Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TL làm rõ quan điểm hồ chí minh về khoan dung tôn giáo sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.21 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nói về Hồ Chí Minh, Người được biết đến là một trong số ít nhân vật
trong lịch sử đã trở thành một huyền thoại ngay từ khi còn sống. Người là
hiện thân đầy đủ nhất, cao đẹp nhất của tấm gương đạo đức cách mạng theo ý
nghĩa và nội dung sâu rộng. Cuộc đời của Hồ Chí Minh; phong cách sống, lao
động, học tập, tâm hồn, trí tuệ và nghị lực của Người tiêu biểu cho tinh hoa,
khí phách dân tộc Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những
cống hiến to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Trong những cống hiến to lớn
đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giá, tín ngưỡng có vai trò đặc biệt trong sự
nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước… Người đã có những chỉ dẫn hết
sức quý báu các vấn đề liên quan để giải quyết vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng.
Những chỉ dẫn đó khơng chỉ có giá trị trực tiếp chỉ đạo cơng tác giải quyết các
vấn đề tôn giáo trong một giai đoạn nhất định mà cho đến ngày nay Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn ln lấy đó làm kim chỉ nam cho thực tiễn đất nước.
Trong đó, đặc biệt có tư tưởng khoan dung tôn giáo là một phần trong hệ
thông tư tưởng Hồ Chí Minh có một ý nghĩa hết sức to lớn và đặc biệt.
Để hình thành hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong đó
có tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung tơn giáo nói riêng là kết quả của sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại, đặc biệt là kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Đề tài này
tập trung nghiên cứu và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung tôn giáo
và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1


2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở từ những quan điểm của


Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng, trên cơ sở đó làm rõ quan điểm Hồ Chí
Minh về khoan dung tơn giáo, sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích đã đã ra, đề tài phải giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Trình bày được một vài khái niệm cơ bản về tôn giáo, tư tưởng Hồ
Chí Minh về khoan dung tơn giáo, phân tích làm rõ quan điểm khoan dung
tơn giáo Hồ Chí Minh.
- Trình bày được bối cảnh xã hội thế giới và trong nước từ chỉ ra được
sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên việc sự dụng kết hợp các phương pháp
như nghiên cứu tài liệu; phân tích và tổng hợp lí thuyết; phương pháp quan sát
khoa học; phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm,…
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm khoan dung tơn giáo Hồ
Chí Minh, sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi:
- Phạm vi nghiên cứu thời gian: Giai đoạn năm 1890 đến năm 1969 và
trong giai đoạn hiện nay.
2


3



CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM KHOAN DUNG TƠN GIÁO CỦA HỒ CHÍ MINH

1.1 Một số khái niệm: “Tôn giáo, khoan dung, khoan dung tôn
giáo”
1.1.1. Khái niệm tôn giáo.
Tôn giáo bao gồm hệ thống hồn chỉnh các quan niệm, ý thức tín
ngưỡng, thể hiện tập trung ở lịng tin, tình cảm tơn giáo. Tơn Giáo là hình
thức tín ngưỡng có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và giáo hội, được tổ chức chặt
chẽ.
Hoặc khái niệm về tôn giáo chi tiết hơn như sau:
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo
hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát
của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Tơn giáo là sản phẩm của con
người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do
đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực,
bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Ở một mức độ nhất định tôn
giáo có vai trị tích cực trong văn hố, đạo đức xã hội như: đoàn kết, hướng
thiện, quan tâm đến con người…
1.1.2. Khái niệm về khoan dung và khoan dung tôn giáo.
Các tôn giáo đã đi trước về khái niệm khoan dung (tolerance), và khoan
dung thường chỉ tình yêu thương, bao dung, độ lượng giữa con người với con
người. Tuy nhiên có nhiều mức hiểu về khoan dung. Khái niệm này được
triển khai thành các nội dung thần học và triết học Phương Tây trong khoảng
các thế kỉ XVI, XVII.

4


Ở Việt Nam, thuật ngữ khoan dung được hiểu như một phạm trù đạo

đức, một chuẩn mực nhân văn cao quý. Nhưng giữa Nho giáo và Phật giáo
cũng có sự khác biệt về khoan dung. Nho giáo coi khoan dung là một phẩm
tính của người quân tử, nhưng nội hàm của nó thiên về thái độ ứng xử của bề
trên đối với bề dưới, của người có quyền với người khơng có quyền…
Về bản chất, khoan dung chính là thái độ tơn trọng, cách nhìn rộng
lượng đối với những khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc (về dân tộc, tín
ngưỡng, tơn giáo, các quan điểm chính trị, triết học đạt đến chiều sâu,...). Nói
cách khác, khoan dung tơn giáo là thái độ hài hòa trong khác biệt để cùng
nhau tồn tại và phát triển trong hịa bình.
1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo là một nội dung bộ phận
không thể tách rời của nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, theo đó tư
tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo được hình thành từ những cơ sở chủ yếu sau:
Thứ nhất quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tín ngưỡng tơn giáo.
Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc bản
chất của tín ngưỡng tơn giáo là cơ sở hình thành thế giới quan và phương
pháp luận khoa học trong tư duy của Hồ Chí Minh về tôn giáo. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng bản chất của tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức
xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã
hội tơn giáo phản ánh “hoang đường đóng ngoặc kép hiện thực khách quan.
Mặt khác các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cịn khẳng định tơn giáo
có nguồn gốc từ kinh tế - xã hội, còn người bất lực trước sự bần cùng về kinh
tế, nạn áp bức về chính trị và sự bất cơng xã hội; từ sự kém hiểu biết và hạn
chế về nhận thức và do tâm lý, tình cảm và sự sợ hãi trước những hiện tượng
tự nhiên phẩm chính “sự sợ hãi đã sinh ra Thần Linh”. Đồng thời Chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng chỉ rõ tôn giáo là một phạm trù lịch sử mang tính quần
5


chúng rộng rãi dễ bị giai cấp bóc lột lợi dụng nên nó phản ánh tính chính trị

sâu sắc. Theo đó, tơn giáo cịn tồn tại lâu dài dưới chủ nghĩa xã hội và sẽ mất
đi khi khơng cịn cơ sở tồn tại.
Đây là những luận điểm quan trọng và cần thiết, đồng thời nó quyết
định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Bởi chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã trang bị cho người thế giới quan và
phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và xem xét để đi đến nhận
thức và giải quyết vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo phù hợp với điều kiện lịch sử
Việt Nam và xu hướng chung đúng đắn nhất.
Thứ hai phẩm kế thừa những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc và nhân loại, trực tiếp là những tư tưởng tích cực tiến bộ của các tơn
giáo trên thế giới.
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách sâu sắc những giá trị tư
tưởng tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống kiên cường bất khuất trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm; cần cù sáng tạo trong lao động; coi trọng đạo lý
u chuộng hịa bình và đồn kết gắn bó trong cộng đồng làng nước của dân
tộc Việt Nam trong đó chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là cơ sở quan trọng hàng
đầu hình thành nên tư tưởng của người nói chung về tơn giáo nói trên. Với
quan niệm ấy người đã tìm thấy những giá trị văn hóa đạo đức trong tín
ngưỡng tơn giáo điểm “tương đồng” giữa tín ngưỡng tơn giáo và chủ nghĩa xã
hội .
Mặt khác, sinh ra và lớn lên ở một đất nước chịu ảnh hưởng nhất định
những giá trị văn hóa, đạo đức của các tơn giáo nên người càng có điều kiện
em hiểu một cách sâu sắc và đời sống thiếu thốn của người dân lao động. Đây
là một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng và
tơn giáo.

6


Từ rất sớm người đã biết đến văn hóa Trung Hoa Ấn Độ và chịu ảnh

hưởng của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo từ các nền văn hóa đó cũng như
chịu sự tác động từ đời sống sinh hoạt hàng ngày của gia đình và xã hội. Sau
này, trong q trình lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh vẫn thường sử dụng
các khái niệm của nho giáo vốn đã quen với đời sống sinh hoạt trong nhân
dân nhưng được người diễn đạt theo cách mới, nội dung mới để tuyên truyền
vận động nhân dân.
Sau khi ra nước ngoài hoạt động, người càng có điều kiện tiếp thu các
giá trị văn hóa với văn minh của các nước phương Tây nhất là về khoa học tự
nhiên và các giá trị văn hóa đạo đức trong các tơn giáo phương Tây Đặc biệt
là Thiên Chúa giáo để làm phong phú thêm tri thức của mình về tơn giáo.
Thứ ba từ thực tiễn đặc điểm tình hình và tín ngưỡng tơn giáo ở Việt
Nam đặt ra yêu cầu phải giải quyết.
Do đặc điểm tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử trong quá trình hình thành
và phát triển của dân tộc đã tác động ảnh hưởng lớn đến tình hình tín ngưỡng
tơn giáo ở Việt Nam. Có thể khái quát những đặc điểm đó là: Việt Nam là một
quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng tơn giáo khác nhau bao gồm cả tôn
giáo ngoại (Thiên Chúa Giáo và Tin Lành Phật giáo…) và tín ngưỡng tơn
giáo nội sinh (Cao Đài, Hịa Hảo và các hình thức tín ngưỡng như thờ cúng
ơng bà tổ tiên, thần, thánh…); các tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam có tính
đang xen hịa đồng khoan dung; các tơn giáo du nhập ln bị “khúc xạ” bởi
văn hóa Việt Nam; tính trội của yếu “nữ” trong hệ thống tín ngưỡng tơn giáo
ở Việt Nam; các tín đồ tơn giáo ở Việt Nam hầu hết là nhân dân lao động…
Những đặc điểm trên là cơ sở thực tiễn để hình thành những quan điểm của
người về vấn đề tơn giáo nhằm thực hiện đoàn kết lương - giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.

7


Trước khi trở thành người cộng sản phẩm Hồ Chí Minh đã hấp thụ

được những yếu tố tích cực từ văn hóa truyền truyền thống tâm lý dân tộc và
những tư tưởng tích cực, tiến bộ được phản ánh trong kinh sách và các tôn
giáo trên thế giới những tư tưởng này đã có ảnh hưởng lớn và tạo nên nét đặc
sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo: coi tín ngưỡng tơn giáo là văn
hóa phẩm nhận biết được giá trị văn hóa và đạo đức của tơn giáo và sự khoan
dung độ lượng tinh thần đồn kết khơng phân biệt tín ngưỡng tơn giáo… làm
cơ sở để tập hợp rộng rãi quần chúng theo Đảng và làm cách mạng .
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là kết quả sự vận dụng và
phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về tín ngưỡng tơn giáo
vào điều kiện cụ thể nước ta; đồng thời là kết quả kế thừa và phát triển các giá
trị văn hóa trong tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn
hóa nhân loại; cũng như trước đòi hỏi thực tiễn đấu tranh cách mạng của dân
nhân dân Việt Nam nhằm thực hiện giải phóng dân tộc phải giải phóng giai
cấp giải phóng xã hội và giải phóng con người.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khoan dung tơn giáo
1.3.1. Từ truyền thống dân tộc đến hình thành tư tưởng khoan dung
tơn giáo mang đậm tính nhân văn của Hồ Chí Minh.
Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “Cho phép tôi hiểu rằng tầm cỡ của
một hiền triết chưa chắc chắn ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư
tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay là ảo ảnh, khả tri hay bất khả tri,
ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở
mức quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên quả đất này
và chắc chắn cịn sống lâu dài đến vơ tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của
mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó...”.
Những câu nói của Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định được giá trị trong tư
tưởng và hoạt động đầy tính nhân văn hướng về con người của Hồ Chí Minh.

8



Trong đó quan điểm khoan dung tơn giáo cũng thuộc hệ thống tư tưởng nhân
văn đó.
Dân tộc ta là một dân tộc giàu lịng bác ái". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói như vậy, và chính Người là biểu tượng, là tinh hoa của khoan dung, nhân
ái Việt Nam.
Việt Nam là một dân tộc u hịa bình, có truyền thống khoan dung,
nhân nghĩa, hòa hiếu. Từ buổi đầu lập quốc, dân tộc Việt Nam đã phải liên
tục đứng lên chống lại sự xâm lược tàn bạo của những kẻ thù lớn mạnh hơn
mình gấp bội. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam khơng chỉ ở tinh thần u
nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng mà còn ở tinh thần tha thiết với hịa bình,
ở tinh thần khoan dung, nhân ái với đồng loại. Nằm ở cửa ngõ của sự giao lưu
văn hóa từ Đơng sang Tây, từ Bắc xuống Nam, dân tộc Việt Nam từ khi lập
quốc đã mở rộng cửa đón nhận ảnh hưởng của các nền văn hóa trong khu vực:
văn hóa Đơng Nam Á, Ấn Độ, Trung Hoa, sau này là văn hóa phương Tây.
Nhờ đó, con người Việt Nam đạt tới sự hài hòa giữa con người với thiên
nhiên, cá nhân với cộng đồng, gia đình với Tổ quốc, đạo với đời,... Đó cũng là
cơ sở để hình thành nên tinh thần khoan dung Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lịng đồng tình và bác ái” và chính
Người là tiêu biểu, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái đó.
Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lịng u thương mênh mơng,
sâu sắc đối với con người, ở niềm tin vào phần tốt đẹp, phần thiện trong mỗi
con người, dù nhất thời họ có lầm lạc, cịn nhỏ nhen, thấp kém; từ đó Người
nhắc nhở chúng ta "phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". "Đối với những đồng bào lạc
lối, lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ". Chính sách đại
đồn kết và tấm lòng khoan dung, độ lượng của Bác Hồ đã làm thất bại mọi
âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đã cảm hố được nhiều nhân sĩ, trí thức có tên
tuổi, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, một lòng một dạ đi theo cách

9



mạng



kháng

chiến,

khơng

quản

ngại

gian

khổ,

hy

sinh.

Với các tơn giáo, Hồ Chí Minh thành thật tơn trọng đức tin của người có đạo,
khẳng định lẽ sống cao đẹp, những giá trị đạo đức - nhân văn của các vị sáng
lập, không hề bài bác, phủ định mà khéo hướng lý tưởng của các tôn giáo vào
mục tiêu giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Tất cả sự
khoan dung này của Hồ Chí Minh đều xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa,
nhân ái, khoan dung của dân tộc ta.

1.3.2. Những nội dung cơ bản của triết lí nhân sinh trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về khoan dung tơn giáo.
Trên tinh thần tiếp thu, kế thừa truyền thống khoan dung của dân tộc
Việt Nam, với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xây dựng, thực thi
và nâng cao văn hóa khoan dung lên một trình độ mới - khoan dung cộng sản
chủ nghĩa; nhấn mạnh, đề cao các giá trị tích cực của tơn giáo trong đời sống
xã hội. Vì thế, khoan dung tơn giáo đã trở thành giá trị chuẩn mực nhân văn,
đạo đức của người cộng sản trong quan hệ ứng xử với đồng bào và chức sắc
tôn giáo. Trong tư tưởng về khoan dung tôn giáo của Người cũng chứa đựng
triết lý nhân sinh sâu sắc, với quan niệm, tôn giáo là vấn đề con người và vì
con người. Và cũng chính triết lý nhân sinh ấy đã tạo nên giá trị nhân văn sâu
sắc trong tư tưởng của Người về khoan dung tôn giáo.
Thứ nhất, triết lý nhân sinh thể hiện ở sự tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của con người. Theo Hồ Chí Minh, tơn trọng tự do tín
ngưỡng tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận
nhân dân, tôn trọng sự tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân. Hồ Chí Minh khơng gị ép hay bắt buộc mọi người phải theo một hệ
tư tưởng nào đó, ai cũng có quyền tự do nghiên cứu một chủ nghĩa nào mà
mình tin tưởng. Ngày 12-7-1946, trả lời phỏng vấn các nhà báo ở Roaya

10


Mông Xô, Người nêu rõ: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ
nghĩa. Riêng tơi, tơi nghiên cứu chủ nghĩa Mác”. Cho nên cũng có thể nói,
quan điểm tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của con người đó cũng
chính là quyền con người được tự do về tư tưởng.
Đối với Hồ Chí Minh, tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của
nhân dân là tôn trọng một trong những quyền cơ bản của con người, tôn trọng
giá trị làm người, chứ không phải đơn thuần là vấn đề chính trị, mang tính

chất tình thế. Nó thể hiện cái nhìn rộng lượng đối với những quan điểm khác
biệt, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, khơng áp đặt ý kiến của mình lên
người khác, rất xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều. Ý nghĩa sâu
xa ẩn chứa trong đó chính là triết lý nhân sinh, tầm nhìn và tư tưởng khoan
dung, nhân văn sâu sắc của Người đối với tôn giáo. Điều này được nhà sử học
Xanhtơni (người khơng cùng quan điểm với Hồ Chí Minh) khẳng định: “Về
phần tơi, phải nói rằng chưa bao giờ tơi có cớ để nhận thấy nơi có các chương
trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự cơng kích, đa
nghi hoặc chế giễu đối với tơn giáo nào bất kỳ”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao những người sáng lập ra các tơn
giáo, các học thuyết chính trị - xã hội cũng như các giá trị tích cực của các
học thuyết đó. Người nói: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự
tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái
cao cả. Chủ nghĩa C.Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tơn Dật Tiên chẳng có những
ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho lồi người...
Tơi

cố

gắng

làm

người

học

trị


nhỏ

của

các

vị

ấy”.

Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Người đã thể hiện
sự hài hòa, chung sống, cùng tồn tại. Mỗi chúng ta có thể có xuất thân, quan
điểm, đức tin khác nhau, nhưng quan trọng là phải biết tôn trọng sự khác biệt,

11


thích nghi và cùng tồn tại. Muốn vậy, chúng ta phải tìm ra những mẫu số
chung cho sự tồn tại đó. Hồ Chí Minh là người nhận thức sâu sắc nhất mẫu số
chung đó, vì thế, trong mỗi tơn giáo, Người đều chỉ ra được những ưu điểm,
khơng chỉ có giá trị với bản thân đức tin của tôn giáo đó, mà lớn hơn cả là đối
với cả sự tiến bộ của xã hội loài người. Người viết: “Chúa Giêsu dạy: Đạo
đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là
nhân nghĩa”. Theo Người, mặt tích cực của các tơn giáo là đều hướng tới các
giá trị cơ bản của con người, giá trị làm người.
Hồ Chí Minh đã đề cao sự tương đồng về mục đích giữa tơn giáo và
CNXH. Người nói: “Mục đích Chính phủ ta đeo đuổi là chiến đấu vì nền độc
lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song, để đạt tới hạnh phúc đó cho
mọi người thì cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu đức Chúa Giêsu sinh

ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người
đương thời, chắc ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi theo con đường cứu
khổ loài người”.
Triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh là triết lý hướng đến mọi con người
trong xã hội với những giá trị phổ qt chứ khơng phải là vì một vài cá nhân
hay nhóm người nhất định. Vì vậy, khơng chỉ tơn trọng các vị giáo chủ, giáo
sĩ mà Hồ Chí Minh còn rất quan tâm sâu sắc đến đời sống của đồng bào tín
đồ. Người nhắc nhở và chỉ đạo cán bộ ở các cơ sở phải hết sức quan tâm đến
đời sống mọi mặt của đồng bào, từ ăn ở đến học hành tiến bộ của họ: Giáo
dân không thể chịu đói, chịu rét để đi lễ nhà thờ, do vậy, phải chăm lo cho họ
“phần xác” no ấm, “phần hồn” vui vẻ.
Từ việc tiếp cận tơn giáo trên bình diện văn hóa, đạo đức, với triết lý
nhân sinh: Coi tơn giáo là vấn đề con người và vì con người; đề cao, khai thác
các giá trị đạo đức của tơn giáo, Hồ Chí Minh đã thu hút, tập hợp được nhiều
giáo sĩ, nhà tu hành và đông đảo giáo dân tham gia kháng chiến và xây dựng
đất nước. Đây là cách giải quyết vấn đề tôn giáo trong điều kiện mới rất đúng
12


đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, với tâm lý, tình cảm của con
người Việt Nam.
Bên cạnh việc thừa nhận, tôn trọng và khai thác các giá trị về đạo đức,
lý tưởng của tôn giáo, Hồ Chí Minh cịn khẳng định tơn giáo là thành tố của
văn hóa, là một bộ phận của văn hóa, có đóng góp rất lớn vào việc hình thành
nhân cách và đời sống tinh thần của con người. Ngay từ đầu những năm 40
thế kỷ XX. Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa”. Như vậy, tơn giáo là từ cuộc sống mà ra, do

con người và vì con người; tơn giáo là một thành tố, một bộ phận của văn hóa,
hiện hữu trong đời sống con người. Đây chính là quan điểm duy vật của Hồ
Chí Minh nhưng lại khơng hề có sự mâu thuẫn với các tôn giáo. Bởi, ẩn chứa
trong quan điểm đó chính là thái độ tơn trọng tơn giáo và một triết lý nhân
sinh sâu sắc, thể hiện tính nhân văn trong tư tưởng và con người Hồ Chí
Minh.
Thứ ba, ứng xử khoan dung, độ lượng với những người vi phạm chính
sách tơn giáo. Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tơn giáo Hồ Chí
Minh cịn được thể hiện qua thái độ của Người đối với các linh mục, giáo dân
lầm đường lạc lối, nghe theo sự dụ dỗ, cưỡng ép của kẻ thù. Người không
những khơng bỏ rơi họ mà cịn bày tỏ lịng đau xót về nỗi khổ của họ khi rời
bỏ quê hương ra đi, chịu nhiều khổ ải, sẵn sàng mở lòng đón họ trở về. Người
viết: “Số phận của những giáo hữu ấy khiến tơi rất đau lịng và chắc đồng bào
cũng đủ sức đấu tranh đòi trở về quê cha đất tổ. Nhân dịp này, tôi xin nhắc lại
cho đồng bào rõ: Chính phủ ta thật thà tơn trọng tín ngưỡng tự do. Đối với
những giáo hữu đã nhầm di cư vào Nam, Chính phủ đã ra lệnh cho địa

13


phương giữ gìn cẩn thận ruộng vườn, tài sản của những đồng bào ấy và sẽ
giao trả lại cho những người trở về”.
Hồ Chí Minh ln có lịng tin ở con người, bởi lịng tin đó có cơ sở
vững chắc từ triết lý nhân sinh thấm đượm tính nhân văn sâu sắc của Người.
Vì thế, Người khẳng định: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài...
Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta... Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”. Xuất phát từ niềm tin về bản
chất thiện của con người, Hồ Chí Minh đã chủ trương, trong lúc cần tẩy trừ
những kẻ bôi nhọ Thiên Chúa, làm tay sai cho đế quốc, phạm tội phản Chúa,

phản quốc, hại dân thì cũng phải khoan hồng đối với đồng bào lầm đường lạc
lối: “Trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lịng u nước.
Tuy có một số đồng bào lầm lạc, qua một thời gian, những người ấy dần dần
giác ngộ và quay trở về với Tổ quốc”. Nhờ đó, đã thu hút được đơng đảo đồng
bào và chức sắc của các tôn giáo vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc,
thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
1.4. Ý nghĩa của quan điểm khoan dung tơn giáo Hồ Chí Minh
trong giải quyết các vấn đề tơn giáo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung tôn giáo là một nôi dung, bộ
phận trong tư tưởng của Người để lại cho toàn Đảng, tồn dân và tồn qn
ta. Tư tưởng Hồ Chí minh về khoan dung tôn giáo không chỉ khẳng định công
lao to lớn, giá trị đích thực của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chúng và tư tưởng
Hồ Chí Minh về khoan dung tơn giáo nói riêng mà cịn góp phần quan trọng
vào giải quyết đúng đắn nhất vấn đề tôn giáo ở nước ta, tạo cơ sở, tiền đề thực
hiện đồn kết lường – giáo, một bộ phận khơng thể thiếu trong chiến lược đại
đoàn kết dân tộc, làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Đồng thời,
quan điểm khoan dung tơn giáo của Hồ Chí Minh cịn có giá trị lí luận và thực

14


tiễn đối với thực hiện công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay. Chúng ta có thể
rút ra một số vấn đề có ý nghĩa sâu sắc như sau:
Một là, mục đích của cơng tác tơn giáo là nhằm đồn kết những người
có tín ngưỡng, tơn giáo cũng như những người khơng có tín ngưỡng, tơn giáo
phấn đấu cho mục tiêu chung của dân tộc là “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Cho nên, muốn giải quyết đúng đắn và có
hiệu quả cơng tác tôn giáo, phải luôn quan tâm chăm lo đến phần “đời” và
phần “đạo” của quần chúng tín đồ các tơn giáo, Điều đó giả thích vì sao đối
với đồng bào có đạo, Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đến trách nhiệm của các

cấp ủy phải thật sự quan tâm đến phần “đời” và phần “đạo” của đồng bào.
Hai là, tôn trọng và thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
nhưng phải chủ động đấu tranh và kiên cường nghiệm trị những phần tử lợi
dụng tín ngưỡng tơn giáo vi phạm pháp luật, chống phá cách mạng, chia rẽ
đoàn kết lường – giáo. Đây là việc làm thường xuyên của công tác tôn giáo và
phải tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi.
Ba là, quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của quần
chúng tín đồ tôn giáo để động viên họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng
chung của dân tộc, là chính sách nhất quán của Đnagr và Nhà nước ta vấn về
đề tôn giáo. Đối với các vị chức sắc tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta cần phải
tranh thủ uy tín, luôn gắn niềm tin, lý tưởng của họ vợi mục tiêu nhiệm vụ
chung của cách mạng, thực hiện sống “tốt đời, đẹp đạo”, “lợi lạc quần sinh,
vô ngã vị tha” (đem lợi ích và sung sướng cho mọi người, quên mình vì mọi
người).
Bốn là, trong cơng tác vận động quần chúng có tín ngưỡng tơn giáo
phải rất chú trọng đến phương pháp.
Hồ Chí Minh cho rằng, muốn làm tốt cơng tác tơn giáo, phải ra sức
tun truyền, giải thích cho đồng bào tín đồ các tơn giáo hiểu rõ chính sách
của Đảng và Chính phủ để họ tự giác thực hiện và đấu tranh chống lại mọi âm
15


mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của địch. Người thường xuyên nhắc nhở cán
bộ Đảng viên: “khi đi phát động quần chúng, cán bộ phải hết sức chú ý những
điều đó. Sai một ly đi một dặm, nơi nào dân cũng tốt, lương cũng như giáo;
nhưng vì có những cán bộ khơng biết tổ chức, khơng biết giải thích, tuyên
truyền, lại tự tư, tự lợi, Không cảnh giác để bọn phản động chui vào các các
đoàn thể rồi phá hoại”. Nên tiếng thành công tác tôn giáo phải rất khôn khéo,
mềm dẻo, linh hoạt. Nghĩa là, phương pháp vận động đồng bào có đạo phải
vừa ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu lại vừa chân thành cởi mở, tế nhị, đôi khi như

những lời tâm sự đầy sức thuyết phục. Có như vậy mới giải tỏa được những
băn khoăn, vướng mắc của đồng bào tín đồ các tơn giáo.
Năm là, thực hiện công tác tôn giáo cần phải nghiên cứu sâu sắc tình
hình thực tế, hiểu rõ phong tục tập qn, truyền thống tín ngưỡng tơn giáo của
nhân dân, để gây dựng tình cảm với quần chúng. Hồ Chí Minh cho rằng muốn
làm tốt công tác tôn giáo phải kiên nhẫn và phải thực hiện sự “ba cùng” (cùng
sống, cùng ăn, cùng lao động) với nhân dân. Phải biết nhẫn nại “nói với người
nghe một lần người ta khơng hiểu thì nói đến hai ăn lần, ba lần... về đức tính
này phải học theo những người đi truyền đạo”.
Sáu là, tiến hành công tác vận động đồng bào tôn giáo phải được xem
là một khoa học về nghệ thuật thuyết phục, cảm hóa quần chúng có đạo, phải
biết cách vận động, tổ chức, tập hợp họ lại. Như vậy, một trong những biện
pháp quan trọng để thực hiện chính sách tơn giáo là phải có sự kiên trì, bền bỉ,
liên tục; khơng được nóng vội, thơ bảo mà phải thực sự khéo léo, tế nhị; biết
cách tổ chức, hướng dẫn quần chúng tham gia kháng chiến, kiến quốc và chấp
hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn
đề tôn giáo.
Bảy là, khai thác và phát huy cao nhất những điểm tương đồng của các
tôn giáo nhằm thu hút mọi lực lượng, mỗi cá nhân giáo cũng như lương, nỗ
lực phấn đấu vì mục tiêu chung của dân tộc. Đồng thời kết hợp tôn trọng
16


quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo đối với đấu tranh chống lợi dụng tín ngưỡng,
tơn giáo hịng phá hoại sự nghiệp cách mạng.
Điểm tương đồng của các tôn giáo là hướng con người đến cái thiện.
Nắm, hiểu và khéo léo vận dụng điểm này là cơ sở điều kiện để thực hiện
đoàn kết lương - giáo. Bởi theo Hồ Chí Minh mỗi người có quyền nghiên cứu
một chủ nghĩa, có quyền theo hoặc khơng theo một tơn giáo và những người
khác cần phải tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhau, với một thái độ đúng

mực, chân thành. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng trên cơ sở hiểu biết lẫn
nhau, thật độ lượng, xóa bỏ thành kiến, mặc cảm, hiềm khích. “Khơng được
báo thù báo ốn đối với những kẻ lầm đường lạc lối, đồng bào ta phải dùng
chính sách khoan hồng.
Mặt khác, tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo để thực hiện đồn
kết lương - giáo, đồng thời phải phân biệt được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo
của quần chúng với những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch,
những kẻ giả danh tôn giáo để làm tay sai cho địch, hại nước hại dân chúng
không chỉ là “Việt gian mà còn là giáo gian”.

17


CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM KHOAN DUNG TÔN GIÁO HỒ CHÍ
MINH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

2.1. Sự cần thiết phải vận dụng quan điểm khoan dung tơn giáo Hồ
Chí Minh trong cơng tác tơn giáo ở nước ta hiện nay.
Hiện nay trước tình hình đổi mới và phát triển đất nước, các vấn đề tơn
giáo ở nước ta cũng đặt ra một bài tốn để có thể tiếp tục phát huy tinh thần
đồn kết lương – giáo, tất cả vì lợi ích chung của dân tộc, vì mục tiêu chung
của dân tộc “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” phù
hợp với thực tiễn của đất nước.
Một là, sự trở lại của niềm tin tôn giáo, biến đổi diện mạo và tái cấu
trúc tôn giáo. Sự trở lại của niềm tin tôn giáo, gia tăng nhu cầu đời sống tôn
giáo, số lượng tín đồ, chức sắc. Dưới tác động của kinh tế thị trường trong bối
cảnh tồn cầu hóa, thời kỳ CMCN 4.0, đời sống tôn giáo ở nước ta có sự biến
đổi sâu sắc. Đó là sự biến đổi về đức tin, nhu cầu đời sống tâm linh, tín

ngưỡng, tôn giáo gia tăng với sự “trở lại niềm tin tôn giáo” diễn ra ở tất cả các
tôn giáo, các cộng đồng xã hội, các tầng lớp dân cư ở mức độ “đậm, nhạt”
khác nhau và ở mọi vùng miền trong cả nước.
Trong vịng 16 năm (2001-2017), số tín đồ của các tổ chức tôn giáo đã
được công nhận tăng lên 6% trong dân số. Đó là chưa kể các tơn giáo nhóm
nhỏ (chủ yếu là các nhóm Tin lành tư gia) chưa được công nhận và các hiện
tượng tôn giáo mới rất khó thống kê số lượng người theo. Sự thay đổi diện
mạo tôn giáo. Cùng với nhu cầu đời sống tâm linh tôn giáo, sự trở lại của
niềm tin tơn giáo và sự gia tăng tín đồ tơn giáo, diện mạo tơn giáo có sự thay
đổi theo xu hướng ngày càng đa dạng hóa. Sự thay đổi cấu trúc tôn giáo, diễn
18


ra sự cấu trúc lại hệ thống tôn giáo cũng như trong từng tôn giáo. Nếu như
thay đổi diện mạo tơn giáo nói lên sự biến đổi bên ngồi của thế giới tơn giáo
tạo nên các loại hình tơn giáo phản ánh xu hướng phát triển khách quan của
đời sống tôn giáo diễn ra dưới tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, thì tái
cấu trúc tơn giáo lại nói lên sự biến đổi bên trong của hệ thống tôn giáo và
từng tôn giáo, do tác động của chính sách, luật pháp tơn giáo, làm thay đổi địa
vị pháp lý của tơn giáo. Nói cách khác, trong tái cấu trúc tơn giáo ở Việt Nam,
vai trị chủ thể của Nhà nước mang tính quyết định. Cùng với sự cấu trúc lại
hệ thống tôn giáo, với việc “thiết chế hóa” tơn giáo của Nhà nước, cấu trúc
bên trong của mỗi tơn giáo cũng có sự thay đổi.
Như vậy, sự thay đổi về diện mạo và cấu trúc làm cho bức tranh tôn
giáo của Việt Nam ngày càng đa dạng hơn, tính đa nguyên cũng được thể hiện
rõ. Nếu như tính đa dạng thể hiện xu hướng phát triển khách quan của đời
sống tơn giáo, thì tính đa ngun lại phản ánh luật pháp tôn giáo của Việt
Nam đang tiệm cận mơ hình tơn giáo dân sự. Mặt khác, tính đa dạng tôn giáo
là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi đức tin tơn giáo, cịn tính đa ngun
là kết quả của việc hồn thiện luật pháp tơn giáo ở nước ta.

Hai là, Sự chuyển đổi đức tin, xuất hiện hiện tượng tơn giáo mới và
hình thành các cộng đồng tôn giáo - tộc người. Ở miền núi phía Bắc, chủ yếu
chuyển đổi từ tín ngưỡng đa thần truyền thống sang Kitơ giáo. Trong đó, sự
chuyển sang Cơng giáo đã diễn ra từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với sự
hình thành các cộng đồng người Mường, người Thái theo Cơng giáo ở Thanh
Hóa, Ninh Bình, Hịa Bình, người Mơng ở Sapa (Lào Cai), n Bái. Sau đó,
đạo Tin lành - Vàng Chứ nhanh chóng lan sang các vùng người Mông khác và
vùng người Dao (dưới tên gọi Thìn Hùng) ở các tỉnh miền núi phía Bắc, tạo
nên một phong trào chuyển đổi đức tin mạnh mẽ. Đến năm 2015, đã có
181.615 người dân tộc thiểu số ở 927 bản, 13 tỉnh miền núi phía Bắc theo đạo
Tin lành, khơng kể trên 62 nghìn người Mơng theo đạo Tin lành di cư vào Tây

19


Nguyên, sang Lào, Trung Quốc. Miền núi phía Bắc trở thành địa bàn có số
lượng tín đồ theo đạo Tin lành đứng thứ hai trong cả nước, sau Tây Nguyên…
Tại Tây Nguyên, việc chuyển đạo, đổi đạo diễn ra sớm, theo nhiều xu
hướng khác nhau. Từ tôn giáo truyền thống chuyển sang Công giáo, diễn ra
sớm nhất, đầu tiên ở Bắc Tây Nguyên (Kon Tum), cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, phổ biến là người Bana, Xơ Đăng theo Công giáo. Từ sau năm 1990,
Công giáo phát triển mạnh mẽ, lan rộng ra nhiều tộc người, trở thành tôn giáo
có số lượng tín đồ lớn nhất ở Tây Ngun. Đến nay có 20 nghìn Phật tử là
người dân tộc thiểu số, từ Công giáo và Tin lành chuyển sang các hiện tượng
tơn giáo mới. Tiếp đó, cịn chuyển đổi trong nội bộ Tin lành, từ hệ phái này
sang hệ phái khác diễn ra phổ biến.
Tình trạng chuyển đạo, đổi đạo diễn ra nhanh và mạnh mẽ trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, nhất là nảy
sinh vấn đề xung đột đức tin tôn giáo. Những người gia nhập đạo Tin lành,
trước hết phải từ bỏ tín ngưỡng truyền thống, đập bỏ bàn thờ gia tiên cũng

như từ bỏ các tập tục văn hóa truyền thống khác. Chính vì thế đã nảy sinh
mâu thuẫn, xung đột và sự phản ứng gay gắt của những người theo tín ngưỡng
bản địa.
Ba là sự biến đổi về phương thức truyền giáo và lối sống đạo.
Sự biến đổi sâu sắc nhất, nổi bật nhất là sự biến đổi niềm tin và thực
hành niềm tin tôn giáo ở nước ta diễn ra trong thời kỳ đổi mới dưới tác động
của tồn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ ba, lần thứ tư, gắn với
những khái niệm mới như truyền giáo thời internet, cầu nguyện thời @, sống
đạo online thời cách mạng 4.0.
Vào nửa sau của thế kỷ XX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba ra
đời với những phát minh mới về vệ tinh, máy tính, điện thoại, thiết bị điện tử,
cơng nghệ thông tin và internet,... đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các
phương tiện thông tin truyền thông đại chúng, tạo điều kiện cho các tôn giáo
20


đẩy nhanh q trình hiện đại hóa với việc sử dụng các phương tiện truyền
giáo mới: “Phương tiện truyền giáo mềm”. Đó là việc truyền bá đức tin tơn
giáo bằng tư tưởng, văn hóa, học thuật, nghệ thuật với việc sử dụng công cụ
của các phương tiện truyền thông đại chúng như kinh sách, đài phát thanh,
truyền hình, radio, cassette, Internet và mạng điện tử, chứ không phải bằng vũ
lực, quân sự như trước đây.
Dưới tác động của cuộc CMCN 4.0, đời sống tâm linh - tôn giáo ở
nước ta đang có sự biến đổi sâu sắc, xuất hiện loại hình sống đạo mới: sống
đạo online. Mặc dù các tơn giáo đều cho rằng, việc sống đạo online, kể cả đi
lễ chùa online, tham dự thánh lễ online hay cúng giỗ online không thể thay
thế cho sống đạo trực tiếp, song các tơn giáo đều khơng phản đối, thậm chí
cịn khuyến khích lối sống đạo trực tuyến này để thu hút tín đồ thời CMCN
4.0. Trong xu thế phát triển chung, nhất là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo
với những loại dịch vụ mới như rôbốt bán hàng, rơbốt dạy học, rơbốt phát

thanh viên truyền hình, thì việc xuất hiện loại hình rơbốt giáo sĩ cũng chỉ cịn
là vấn đề thời gian, nhất là trong bối cảnh “ơn gọi” giáo sĩ hướng dẫn việc đạo
đang thiếu trầm trọng như hiện nay.
Như vậy, sự biến đổi của đời sống tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới như đã nêu trên trước hết là do tác động của sự biến đổi về đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội của công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế ở nước ta diễn
ra trong bối cảnh tồn cầu hóa và cuộc CMCN 4.0. Mặt khác, sự biến đổi ấy
cịn do chính sách đổi mới cơng tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta ngày
càng cởi mở, thơng thống hơn. Đồng thời, nó là hệ quả của sự phục hồi và
gia tăng nhu cầu đời sống tâm linh tơn giáo sau bao năm bị kìm nén bởi chiến
tranh, nay bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa có điều kiện trỗi dậy, bung ra.
Những thay đổi của đời sống tơn giáo nêu trên địi hỏi cần có cách thức
nhìn nhận, quan điểm mới cũng như chính sách, pháp luật nhằm phát huy
21


được mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của tơn giáo mà trong đó là sự cần thiết
vận dụng quan điểm khoan dung tơn giáo Hồ Chí Minh để giải quyết các vấn
để tôn giáo nhằm phát triển bền vững đất nước.
3.2. Quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác tôn giáo hiện nay.
Quán triệt sâu sắc các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo nói chung và các cơng tác tơn giáo nói riêng
trong q trình tiến hành cơng cuộc đổi mới đất nước, nhất là tình hình hiện
nay Đảng ta ln đặc biệt quan tâm và coi trọng việc chỉ đạo công tác tơn
giáo nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tơn giáo và khơng tín ngưỡng
tơn giáo của nhân dân phải thực hiện đoàn kết chặt chẽ lương - giáo trong
khối đại đoàn kết dân tộc.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo phẩm Nghị quyết số 24NQ/TW ngày 16 – 10 -1990 của Bộ Chính trị (khóa VI) về tăng cường cơng

tác tơn giáo trong tình hình mới vậy Đảng ta đã xác định 3 quan điểm chỉ đạo
trong công tác tôn giáo của Đảng và nhà nước ta: “tơn giáo là vấn đề cịn tồn
tại lâu dài. Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội
mới”. Tiếp tục khẳng định phẩm bổ sung và phát triển những quan điểm cơ
bản trong Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị về Hội nghị Trung ương lần thứ
VII (phần 2, khóa IX) của Đảng về cơng tác tôn giáo đã khẳng định: để làm
tốt công tác tôn giáo trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục nghiên cứu quán
triệt và vận dụng sáng tạo hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và thực
hiện những quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:
Một là tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại trong dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã

22


hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết
dân tộc.
Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào phân quyền sinh hoạt tơn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật về bình đẳng trước pháp luật.
Như vậy, trên cơ sở thừa nhận tín ngưỡng tơn giáo là một nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân và đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với
sự nghiệp xây dựng xã hội mới, Đảng yêu cầu phải tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và tơn giáo. Sự tơn trọng đó khơng phải là giải pháp tình thế mà là đối
xử bình đẳng thực sự quan tâm chăm lo đến lợi ích thiết thân của đồng bào.
Việc tơn trọng ở đây cần được hiểu là quá trình chủ động giải quyết
một cách sáng tạo phải kịp thời phải cụ thể thích hợp với thực tiễn đặt ra ở
từng nơi từng lúc từng địa phương trong điều kiện khả năng cho phép và pháp

luật của nhà nước quy định. Trong đó tiêu chí quan trọng nhất là sự tơn trọng
và giải quyết đó phải góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với
Nhà nước với quần chúng nhân dân nói chung và quần chúng có đạo nói riêng
phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
dân tộc đoàn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào
theo tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng
với tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì
những lý do tín ngưỡng và tơn giáo. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của nhà nước phải kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc
phải gây rối và xâm phạm an ninh quốc gia.
23


Ba là nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng.
Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”
là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tơn giáo với sự nghiệp chung của
dân tộc. Mọi công dân khơng phân biệt tín ngưỡng tơn giáo đều có quyền và
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo là động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước phải ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất tổ quốc;
thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phịng đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó
có đồng bào tơn giáo. Coi cơng tác vận động đồng bào có tín ngưỡng và tơn
giáo là một nội dung một bộ phận của công tác vận động quần chúng. Bởi
quần chúng hết đạo là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết
toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng và Nhà nước ta khơng chỉ quan

tâm giải phóng họ về thể xác, mà cịn giải thốt cho họ khỏi sự áp bức phải
bóc lột và sự lợi dụng đức tin và tình cảm của tín đồ để nơ dịch họ về mặt tinh
thần.
Bốn là công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của cơng tác tơn giáo nhất là
tình hình hiện nay Đảng ta chỉ rõ thực hiện công tác tơn giáo là trách nhiệm
của tồn bộ hệ thống chính trị phải của các lực lượng phải cá nhân tổ chức và
toàn thể xã hội cùng tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Song cũng cần xác
định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết của từng tổ chức theo
đúng chức năng, thẩm quyền theo pháp luật quy định.
Năm là vấn đề theo đạo và truyền đạo.

24


Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Hoạt động tôn
giáo như: mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh, sách, giữ
gìn và sửa chữa xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo phải theo đúng quy định của
pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo hoạt động mê tín dị đoan khơng được ép người dân theo đạo.
Nghiêm cấm các tổ chức tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách
thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của hiến pháp và pháp luật.
3.3. Vận dụng quan điểm khoan dung tôn giáo Hồ Chí Minh để giải
quyết các vấn đề tơn giáo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và xuất phát từ thực trạng của việc thực hiện chính sách tơn giáo trong thời

gian qua, Đảng ta xác định công tác tôn giáo trong thời kỳ mới có những
nhiệm vụ cơ bản như sau:
Một là phải thực hiện có hiệu quả chủ trương chính sách và các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân trong đó có đồng bào các tơn giáo.
Tơn giáo có nguồn gốc từ sự phát triển thấp kém của lực lượng sản
xuất và sự bất lực trước sức mạnh của tự nhiên và nhận thức hạn chế của một
bộ phận nhân dân là nguồn gốc sâu xa làm nảy sinh niềm tin vào “đấng cứu
thế” nói cách khác là do sự bần cùng hóa, áp bức cả về chính trị và văn hóa
phẩm cùng với nỗi thất vọng và bất lực trước những bất công xã hội và nguồn
gốc dẫn đến sự ra đời của tơn giáo. Vì vậy phải thực hiện các chương trình
25


×