư trú xen kẽ, bao gồm các dân tộc:
Thái, Dao, H’Mơng, Bố Y, Giáy, Há Nhì, Kháng, Máng, Khơ-mu, Sila, Tày,
Xinh-mun, La-ha…


Đời sống văn hóa: Tuy nơng nghiệp khơng phải là một khía cạnh

văn hóa phổ biến trong mỗi tiểu vùng nhưng riêng với vùng văn hóa Tây Bắc,
đây có thể coi là một yếu tố làm nên nét văn hóa độc đáo của vùng. Văn hóa
nơng nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói gọn
trong 4 từ văn vần: "Mường - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng

chảy dốc của, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó là cái "phai".
Phía trên "phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó là "mương"
Từ "mương" xẻ những rãnh chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là cách lấy
nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng
đục mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây số.
Người Kinh vùng núi Phú Thọ (cũ) học theo cách làm này và gọi chệch
đi là "lần nước". Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong
mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cá nuôi trong
ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên, món dâng cúng
trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xơi và cá nướng.
Ngồi ra, bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải
vì rừng có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con người nương tựa để tồn tại. Luật
Thái có hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt
là những quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn. Mỗi bản làng có một già làng
(trưởng bản) đứng đầu, phải là một người đàn ơng có kinh nghiệm lao động
sản xuất, am hiểu phong tục tập quán của dân tộc mình, có uy tín và có khả
năng giao tiếp với người láng giềng. Tín ngưỡng vạn vật hữu linh đậm nét,
vai trò của thầy mo được coi trọng, hàng năm có lễ hội xuân, lễ hội mùa.
2.2. Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
12


• Đặc điểm địa lý: Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm
của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính : Tây-Đơng và Bắc-Nam.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc
thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Mặt
khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác.
Đồng bằng Bắc Bộ có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét,
lại rất thất thường, gió mùa đơng bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa
hè nóng và ẩm. Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có

một mạng lưới sơng ngịi khá dày, khoảng 0,5– l,0km/km2, gồm các dịng
sơng lớn như sơng Hồng, sơng Thái Bình, sơng Mã, cùng các mương máng
tưới tiêu dày đặc.
• Dân cư: dân cư đơng đúc, chủ yếu là người Kinh. Đây cũng chính là
vùng đất lịch sử 2000 năm của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều
Đại Việt, đống thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đơng Sơn, Thăng
Long – Hà Nội…
• Đời sống văn hóa: Đây là cái nơi hình thành văn hóa, văn minh Việt
từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị
truyền thống hơn cả. Mạng lưới sơng ngịi, hệ thống tưới tiêu dày đặc tạo ra
sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử cũng như
sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa
nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo của
mình. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được
người nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được
đưa lên hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh
điền. Bên cạnh đó, đất đai ở Bắc Bộ khơng phải là nhiều, dân cư lại đơng. Vì
thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã
làm thêm nghề thủ công. Ở đồng bằng sông Hồng, trước đây, người ta đã
từng đếm được hàng trăm nghề thủ cơng, có một số làng phát triển thành
13


chuyên nghiệp với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát
triển, có lịch sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc
đồng…Mặt khác những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng.
Làng là đơn vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội
Việt. Nó là kết quả của các cơng xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông
thôn.
Ăn uống của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ vẫn như mô hình bữa

ăn của người Việt trên các vùng đất khác : cơm + rau + cá. Cách mặc của
người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu
thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo
cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm.
Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa
phương. Đền, đình, chùa, miếu…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng
quê. Nhiều di tích nổi tiếng khơng chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như
đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa
Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng… Cùng với các di sản văn hóa
hữu thể, các di sản văn hóa vơ thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng
và phong phú.
Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ cũng vô cùng phong phú. Từ thần
thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười đến truyện
trạng,mỗi thể loại đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng
hạn truyện trạng ở Bắc Bộ như truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn... sử dụng các
hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng
khác. Ca dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại
thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng
đậm nét. Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo,
múa rối… Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân
Việt Bắc Bộ. Mọi tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành
14


hồng, thờ Mẫu, thờ các ơng tổ nghề v.v…, có mặt trên hầu khắp các làng quê
Bắc Bộ.
2.3. Vùng văn hóa Nam Trung Bộ
• Đặc điểm địa lý: địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đơng
Tây, địa hình miền Trung Bộ chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các đèo là
những dãy núi đồi tách từ Trường Sơn đâm ngang ra biển. Dưới chân đèo là

các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Đông Tây ra biển, sơng ngắn,
nước biếc xanh, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu tạo thành các
vịnh, cảng. Sát bờ biển, từ Quảng Bình trở vơ Nam, Ngãi, Bình, Phú có các
dải cồn cát chạy dọc dài bắc Nam ghi dấu những đường biển cũ. Ở giữa các
dải cồn cát là một vùng trũng nối phân bố xóm làng và ruộng lúa ngày nay.
Chân cồn là những bàu nước ngọt. Khí hậu, miền Trung lại có mùa mưa lệch
pha với hai đầu Bắc Nam đất nước, ở miền Trung, lại gặp gió Tây rất khơ
nóng, thổi từ Lào qua tạo sự khắc nghiệt.
• Dân cư: vùng Trung Bộ một thời kì dài thuộc các tiểu quốc của
vương quốc Chăm-pa. Trước khi người Việt vào nơi này, nền văn hóa Chămpa một thời rạng rỡ
• Đời sống văn hóa: Sự cộng cư với người Chăm, thái độ ứng xử với
những vốn văn hóa hiện diện trên mặt đất tàng ẩn dưới lòng đất theo bản
chất hiền hòa của người Việt, tạo cho sự giao lưu văn hóa ở đây có những
điểm khác biệt. Trước hết, người Việt tiếp nhận những di sản văn hóa của
người Chăm, Việt hóa biến thành di tích văn hóa của mình. Tháp Chăm, đền
Chăm khi người Chăm ra đi thì người Việt thờ cúng, sử dụng. Tiêu biểu cho
q trình tiếp biến văn hóa ở Trung Bộ của người Việt là tiếp thu tín ngưỡng
thờ bà mẹ xứ sở (Po yan Ina Nagar) của người Chăm. Với tín ngưỡng thờ
Mẫu ẩn trong tâm thức, khi vào Trung Bộ. người Việt gặp tín ngưỡng này của
người Chăm, họ đã tiếp thu các nữ thần Chăm và chuyển hóa thành các nữ
thần Việt Nữ thần Mưjưk của người Chăm được biến thành bà Chúa Ngọc.
15


Yếu tố biển, sông, đầm, đồng bằng, núi non đều ánh xạ vào trong các
thành tố văn hóa, từ diện mạo đến các phương diện khác. Có thể thấy ngay
điều này từ diện mạo các loại hình văn hóa, với Trung Bộ, làng làm nông
nghiệp tồn tại đan xen với làng của ngư dân. Bên cạnh lễ cúng đình của làng
nông nghiệp là lễ cúng cá ông của làng làm nghề đánh cá.
2.4. Vùng văn hóa Nam Bộ

• Đặc điểm địa lý: địa hình gị đồi nương rẫy là chủ yếu kết hợp với
vùng bình ngun sơng nước; ngồi ra, Tây Nam Bộ là vùng sông nước mênh
mông, mạng lưới sơng ngịi dày đặc. Nam Bộ có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và
mùa khô. Đây là địa bàn thuộc lãnh thổ của các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ và các
tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần
Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau thuộc miền
Tây Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.
• Dân cư: đồng bằng Nam Bộ về mặt cư dân có các tộc người Việt,
Khơme, Chăm, Hoa, Ma, Xtiêng, Chơro, Mnơng
• Đời sống văn hóa: Nam Bộ trong sự phát triển lịch sử, lại trải qua sự
đứt gãy. Sau sự biến mất của nền văn hóa Ĩc Eo vào cuối thế kỉ VI, vùng
Nam Bộ rơi vào tình trạng hoang vu hiểm trở, mãi về sau mới được khai phá
và phát triển trở lại. Vì thế, văn hóa của ở đây là văn hóa ở vùng đất mới.
Vẫn là tục thờ Thành hoàng quen thuộc với cư dân trồng lúa nước, nhưng ở
Nam Bộ, tục thờ này có những đặc điểm khác biệt cả về nghi lễ thờ cúng lẫn
lễ hội, lẫn kiến trúc của nơi thờ cúng. cùng chung sống với người Khơme;
người Việt đã tiếp thu chiếc bếp cả dùng cho việc nấu ăn trên đất ẩm, dùng
nồi gốm rằng để kho cá, nấu cơm, dùng cá om để đựng nước uống, nước
mắm. Hoặc, nhiều món ăn của người Việt hiện tại, thực ra là người Việt tiếp
thu của người Khơme món canh chua, món bún Bạc Liêu... Rõ nhất của quá
trình tiếp biến nãy là hiện tượng sử dụng song ngữ, đa ngữ trong vùng. Vốn
16


từ của các tộc người được vay mượn, như người Việt vay mượn vốn từ của
người Hoa, Khơme và ngược lại. Thậm chí, những câu nói, câu hát bình dân
có sự pha tạp giữa các ngôn ngữ khác nhau.
2.5. Vùng văn hóa Tây Ngun
• Đặc điểm địa lý: Đây là vùng núi, cao nguyên ở vùng Tây Nam Tổ

quốc, gồm có các cao nguyên ĐắkLak, Lâm Viên, Di Linh có độ cao trên
600m so với mực nước biển.
• Dân cư: là vùng cư trú của đồng bào Bana, Ede, Gia Rai…
• Đời sống văn hóa: dân Tây Ngun thích du canh, du cư làm nương
rẫy và còn đậm nét hoang sơ. Khí hậu thổ nhưỡng thích hợp trồng cây cơng
nghiệp như cà phê, hồ tiêu, ca cao. Dân Tây Nguyên sống thành bn làng,
cịn đậm nét Mẫu hệ. Trung tâm văn hóa bn làng là nhà Rơng (nhà dài).
Nơi đây có phong tục tổ chức lễ hội đâm trâu, lễ bỏ mả, thích dùng cồng
chiêng trong các ngày lễ lớn, nhạc cụ bao gồm bộ gõ, bộ hơi, được chế tạo từ
tre, trúc, gỗ trong rừng. Người Ede dùng chiêng chế tác từ tre già, người Gia
Rai dùng cồng chiêng bằng đồng. Âm thanh cồng chiêng trầm hùng, là sự kết
nối, giao hịa giữa con người với thần linh. Bn làng Tây Nguyên được tổ
chức theo nguyên tắc tự quản, tự trị, già làng có vị trí cao trong bn và được
mọi thành viên kính trọng. Người Tây Ngun có truyền thống săn voi và
thuần dưỡng voi, sử dụng voi vào việc kéo gỗ, vận chuyển đồ đạc, đi lại và
chiến trận.
2.6. Vùng văn hóa biển đảo
Người Việt Nam đã gắn bó với biển từ lâu đời, qua cách ứng xử riêng
với môi trường biển đảo, tạo thành lối sống, nếp sống và sáng tạo ra các giá
trị văn hóa. Biển đảo là ngư trường cung cấp cá tôm cho ngành chế biến xuất
khẩu, cũng là nơi có mỏ dầu khí ở vùng thềm lục địa ngồi khơi và biển đảo
có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phịng, an ninh. Ngày nay, trên hầu hết
17


các hịn đảo lớn nhỏ đều có dân cư trú, họ lập thành làng xóm để trồng trọt
trên đảo và đánh bắt cá tôm. Cư dân trên đảo chủ yếu gắn với nghề đi biển, ra
khơi. Người dân có tình đồn kết, tương thân tương ái. Các di tích trong
khơng gian văn hóa biển đảo rất phong phú, đa dạng với đủ các loại hình,
nhất là những di tích gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước

trên biển đảo như: di tích Chiến thắng Bạch Đằng (Quảng Ninh, Hải Phịng),
đình Quan Lạn và đền Trần Khánh Dư (Vân Đồn, Quảng Ninh)... Đến thời
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, chúng đã chọn những hịn
đảo xa đất liền như Cơn Đảo, Phú Quốc để xây dựng nhà lao giam cầm các
chiến sĩ cách mạng và ngày nay những nơi đó đã trở thành khu di tích lịch
sử. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã hình thành con
đường Hồ Chí Minh trên biển tiếp tế vũ khí, quân trang quân dụng từ miền
bắc vào cho đồng bào, chiến sĩ miền nam... Bên cạnh giá trị văn hóa vật thể,
biển đảo cịn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa phi vật thể. Lễ hội truyền thống
của các cư dân vùng biển đảo cổ súy tinh thần cố kết cộng đồng để hỗ trợ,
hợp tác cùng nhau bám biển bảo vệ ngư trường cũng như chủ quyền thiêng
liêng của Tổ quốc. Đó là các lễ hội gắn với nghề biển với các loại hình di sản
văn hóa phi vật thể tiêu biểu như: Lễ nghinh Ông gắn với tục thờ cá Ông (cá
voi), lễ hội Cầu Ngư, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, lễ hội đền Độc Cước đều cầu
mong mưa thuận gió hịa. Lễ khao lề thế lính Hồng Sa ở huyện đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi) để tri ân những người lính hải đội Hồng Sa từ hàng trăm năm
trước đã vượt sóng gió ghi dấu mốc chủ quyền trên biển.

18


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2020-2030
3.1.

Tình hình phát triển văn hóa Viêt Nam những năm gần đây

3.1.1. Thành tựu đạt được
Tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược Phát triển văn hóa
đến năm 2020, theo báo cáo của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, kết quả

thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược phát triển văn hóa
đến năm 2020 đã thu được nhiều kết quả, tác động tích cực đến nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, góp phần thực hiện dân chủ ở cơ sở, ổn định chính
trị, giữ vững an ninh trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống các tệ nạn
xã hội, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có
chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được mở
rộng và đi vào chiều sâu mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều phong trào, cuộc
vận động về văn hóa đạt kết quả tích cực, góp phần tạo mơi trường văn hóa,
bảo vệ và phát huy những giá trị nhân văn truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra sơi động, đáp
ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ đa dạng của cơng chúng. Sản phẩm văn
hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng, tăng đáng kể về số
lượng, chất lượng; đã và đang hình thành thị trường sản phẩm văn hóa, văn
học, nghệ thuật, khoa học, cơng nghệ. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày
càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn
hóa.
Hoạt động văn học nghệ thuật, thơng tin báo chí được mở rộng, có
nhiều thành tựu đóng góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới. Đội ngũ làm cơng
tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn
nghệ sĩ được tôn trọng.
19


Đời sống văn hóa của nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, ở vùng gặp
khó khăn như miền núi, hải đảo, biên giới dần được cải thiện. Chương trình
mục tiêu phát triển văn hóa đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc, đặc biệt
là các vùng khó khăn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Công tác điều tra,
sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật; phục

dựng bảo tồn các lễ hội truyền thống đặc sắc có nguy cơ mai một, tạo mơi
trường văn hóa lành mạnh, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, tạo điều kiện để phát
triển mơ hình văn hóa - du lịch góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào
các dân tộc.
Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng và có nhiều khởi
sắc, từng bước đi vào chiều sâu, chú trọng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, bước đầu cố gắng giữ vai trị chủ động trong việc tiếp nhận có chọn lọc,
làm giàu văn hóa dân tộc, việc quảng bá hình ảnh dân tộc và văn hóa Việt
Nam ra nước ngồi được chú ý.
3.1.2. Những hạn chế còn tồn tại
Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn cịn một số hạn chế, bất cập như:
• Chưa phát huy hết vai trị, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự
phát triển của đất nước, ở một số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng
với kinh tế, xã hộị. Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa dành đủ thời
gian chỉ đạo, nguồn lực cho văn hóa mà vẫn chạy theo sức ép tăng trưởng
kinh tế.
• Cơng tác tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa
ở một số lĩnh vực, địa phương cịn hạn chế, cơ chế chính sách cịn bất cập,
đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa
sử dụng có hiệu quả

20


• Việc thu hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng
miền, đặc biệt những nơi khó khăn cịn chậm.
• Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật
chưa tương xứng với u cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn cịn khơng ít
tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp…

• Vẫn cịn khơng ít thách thức trong bảo tồn, phát huy giá trị các di sản.
Thực tế cho thấy ở nhiều nơi, di sản thiên nhiên, văn hóa đang đứng trước
nguy cơ "biến dạng" do những doanh nghiệp đầu tư chưa có đủ tiềm lực, kinh
nghiệm, hiểu biết.
• Độ mở và sự phát triển ngày càng nhanh của khoa học công nghệ,
không gian mạng đang ảnh hưởng ngày càng lớn đến tư duy, suy nghĩ của thế
hệ trẻ, đặt ra những yêu cầu rất mới trong phát triển con người.
3.2. Đề xuất phương hướng tiếp tục đẩy mạnh phát triển văn hóa
Việt Nam giai đoạn 2020 – 2030
Dựa trên những định hướng, nhiệm vụ, giải pháp trên lĩnh vực văn hóa,
xã hội được đề cập trong Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Tập
trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành cơng
nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh
mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu của
văn hóa, khoa học, kỹ thuật công nghệ của thế giới”, xin được đề xuất một số
giải pháp sau nhằm tiếp tục đẩy mạnh cơng tác phát triển văn hóa Việt Nam
trong thời gian sắp tới.
Một là, hướng mọi hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng
lực sáng tạo, tuân thủ pháp luật, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan
21


dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng
đồng và xã hội, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự
hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hóa

và xây dựng mơi trường văn hóa với vấn đề hình thành nhân cách.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá
trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc
độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao
tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung xây dựng
những giá trị văn hóa mới, đi đơi với việc mở rộng và chủ động trong giao
lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú
thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi
người, phát huy cao độ tính sáng tạo của trí thức văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng
văn hóa, nghệ thuật; tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản
phẩm văn hóa, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại;
nghiên cứu tồn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, tạo mọi điều kiện để nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt
động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; phấn đấu từng bước thu hẹp sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng
xa, biên giới, hải đảo.
Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã
hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn
22


hóa, coi văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn
giữa nhiệm vụ phát triển văn hóa, làm cho văn hóa tham gia tích cực vào việc
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của
đất nước.


23


KẾT LUẬN
Là một người dân Việt Nam, chúng ta hoàn tồn có quyền tự hào về
một nền văn hố đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển
của dân tộc. Có thể nói, xuyên suốt tồn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp
văn hoá chồng lên nhau: lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung
Quốc và khu vực, lớp văn hố giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm
chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hoá bản địa vững chắc nên đã khơng bị
ảnh hưởng văn hố ngoại lai đồng hố, trái lại cịn biết sử dụng và Việt hố
các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hoá dân tộc.
Ngày nay, 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân
tộc một sắc thái riêng, tạo nên nền văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất
trong đa dạng. Ngồi văn hố Việt - Mường mang tính tiêu biểu, cịn có các
nhóm văn hố đặc sắc khác như Tày - Nùng, Thái, Chàm, Hoa - Ngái, Môn Khơme, H’Mông - Dao, nhất là văn hoá các dân tộc Tây Nguyên giữ được
những truyền thống khá phong phú và toàn diện của một xã hội thuần nơng
nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên.
Nhưng có một thực tế rằng, văn hoá dân tộc cổ truyền hiện đứng trước
sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hoá, đứng trước những thách thức gay
gắt của kinh tế thị trường và xu thế tồn cầu hố. Nhiều ngành văn hố nghệ
thuật đang có phần chững lại, tìm đường và tự cách tân. Hơn bao giờ hết đặt
ra vấn đề bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, vấn đề lựa chọn các giá trị cũ,
xây dựng các giá trị mới. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hố mở.
Hiện đại nhưng khơng xa rời dân tộc. Cơng cuộc đổi mới văn hố đang tiếp
tục, và cần sự chung tay xây dựng của Đảng và Nhà nước, của các cấp chính
quyền cùng sự ủng hộ, tin tưởng của quần chúng nhân dân, để bản sắc văn
hóa Việt Nam ngày một vươn cao, vươn xa trên trường quốc tế.


24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS.Nguyễn Thị Hồng, 2016, Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam,
2. Phạm Duy Đức (chủ biên), 2009, Phát triển văn hóa Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020: Những vấn đề phương pháp luận, Nxb Chính trị quốc gia
3. Phạm Ngọc Trung (chủ biên), 2013, Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt
Nam, Nxb Hà Nội
4. Ngơ Đức Thịnh, 2009, Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
5. Ngô Đức Thịnh, 2003, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt
Nam, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
6. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, 2014, Con người, môi trường và
văn hóa, Nxb Khoa học xã hội
7. Một số điểm mới nổi bật trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng,
kiemsat.vn

25


×