Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TL LSĐ quá trình đổi mới nhận thức của đảng về chính trị và xây dựng hệ thống chính trị của việt nam thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.06 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Đổi mới nhận thức và xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam là một yêu
cầu bức thiết của thời đại, của công cuộc đổi mới. Thực tiễn 35 năm (19862021) đổi mới nhận thức của Đảng về chính trị và xây dựng hệ thống chính trị ở
Việt Nam cho thấy đây là một quá trình gian nan, đầy thử thách, là cuộc đấu
tranh giữa cái cũ - cái mới và cần sự vào cuộc của các cấp chính quyền, từ trung
ương đến địa phương. Để đưa đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng và ngày
một phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì, từng bước đổi mới trong
nhận thức, trong xây dựng hệ thống chính trị nhằm giữ vững nguyên tắc, giữ
vững quyền lãnh đạo của Đảng, duy trì sự ổn định của đất nước.
Sau 35 năm đổi mới, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những thay đổi
tích cực, ngày càng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, với nhiệm vụ xây dựng
và phát triển đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chuyển biến ấy được
thể hiện trong một vài mặt sau: tổ chức bộ máy theo hướng ngày càng tinh gọn;
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị
được điều chỉnh hợp lý, khoa học,… Tuy nhiên, trên thực tế, q trình xây dựng
hệ thống chính trị ở nước ta cịn tồn tại nhiều hạn chế. Đó là: đổi mới hệ thống
chính trị cịn lúng túng, chậm chạp; một số vấn đề về chức năng, nhiệm vụ của
các tổ chức đồn thể trong hệ thống chính trị cịn chống chéo, bất hợp lý; tình
trạng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” của cán bộ, Đảng viên làm giảm sút niềm tin
của nhân dân.
Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về q trình đổi mới, xây
dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam là cần thiết, có giá trị lý luận và thực tiễn
cao, góp phần cung cấp thêm một góc nhìn chân thực về cơng cuộc đổi mới,
đánh giá khách quan, tổng kết ưu – nhược điểm, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm và định hướng giải pháp đẩy mạnh quá trình đổi mới trong thời gian tới.
Với những lí do trên, tơi đã chọn đề tài “Q trình đổi mới nhận thức của
Đảng về chính trị và xây dựng hệ thống chính trị của Việt Nam thời kỳ đổi
mới từ năm 1986 đến 2021” làm đề tài tiểu luận.

1



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI NHẬN
THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ
1.1.

Hồn cảnh lịch sử

1.1.1. Tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới
Sau Thế Chiến thứ II, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp,
những sự thay đổi to lớn. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tác động mạnh
mẽ đến mọi mặt của đời sống. Sự lớn mạnh của cuộc cách mạng này đã tạo cơ
hội cho các nước rút ngắn quá trình phát triển và cũng tạo ra những khoảng
cách giàu - nghèo. Trong khi các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây phát
triển nhờ sử dụng tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, áp dụng hợp lý
những thành tựu khoa học công nghệ để tạo ra bước phát triển trong sản xuất.
Thì vào thời điểm đó, Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa vẫn theo mô hình
cơng nghiệp hóa cổ điển, thiên về khai thác tài nguyên thiên nhiên thay vì chú
trọng, đầu tư vào khoa học – công nghệ. Hậu quả là các nước này rơi vào tình
trạng lạc hậu, bị bỏ xa so với sự phát triển mạnh mẽ của phương Tây, và phải
trả giá bởi sự trì trệ, suy thối, khủng hoảng. Do đó, để thốt khỏi tình trạng
khủng hoảng, cải tổ, cải cách và đổi mới đã trở thành xu thế khách quan ở
nhiều nước xã hội chủ nghĩa.
Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, cục diện
thế giới có những sự thay đổi to lớn; chiến tranh lạnh kết thúc; Mỹ trở thành
siêu cường và nuôi tham vọng về một trật tự thế giới mới – thế giới đơn cực.
Các nước lớn một mặt hợp tác, thỏa hiệp, một mặt cạnh tranh gay gắt làm
phức tạp hơn tình hình quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương
và Đơng Nam Á phát triển năng động nhưng còn tiềm ẩn nhiều bất ổn, tranh
chấp lãnh thổ, biển, đảo ngày càng gay gắt… Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên

Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội và phong trào công nhân quốc tế đi
2


đến giai đoạn thối trào. Ngun nhân là vì lãnh đạo các nước xã hội chủ
nghĩa này đã không sớm nhận thức được những bất cập đang tồn tại trong
lòng xã hội, đến khi phát hiện, thay vì thực hiện cải cách, đổi mới, họ lại chọn
con đường rời bỏ, đảo chính phản cách mạng, truất quyền lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, phá vỡ hồn tồn thể chế chính trị đã được xây dựng trong nhiều
thập kỷ.
Trước những biến động phức tạp như vậy, hàng loạt các câu hỏi được
đặt ra giữa các nước xã hội chủ nghĩa: kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường có
đối lập với chủ nghĩa xã hội hay không? Chủ nghĩa tư bản sẽ ra sao? Mơ hình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
có cịn đúng với tất cả các nước?... Tất cả những vấn đề đó đã tác động đến tư
duy chính trị của các Đảng Cộng sản đang nắm quyền, trong đó có Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1.1.2. Tình hình kinh tế - chính trị trong nước
Trong 10 năm đầu đổi mới (1986-1996), mặc dù bị Mỹ áp dụng lệnh
bao vây, cấm vận, nước ta vẫn cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ của chặng
đầu thời kỳ quá độ, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Đầu năm 1988 nhiều vùng xuất hiện nạn đói và lạm phát còn ở mức
393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi nước ta đã bắt đấu xuất khẩu được mỗi
năm 1-1,5triệu tấn gạo; lạm phát giảm dần, đến năm 1990 còn 67,4%. Việc
thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn đạt những tiến bộ rõ rệt. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý
của Nhà nước bước đầu hình thành. Đời sống của nhân dân được cải thiện,
dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững;
hoạt động đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng vị bao vây, cô lập.
Trong 10 năm tiếp theo (1996 – 2006), đây là giai đoạn đánh dấu bước

phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Về cơ bản, tình hình đất nước ổn định; các khó khăn,
3


thách thức dần được khắc phục; sản xuất phát triển, tốc độ tăng trưởng nhanh,
đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; vai trị, vị thế của
đất nước được nâng lên.
Trong 15 năm trở lại đây (2006 – 2020), nước ta bước ra khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đạt tốc độ tăng
trưởng khá, đảm bảo an sinh xã hội. Theo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, tốc độ tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) giai đoạn 2016 - 2019 đạt khá cao, ở mức bình quân
6,8%/năm. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch
Covid-19, thiên tai, bão lụt nghiêm trọng ở miền Trung nhưng tốc độ tăng
trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm và thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới [1]. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn
còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức. Kết quả phát triển kinh
tế - xã hội trên nhiều mặt vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và thiếu
tính bền vững. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra, chưa
thu hẹp được khoảng cách và bắt kịp các nước trong khu vực. Sự gắn kết giữa
phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thực sự chặt
chẽ, hiệu quả. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, tồn vẹn lãnh thổ cịn nhiều khó
khăn, thách thức; tình hình an ninh, trật tự, an tồn xã hội trên một số địa bàn
còn diễn biến phức tạp. Chưa tận dụng, khai thác tốt những cơ hội và điều
kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế.
Tình hình trong nước nêu trên tạo ra cả thuận lợi và thách thức, đặt ra
nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát
triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1.2. Tư duy lý luận của Đảng về chính trị thời kỳ trước đổi mới và
từ năm 1986 đến nay
1.2.1. Tư duy lý luận của Đảng về chính trị thời kỳ trước đổi mới

4


Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành TW đã nêu rõ những hạn chế trong lĩnh vực tư tưởng
trong nhiệm kỳ Đại hội V.
“Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và
vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy
ý chí, giản đơn hố, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã
có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những
quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó, khơng chú ý
vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa
chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu
kinh nghiệm của các nước anh em.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi
mới cơng tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và
quản lý các cấp còn theo một số quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng
đắn, mang nặng tính hình thức, khơng xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị và yêu cầu của công việc; cách làm lại thiếu quy hoạch, chưa chú ý
lắng nghe ý kiến của quần chúng. Công tác giáo dục và quản lý cán bộ, đảng
viên thiếu chặt chẽ.
Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu,
lời nói khơng đi đơi với việc làm, khơng tn thủ quy trình làm việc và ra
quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu kiên quyết
và nhất quán. Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm ngun tắc

Lêninnít trong sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương.
Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các
đồn thể phình ra q lớn, chồng chéo và phân tán.” [2]
5


Như vậy, trước thời kỳ đối mới, nước ta đã có những sai lầm về chính
sách kinh tế, chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần;
là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan; hoạt động tư tưởng và tổ chức của Đảng đã
không theo kịp yêu cầu của cách mạng.
1.2.2. Tư duy lý luận của Đảng về chính trị thời kỳ đổi mới, từ năm
1986 đến nay
Đại hội VI đã khởi xướng cơng cuộc đổi mới tồn diện, từ quan điểm
cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế, cơng nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, xây dựng hệ thống chun chính vơ sản, đổi mới chính sách xã hội…
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiêm khắc kiểm điểm, phân tích những
sai lầm, khuyết điểm và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, mở ra bước ngoặt mới trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1989)
đã chỉ rõ nguyên tắc của quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam là:
- Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa
chọn mà thực hiện bằng hình thức mới, bước đi mới cho thích hợp hơn;
- Chủ nghĩa Mác – Lenin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng ta. Bảo vệ trung thành, vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác –
Lenin trong điều kiện mới;

- Đổi mới tổ chức, phương pháp và hoạt động của hệ thống chính trị
nhằm tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân làm tăng cường sức mạnh,
hiệu lực của chun chính vơ sản;

6


- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đối với thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta;
- Kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản. [3, tr.12]
Như vậy, Đại hội VI là mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong
quá trình kế thừa và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra vào tháng
3/2021 vừa rồi, một lần nữa khẳng định nhiệm vụ: đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới là vô cùng cần thiết.
Đại hội được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được xác định
trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đất nước trải qua 35 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Đại hội XIII có nhiệm vụ kiểm
điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII gắn với đánh giá tổng quát tiến
trình đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5, 10 năm tới và
tầm nhìn đến năm 2045; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XII; kiểm

điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII; bầu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII.[4]
Đại hội XIII của Đảng có chủ đề “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp
7


với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Các thành tố trong chủ đề Đại hội XIII so
với Đại hội XII có một số điểm mới, bao gồm:
- Bổ sung xây dựng hệ thống chính trị vào nội dung xây dựng Đảng
thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh”.
- Xác định rõ hơn “khát vọng phát triển đất nước” phồn vinh, hạnh
phúc. Đây thực sự là kỳ vọng của Nhân dân ta.
- Xác định mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trải qua 8 kỳ Đại hội, Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn có tính nguyên tắc,
sáng tạo trong giải quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đồng
thời khẳng định và kiên định chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phấn đấu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và đường lối
đổi mới qua các kỳ đại hội đã trở thành bài học và kinh nghiệm quý báu góp
phần vào kho tàng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

8



CHƯƠNG 2:
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC CỦA
ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
2.1. Tổng quát kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới
2.1.1. Thành tựu nổi bật trong đổi mới nhận thức lý luận
Qua 35 năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã thu được nhiều kết quả và
thành tựu to lớn trên mọi mặt. Thực tế đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo
của đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Thực tế đó cũng
chứng tỏ sự trưởng thành về tư duy lý luận của Đảng ta, thể hiện tổng quát ở
những thành tựu trong nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong báo cáo tổng quan “Tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng từ 1986 đến nay” (2005), đồng chí Tơ Huy Rứa đã chỉ ra những kết
quả tích cực sau hai thập niên đổi mới, như sau:
Thứ nhất, Đảng ta đã có được những nhận thức mới về chủ nghĩa MácLenin; khảng định vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh; làm rõ về thời đại
ngày nay, về cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và những sau
lầm của cải tổ dẫn tới sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu; nhận thức đúng về vai trò của lý luận đối với hoạt động lãnh đạo và năng
lực cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, nhận thức về mơ hình mục tiêu, bản chất và động lực của chủ
nghĩa xã hội. “Đảng ta đã nêu rõ câu trả lời cho những câu hỏi tổng quát:
CNXH là gì, xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng là một xã hội như thế nào,
đi lên CNXH theo những đường hướng nào…? Sáu đặc trưng của xã hội
XHCN Việt Nam mà nhân dân ta xây dựng nêu trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vừa nói lên bản chất của CNXH,
vừa nói lên tính hướng đích của cơng cuộc xây dựng CNXH”. [5, tr.478]
9


Thứ ba, nhận thức về thời kỳ quá độ và những đặc điểm của con đường

quá độ bỏ qua chế độ TBCN tiến lên CNXH của Việt Nam. “Trên một mức độ
nào đó, đổi mới đã hình thành quan niệm lý luận về định hướng XHCN. Khái
niệm này không chỉ biểu đạt quan điểm, nguyên tắc chính trị của đổi mới với
nỗ lực giữ vững định hướng XHCN, chủ động đề phịng nguy cơ chệch
hướng, khơng xa rời mục tiêu, lý tưởng và con đường XHCN mà chúng ta
kiên trì theo đuổi, mà còn chỉ ra những nhân tố đảm bảo giữ vững định hướng
XHCN”. [5, tr.484]
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc khóa XIII của Đảng, Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cũng đã ghi nhận những kết quả nổi
bật sau 35 năm đổi mới nhận thức lý luận như sau:
Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Chú trọng
thực hiện dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp uỷ đảng,
chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết
những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến
bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và
hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn
gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được
đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Công tác xây
dựng Đảng về tổ chức được thực hiện với quyết tâm chính trị cao, tập trung
kiện toàn, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, có bước
chuyển biến thật sự. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới.
Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng
10



tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Việc đổi mới phong cách, lề lối
làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước
tiến bộ. [4]
Sau 35 năm đổi mới, hệ thống chính trị của nền kinh tế kế hoạch hóa,
tập trung, quan liêu, bao cấp đã từng bước chuyển dần sang hệ thống chính trị
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới và hội nhập quốc tế đã
và đang phát huy vai trò to lớn trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về dân.
2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những bước tiến nổi bật của công cuộc đổi mới, thực tiễn cho
thấy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ, lý
luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN còn nhiều điểm chưa thật rõ.
Nhiều vấn đề về lý luận về sở hữu; tính đa dạng và đan xen các hình
thức sở hữu; hình thức sở hữu với các thành phần kinh tế; vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước; sở hữu tư nhân với sở hữu cá nhân; bóc lột và khơng bóc
lột; cạnh tranh và hợp tác; quản lý hành chính nhà nước với quản lý và quyền
tự do, tự chủ trong sản xuất kinh doanh theo pháp luật của các doanh nghiệp
và doanh nhân…chưa có được sự lý giải thấu đáo. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây
dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh
vực cịn thấp. Mơi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thơng thống, minh
bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được
quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng
lẻo.
11



Thứ hai, lý luận về Đảng Cộng sản cẩm quyền và xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, những đảm bảo dân chủ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm
quyền chưa đạt hiệu quả cao
Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp u cầu của tình hình
mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả
hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một số tổ chức cơ sở đảng,
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa
thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các
quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân. Quyền làm
chủ của nhân dân có lúc, có nơi cịn bị vi phạm; vẫn cịn biểu hiện dân chủ
hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật.
Thứ ba, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa
đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình
hình mới.
Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, xã
hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước có một số mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm sốt quyền lực chưa hồn
thiện; vai trị giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng
kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ
cương, phép nước có nơi cịn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp
thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Thứ tư, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế. Công
tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngồi
nhà nước cịn lúng túng, hạn chế; công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu,
12



vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, tơn giáo,
vùng nơng thơn cịn nhiều khó khăn. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và
đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên
phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hố". Cơng tác phịng,
chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển
biến rõ rệt; cơng tác phịng ngừa tham nhũng ở một số nơi cịn hình thức.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới,
có mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm sốt quyền lực trong Đảng và Nhà nước
chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
2.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
2.2.1. Nguyên nhân của các thành tựu
Thành tựu mà Đảng ta đạt được trong đổi mới tư duy lý luận về chính
trị là kết quả tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Tư
duy mới là sự phản ảnh thực tiễn đổi mới, đồng thời cũng là sản phẩm mang
hình thức lý luận của đổi mới trong 35 năm qua. Trong đó:
- Tinh thần tự đổi mới, tự phê phán của Đảng là một lực đẩy quan trọng
tạo ra xung lực mạnh mẽ để đổi mới tư duy lý luận chung của tồn Đảng, giải
phóng ý thức xã hội khỏi những nhận thức cũ đã lỗi thời, tạo ra môi trường và
bầu khơng khí tâm lý xã hội tích cực, lành mạnh để mọi người nhập cuộc với
công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, trong đó có đội ngũ trí thức, nhất là giới
nghiên cứu lý luận.
- Khả năng của đội ngũ cán bộ lý luận được phát huy, trình độ kiến thức
của cán bộ lãnh đạo và cán bộ lý luận được nâng cao, thông tin trong nước và
quốc tế được mở rộng, sự thâm nhập thực tế để tích lũy kinh nghiệm thực tế
của các cán bộ lãnh đạo, đội ngũ cán bộ nghiên cứu…là những điều kiện và
nhân tố tạo nên thành tựu lý luận đã đạt được.
13



- Những đổi mới về chính sách, cơ chế của Đảng và Nhà nước đối với
lĩnh vực khoa học xã hội trong những năm gần đây, nhất là việc đầu tư vào
các chương trình nghiên cứu cấp quốc gia về khoa học xã hội – nhân văn và
lý luận; việc chú trọng trao đổi, hợp tác nghiên cứu với các nước đã góp phần
quan trọng để nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học ở trong nước.
- Các kết quả nghiên cứu, các đề xuất kiến nghị rút ra từ các kết ủa
nghiên cứu đã được các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước chú
trọng, xem xét, sử dụng làm cơ sở cho các quyết sách về đường lối, chính
sách, tạo sự hứng khởi cho đội ngũ những người nghiên cứu lý luận.
- Đổi mới đã mở ra nhu cầu về tư vấn, phản biện của lý luận, của khoa
học xã hội – nhân văn đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về
CNXH và xây dựng CNXH ở nước ta do nhiều nguyên nhân, cả khách quan
và chủ quan, trong đó nổi lên các nguyên nhân chính sau đây;
Một là, chưa xây dựng và thực hiện được cơ chế dân chủ trong hoạt
động nghiên cứu lý luận trong đời sống khoa học. Trình độ lý luận và nền
khoa học xã hội – nhân văn ở nước ta còn chậm phát triển, còn lạc hậu so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi; sự kết
hợp nghiên cứu chuyên ngành với liên ngành, đa ngành còn yếu, sự phối hợp
các lực lượng, tổ chức nghiên cứu và lãng phí các nguồn lực.
Hai là, sự chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với công tác
nghiên cứu lý luận chưa thật thường xuyên, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Tổ chức
tư vấn về lý luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là Hội đồng
lý luận trung ương chưa đủ mạnh, chưa tập hợp một lực lượng chuyên gia đủ
sức đổi mới mạnh mẽ phương hướng, phương pháp nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn và dự báo trên quan điểm đổi mới, sáng tạo và phát triển.
14



Ba là, nghiên cứu lý luận và phát triển khoa học xã hội – nhân văn chưa
được triển khai rộng khắp và đồng bộ ở các địa phương, các ngành, các cấp,
các tổ chức xã hội, các cơ quan khoa học, nhất là chưa thật sự trở thành đòi
hỏi bức xúc, nhu cầu nội tại của cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các địa phương,
các cơ quan, các ngành và ở một bộ phận các bộ lãnh đạo, quản lý.

15


CHƯƠNG 3:
TIẾP TỤC BỔ SUNG, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA
ĐẢNG, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
3.1. Một số bài học kinh nghiệm của 35 năm đổi mới
Từ thực tiễn công cuộc 35 năm đổi mới, một số bài học kinh nghiệm
được rút ra như sau:
Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết
liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng
và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng,
thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện; hồn thiện cơ chế
kiểm sốt chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phịng, chống suy
thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là "then
chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ
càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí

thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương.
Hai là, đổi mới phải ln ln qn triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi
ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách
nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc. Xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là
16


yếu tố quan trọng góp phần hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Nhân dân
làm nên các thành tựu của đổi mới, đổi mới phải dựa vào nhân dân. Dân chủ
XHCN là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước.
Ba là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, khơng để
bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đơi với giữ vững mơi trường hồ bình, ổn
định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và
sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn,
hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, đánh giá đúng
xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất
nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bốn là, đổi mới phải tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả
những vấn đề thực tiễn đặt ra. Thực tế cho thấy, phải đổi mới toàn diện, đồng
bộ trên mọi lĩnh vực đời sống, từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn,
từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong
từng bộ phận của hệ thống chính trị, từ hoạt động ở trung ương đến hoạt động

của địa phương, cơ sở. Trong quá trình đổi mới, phải tổ chức thực hiện quyết
liệt với các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra
tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp, vì sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối
loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá.
3.2. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới từ nay đến năm 2030
Những năm sắp tới, cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa
cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm
17


chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường
quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các
nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức mới. Cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát
triển mạnh mẽ, sẽ tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách
thức đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Năm năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn và sẽ phải thực
hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới. Xu hướng già hoá dân số nhanh; tốc độ cơng nghiệp hố, đơ
thị hố tăng mạnh; đặc biệt biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt,
phức tạp... ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất nước.
Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn,
thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp
hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính
xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình
huống.
Đổi mới là cơng cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo cách
thức, với từng đường đi nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc chắn, triển
khai một cách sâu rộng và đồng bộ. 35 năm đổi mới (1986 - 2021) là giai

đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành
mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu, toàn
diện để gạt bỏ, tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo
động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Các thành tựu trong suốt
35 qua chính là tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển
trong những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

18


Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố XII tại
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ mấy quan điểm chỉ
đạo sau nhằm tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới trong nhận thức chính trị
giai đoạn 5 năm tới:
- Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ,
gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành
công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. [5]
Dựa trên những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030
được nêu ra trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa XII,

có thể xác định một số định hướng nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng
bộ thể chế phát triển bền vững, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc;
khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực.
Trong giai đoạn tới cần có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo động
lực cho sự phát triển đất nước, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cịn
tồn đọng, tạo động lực thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ. Vận dụng và phát huy cao
nhất, hiệu quả nhất mọi nguồn lực: nhân lực, vật lực, trí lực, tài lực nhằm
phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
19


Thứ hai, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh
tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ,
Cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện nhận thức khoa học về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt xác định rõ phạm vi,
mức độ, nội dung phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất,
phù hợp với yêu cầu, điều kiện của đất nước trong giai đoạn sắp tới. Tập trung
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuân thủ
đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong việc thực hiện cơ chế
giá thị trường và phân bổ hiệu quả nguồn lực. Chú trọng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn gắn với phát triển kinh tế nông thôn và
xây dựng nơng thơn mới. Chú trọng giải quyết hài hịa giữa hội nhập quốc tế
với giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế. Chủ động thực hiện các giải pháp ứng
phó có hiệu quả với thách thức của “bẫy thu nhập trung bình”, “bẫy tự do hóa
thương mại”. Cần tập trung xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công, cơ cấu lại
ngân sách nhà nước.

Thứ ba, thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân
dân, quyền con người và quyền công dân gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ công
dân và tôn trọng kỷ cương, pháp luật trên mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời sống
xã hội. Đặc biệt, đề cao vai trò làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Thực hành dân chủ rộng rãi cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
20


Thứ tư, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; đổi mới phương
thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và sự trong sạch, vững mạnh của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác -Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên chăm
lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức; phát
huy bản linh, phẩm chất, trí tuệ của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của
cán bộ, đảng viên. Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan
liêu và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách trên cơ sở
nâng cao chất lượng tổ chức tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; chỉ đạo
chặt chẽ, hiệu quả việc tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm, chủ trương
của Đảng, củng cố quan hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng với nhân dân.

21



KẾT LUẬN
Rõ ràng sau 35 năm, nước ta không chỉ đạt được thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử, mà còn tiếp tục đẩy mạnh và phát triển với các nguồn lực phong
phú. Đồng thời, những hạn chế khuyết điểm trên con đường phát triển càng
chứng tỏ đổi mới là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài, địi hỏi phải chủ động,
kiên trì, thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để điều chỉnh, hoàn
thiện đường lối, chủ trương, chính sách. Hành trình đổi mới với sự hài hòa
giữa ý Ðảng với lòng dân đã và đang kết hợp cả ba yếu tố thiên thời, địa lợi,
nhân hòa. Ðó là động lực lớn nhất, yếu tố cơ bản nhất tạo nên thành công của
sự nghiệp cao cả là xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù vậy, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu, luận giải sâu sắc, thấu đáo hơn để định hướng cho nhận thức,
hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Và để có thể thực hiện tốt
hơn nữa, hiệu quả hơn nữa các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ trong giai
đoạn sắp tới, cần sự hợp lực của Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền
cùng sự hưởng ứng của quần chúng nhân dân. Với hướng đi đúng đắn, khát
vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ
lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc,
cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công
tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của tồn dân tộc ta.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành TW Đảng khóa XII, Báo cáo đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương

hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025
2. Ban Chấp hành TW Đảng khóa V, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI
3. Khoa Tuyên truyền – Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2014), Hệ
thống quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ban Chấp hành TW Đảng khóa XII, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ XIII
5. PGS.TS Tô Huy Rứa (2005), báo cáo tổng quan kết quả nghiên cứu
Đề tài tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới – “Tổng kết quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”

23



×