Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

TL XDĐ tư tưởng hồ chí minh đối với xây dựng đảng về tổ chức và sự vận dụng của đảng trong đường lối đổi mới (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.69 KB, 48 trang )

Mục lục.
Phần mở đầu..............................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài..............................................................................2
3. Nhiệm vụ cần làm rõ........................................................................................2
4. Đối tượng luận.................................................................................................2
5.

Phương pháp luận đề tài..................................................................................3

Phần nội dung............................................................................................................4
Chương 1: Những khái niệm liên quan đến đề tài, lý luận và thực tiễn hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức....................4
1.1 khái niệm liên quan.......................................................................................4
1.2 Lý luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây
dựng Đảng về tổ chức.........................................................................................5
Chương 2: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng đảng về tổ
chức. 10
2.1 Trong tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo
những nguyên tắc của đảng kiểu mới của giai cấp vô sản................................10
2.2 Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của Đảng Cộng sản...........................................................................................15
2.3 Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.....................................20
Chương 3: Đảng ta vận dụng đổi mới trong công tác xây dựng Đảng về tổ
chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................................................22
3.1 tình hình đổi mới của Đảng ta trong công tác xây dựng tổ chức Đảng.
22
3.2 công cuộc vận dụng đổi mới.......................................................................24
3.3 Mục tiêu nhận thức và bài học kinh nghiệm...............................................34
Kết luận 41
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................43




Phần mở đầu

1. Lý do lựa chọn đề tài.
Một Việt Nam đang gặt hái được nhiều thành công, thành tựu trên con
đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đó là nhờ sự lãnh đạo, nhất
quán của Đảng cộng sản Việt Nam tới những cán bộ, tổ chức, nhân dân làm
việc có hiệu quả. Từ đó nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đảng cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam, ra
đời mang bản chất giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của
cánh mạng bảo vệ tổ quốc, xây dựng đổi mới đất nước Việt Nam và sứ mệnh
lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết
định. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát
triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của
điều kiện khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn
lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Là người sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh khơng ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện
Đảng ta thành một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ,
đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đày tớ trung thành của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải ln là một khối đồn kết,
thống nhất về mọi mặt, trong đó sức mạnh của Đảng chính là sức mạnh của tổ
chức chặt chẽ, có tính kỷ luật cao từ Trung ương đến cơ sở, từ các cơ quan
nhà nước đến các đoàn thể chính trị - xã hội. Do đó, xây dựng Đảng về tổ
chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm tạo ra sự khoa học, đồng bộ, thống
nhất trong hệ thống chính trị, bảo đảm tổ chức bộ máy phải tinh gọn, hiệu


1


quả, luôn đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp thực tiễn: “Chính quyền và đồn
thể (Đảng) cũng cần thường xun rửa các bộ máy của mình, để tẩy trừ những
phần tử bất chính, đầu cơ và chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn gàng, mau
chóng”. Trong đó, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm
chủ. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước; mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị phải phát huy một cách tự giác, đầy đủ nhất vai trị của mình. Vì thế,
cơng tác xây dựng Đảng về tổ chức có mối liên hệ gắn bó, khơng thể tách rời
với hệ thống chính trị, với việc nâng cao chất lượng của các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
Nội dung xây dựng Đảng về tổ chức đều được khẳng định trong văn
kiện mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu của
tình hình và nhiệm vụ cách mạng, địi hỏi cả hệ thống chính trị cần phải đổi
mới hoạt động của Đảng theo hướng bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu lực,
hiệu quả gắn với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng với xây dựng hệ thống chính
trị ở cơ sở. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: “Tiếp tục đổi
mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành… Thực hiện chủ trương quản
lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Vậy nên đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ
chức và sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới” là đề tài luôn được
quan tâm và được thể hiện rõ ràng trong sự tiếp thu tư tưởng ở mỗi cấp, mỗi
tổ chức.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Tìm hiểu, phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng
Đảng về tổ chức và sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới.

3. Nhiệm vụ cần làm rõ.
Những khái niệm liên quan, lý luận và thực tiễn hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức.


Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng đảng về tổ chức.
Đảng ta vận dụng đổi mới trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. (Sự vận dựng của Đảng trong đường lối đổi mới)
4. Đối tượng luận.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức và sự vận
dụng của Đảng trong đường lối đổi mới.
5. Phương pháp luận đề tài.
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp luận dựa trên những quan điểm Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Kết hợp với đó là những quan
điểm tư tưởng về cách mạng về chính trị về Đảng và tổ chức của các ban
ngành cán bộ lãnh đạo chính trị đất nước. Góc nhìn của tác giả tham gia viết
qua những phân tích và ví dụ.


Phần nội dung.
Chương 1: Những khái niệm liên quan đến đề tài, lý luận và thực tiễn
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức.

1.1 Khái niệm liên quan.
Xây dựng đảng là gì? Là tồn bộ các hoạt động xây dựng nơi bộ đảng
cộng sản nói chung, Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, đạo đức và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng Đảng
luôn trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng thực hiện mực tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ? là hệ thống những khái

niệm, quan điểm, luận diểm của Hồ chí Minh về các hoạt động xây dựng nội
bộ Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và
phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững
mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng về tổ chức? là Xây dựng hệ thống tổ chức, cơ cấu bộ
máy của Đảng từ cấp uỷ đến các ban Đảng, từ cơ sở đến Trung ương đúng
theo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng; Xây dựng đội ngũ đảng viên,
đội ngũ cán bộ; Xác định đúng đắn mối quan hệ và phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, các đoàn thể nhân dân; xây dựng thể chế Đảng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội; Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Xây dựng Đảng về tổ chức là nhằm tăng cường sức mạnh của các tổ
chức cơ sở Đảng nói riêng và tồn Đảng nói chung. Muốn vậy, phải kiện tồn
tổ chức đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên mà hàng đầu là rèn
luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng chí cơng vơ tư, chống chủ
nghĩa cá nhân; chú trọng công tác cán bộ. Đảng phải là một tổ chức chính trị


trong sạch, vững mạnh; một tổ chức chiến đấu kiên cường, một tổ chức với
đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, của
nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, tận tâm, tận lực phục vụ cách mạng,
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng phải chọn
lực những người rất trung thành và rất hăng hái, đồn kết họ thành nhóm
trung kiên lãnh đạo”. Đảng là một tổ chức coi trọng chất lượng hơn số lượng,
thường xuyên quan tâm xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu và cầm quyền của Đảng và sẵn sàng đưa ra khỏi
Đảng những người không đủ tiêu chuẩn: “Đảng phải luôn tẩy bỏ những phần
tử hủ hóa ra ngồi”.
1.2 Lý luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối

với xây dựng Đảng về tổ chức.
Hồ Chí Minh và sự tiêu biểu cho mọi hoạt động tổ chức Đảng. Cần cù
lao động, anh dũng chiến đấu dựng nước và giữ nước, đồn kết, sống có tình,
có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Tất cả tạo nên một truyền thống cho những điều
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Con đường cách mạng, hoạt động cách mạng
đến những kinh nghiệm bài học xuyên xuốt dòng chủ lưu lịch sử dân tộc và
mãi mỗi thế hệ đều phải học tập và làm theo. Tư chất thơng minh, tư duy độc
lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới, phẩm chất đó được
rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Giữa thực tiễn
phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa
biết bao tình huống phức tạp; tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình
thành những luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên nền tảng tư
tưởng vững chắc và truyền bá, hình thành xây dựng Đảng về tổ chức cho cách
mạng Việt Nam. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học căn cứ
vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào


điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại.
Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Trong
lĩnh vực xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã để lại những luận điểm rất quan
trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi.
Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có

đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình kinh tế - xã hội và giai
cấp ở Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
trong Cách mạng Việt Nam, tổ chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, có
khả năng đồn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên
làm cách mạng, bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và
nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của
dân tộc”, “ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta
khơng có lợi ích gì khác”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết “Chủ nghĩa
Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn


tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dươngvào đầu năm 1930”. Điều này
thể hiện hai mặt gắn bó với nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm
vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
để vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Người khẳng định: không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, nhưng
việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác
định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết
phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo
công nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.

Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc”, Hồ Chí Minh khi
thành lập Đảng đã xác định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong trào cách
mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của Người về việc
gắn Đảng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, gắn giai cấp với
dân tộc là hoàn toàn đúng đắn.
Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời
là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào cơng
nhân và phong trào u nước để hình thành Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh cịn
đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân,
đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội
đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951), Người đã khẳng
định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc
Việt Nam” 1. Năm 1961, luận điểm đó được Người nhắc lại: “Đảng ta là đảng
của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.


Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc,
Người đã hiều rõ vai trị lãnh đạo cách mạng của giai cấp cơng nhân, đồng
thời phê phán những quan điểm sai trái như không thấy rõ vai trò và sứ mạng
lịch sử của giai cấp công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà khơng thấy rõ
vai trị của các tầng lớp, giai cấp khác đi với cơng nơng tạo thành sức mạnh to
lón của khối đại đồn kết tồn dân.
Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công nhân của Đảng không
phải chỉ ở số lượng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở nền
tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của

Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc
tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”.
- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng một
câu của Lênin: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận
động…chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm
nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa Lênin:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nịng cốt” theo Hồ Chí Minh khơng có
nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần của chủ
nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và
nhân loại.


Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tác
của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân
biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những
nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng
Đảng cụ thể.
Để thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng phải thực
sự là đại biểu về danh dự, lương tâm, trí tuệ của dân tộc. Sự vững mạnh về tổ

chức hoạt động của Đảng là điều kiện cơ bản, bảo đảm chắc chắn nhất cho
một Đảng vững mạnh, nhận được lòng tin lớn lao của nhân dân như vậy. Điều
đó giải thích vì sao Đảng ta ln xem xây dựng Đảng về tổ chức là hoạt động
quan trọng, thường xuyên quan tâm hàng đầu của Đảng.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng công tác xây dựng
Đảng về tổ chức, đã tập trung chỉ đạo từ mỗi Đảng viên đến nhân dân thực
hiện cuộc cách mạng phát triển đất nước và đạt nhiều kết quả to lớn. Nhờ đó,
Đảng ta từng bước trưởng thành qua các thời kỳ cách mạng. Trong quá trình
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết về
xây dựng Đảng và lãnh đạo tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đạt thành
tựu to lớn. Tuy nhiên, công tác xây dựng trong tổ chức Đảng vẫn còn những
yếu kém và nổi lên những vấn đề cấp bách phải giải quyết. Điều này đã được
Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” chỉ ra. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã
đề ra mục tiêu: “Phải tạo được chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn
chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự
là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, khơng
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin


trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện
thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng.”

Chương 2: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng đảng về tổ
chức.

2.1 Trong tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng
theo những nguyên tắc của đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Một là, tập trung dân chủ. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một

nguyên tắc, quan hệ mật thiết với nhau, mặt này nương tựa và là điều kiện của
mặt kia.
Tập trung trên nền tảng dân chủ. Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung
trong Đảng là: thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, bộ
phận phục tùng đoàn thể, tất cả đnagr viên phải chấp hành vô điều kiện nghị
quyết của Đản. Đảng tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một


người. Hồ Chí Minh nhấn mạnh tập trung phải trên nền tảng dân chủ, phải
chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người cho rằng “phải thực sự
mở rộng dânc hủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom
góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho
thật tốt.
Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân, là thành quả, mục tiêu, động lục của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh
“Chế độ ta là chế dộ dân chủ, tư tưởng phải tự do. Tự do là thế nào? Đối với
mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó
là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã
phát biểu ý kiên, đã tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền
tự do phục tùng chân lý.
Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Vì sao cần phải có tập thể lãnh
đạo? Vì một người dù có khơn ngoan tài giỏi đến mấy, dù kinh nghiệm đến
đâu, cũng chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,
không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần
phải có nhiều người để có nhiều kinh nghiệm, xem xét được khắp mọi mặt, và
vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, tránh khỏi sai lầm. Viêc gì đã được
đơng người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì mới phải giao
lại cho một người hoặc cho một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà
thi hành. Như thế mới chun trách, cơng việc mới chạy. Nếu khơng có cá
nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy

cho ngươi nọ, kết quả là khơng ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng khơng
xong. “Tập thẻ lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Trong khi thực hiên nguyên tắc này tránh máy móc, bao biện độc đoán, chủ
quan, dựa dẫm vào tập thể.
Hai là, tự phê bình và phê bình. Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc
bén, là quy luật phát triển Đảng, là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là thang thuốc
hay nhất để chữa các bệnh trong Đảng.


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác
ở trong lịng”, “Người đời khơng phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm”. Mặt khác, Đảng từ trong xã hội mà ra nên cũng không tránh khỏi
những cái xấu xa của xã hội bên ngoài lây ngấm vào; trong đảng “không phải
là người đều tốt, việc việc đều hay”.
Mục đích của việc phê bình tự phê bình là “cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt
đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Là một biếu hiện của dân chủ, đồng thời giữ
uy tín của đảng và người lãnh đạo. Thái độ phê bình và tự phê bình là “triệt
để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt”. Cần một cái tâm trong sáng:
phê bình “khơng phải để soi mói, khơng mỉa mai, nói xấu”, khơng được trù
dập người phê bình. “Phải có tình dồng chí u thương lẫn nhau”. Phải thực
hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh. Mỗi cán bộ, đnagr viên hằng ngày phải
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như
vậy thì Đảng sẽ khơng có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vơ cùng.
Ba là, kỷ luật nghiêm chỉnh và tự giác. Nghiêm chỉnh là thuộc về tổ
chức đảng, kỷ luật của Đảng là đối với mọi đảng viên, không phân biệt lãnh
đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ, đảng viên đều bình đảng trước kỷ luật
Đảng. Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân đảng viên đối Đảng – một tổ chức của
những người tự nguyện đứng trong hàng ngũ vì nhiệm vụ chung, mục tiêu lý
tưởng của đảng. Trên cơ sở nhận thức về mục tiêu, lý tưởng sứ mệnh lịch sử

Đảng, quần chúng vào Đảng là tự nguyện, Đảng khơng ép buộc ai vào Đảng.
Vì vậy, việc tn thủ kỷ luật của Đảng cũng phải tự giác. Về điều này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ : “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về
nhiệm vụ của họ đối với Đảng”. Kỷ luật nghiêm minh, tự giác trước hết được
thể ở chỗ chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ theo các
nguyên tắc tổ chức, lãnh đọa và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng
Đảng, kỷ luật đảng. Đây là yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng. Kỷ luật này tạo
điều kiện để Đảng thống nhất về tư tưởng và hành động.


Kỷ luật của Đảng cịn thể hiện ở chỗ nói và làm theo đúng nghị quyết
của Đảng, không được phát ngôn bừa bãi. Tuân thủ kỷ luật của Đảng gắn liền
với việc nghiêm túc chấp hành pháp luật nhà nước và kỷ luật của đồn thể.
Trên thực tế, có một số trường hợp đảng viên, cán bộ lợi dụng quyền lực, tự
coi mình là nhà nước. người của Đảng dẫn đến một số một số biểu hiện hư
hỏng, hành động vơ tổ chức, vơ chính phủ. Đã là cán bộ, đảng viên thì khơng
được cho phép mình coi thường kỷ luật các đoàn thể, đứng ngoài, đứng trên
pháp luật Nhà nước cho phép. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Mỗi đảng viên
cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà
cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của những cơ quan chính quyền cách
mạng.
Đảng viên thi hành tốt kỷ luật của các đoàn thể và chấp hành nghiêm
pháp luật của Nhà nước là sự khẳng định đọa lý “đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”, đồng thời đó cũng là một thước đo uy tín của Đảng, chỉ rõ
Đảng ta là một Đảng chân chính của cách mạng.
Bốn là, đồn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Nhờ đồn kết chặt chẽ, một
lịng mơt dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ
ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta
hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tồn Đảng phải

thống nhất ý chí và hành động, phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của tồn
Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, đặc biệt là sự đoàn kết thống nhất của cán bộ lãnh đạo là nòng cốt cho
việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân và đoàn kết quốc tế.
Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng là dựa trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng và chính
sách, pháp luật của nhà nước và được vận dụng có lý có tình. Cách thức để
xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là thực hiện và mở rộng dân chủ
nội bộ để đảng viên tham gia bàn bạc đến nơi đến trốn những vấn đề hệ trọng


của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình; thường xuyên tu dưỡng đạo
đức cách mạng, chúng chủ nghĩa cá nhân. Thông qua công tác thực tiễn để
thực hiện đoàn kết và sức mạnh đoàn kết và sức mạnh đoàn kết là động lực để
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Năm là, Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với dân. Đảng lãnh đạo để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng
lợi, đem lại độc lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, Đảng pahir làm
trịn sứ mệnh của mình vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành
cùa nhân dân. Hồ Chí Minh viết về lãnh đạo: “Lãnh đạo là làm đầy tớ cho
nhân dân và phải làm cho tốt”. Sự lãnh đạo của Đảng phải đặt trong mối liên
hệ với chế dộ dân chủ, Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ
Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành
nào – đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân”. Quyền lực chính trị của
Đảng càng lớn thì trách nhiệm phục vụ nhân dân càng cao, nhất là từ khi
Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân làm chủ.
Đảng khơng có quyền lợi của riêng mình ngồi quyền lợi của giai cấp, của Tổ
quốc, dân tộc.
Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với dân. Đảng phải lấy dân làm gốc. Biết ý kiến của dân chúng, tức là

phải lắng nghe ý kiến của nhân dân. Khiêm tốn học dân chúng nhưng không
theo đuôi dân chúng. Nâng cao dân chúng tức là nâng tầm trí tuệ và sức mạnh
của nhân dân. Hồ Chí Minh dân chúng rất khơn khéo, hăng hái, rất anh hùng.
Vì vậy, phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng. Phải phụ trách trước Đảng và
Chính phủ, đồng thời phụ trách trước nhân dân. “Mà phụ trách trước nhân dân
nhiều hơn trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm
việc, phục vụ cho nhân dân, đưa nhân dân đi lên phát triển tốt đẹp, và cũng
phụ trách trước nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phu trách trước nhân dân,
tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, và tức là đưa nhân dân đối
nghịch với Đảng và Chính phủ”, kìm hãm sự phát triển của dân tộc.


Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân tức là làm theo cách
quần chúng với các nguyên tắc sau:
- Việc gì cũng phải học hỏi bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng
- Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm
cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt
dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì để hộ đề nghị
sửa chữa. Dựa vào ý kiên của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của
ta.
- Không đi theo mãi những cái cũ, ln phải tình hình thiết thưc của
dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tình
nguyện của dân chúng àm tổ chức họ, tùy hoàn cảnh thiết thực trong nói đó và
lúc đó, đưa ra tranh đấu.
- Chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng.
- Đưa chính trị vào quần chúng.
Chăm lo mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân là một đòi hỏi
khách quan vừa là yêu cầu của cách mạng vừa là nhu cầu của chính bản thân
Đảng. Bởi vì theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân nhiều tai nhiều mắt, việc

gì họ cũng nghe cũng thấy. Họ khơn khéo, hắng hái, anh hùng; bao nhiêu
quyền hành, lực lượng, của cải đều ở trong dân. Dân rất tốt, từ ngày có Đảng,
họ một lòng theo Đảng, chở che, đùm bọc, bảo vệ Đảng, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng. Kinh nghiệm trong nước và thế giới, xưa và nay
cho thấy, có lực lượng dâm chúng, được dân chúng đồng lịng, ủng hộ, giúp
đỡ việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. khơng có thì việc gì làm
cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn,
nhanh chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ
khơng ra được. “dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng
ra”. Hồ Chí Minh khẳng định “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn
lắng tai nghe ý kiên của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ


đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với
dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
2.2 Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của Đảng Cộng sản.
Thực chất của nguyên tắc này chính là nhằm nâng cao tính tích cực và
năng lực sáng tạo của đảng viên, để các quyết định của Đảng ln là sản
phẩm kết tinh bởi trí tuệ tập thể và bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ
chức đảng và đảng viên khi ý chí của đa số được khẳng định và bắt buộc phải
phục tùng.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
khẳng định và kiên trì thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, ln lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng. Đó là ngun tắc chỉ đạo tồn bộ việc xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng, vừa bảo đảm cho Đảng có sự thống nhất về ý
chí và hành động, vừa phát huy được dân chủ trong Đảng, tạo nên sức mạnh
to lớn của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ln khẳng định tập trung

dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng; phủ nhận
nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành do Đại hội XI của Đảng
(năm 2011) thông qua nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí
và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm
minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đồn kết
trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân
dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được quy định tại Điều 9, Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam:


- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.
Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên...
- Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới...
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ
chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và
Ban Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có

ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”
Đảng Cộng sản Việt Nam ln khẳng định và kiên trì thực hành nguyên
tắc tập trung dân chủ. Đó là do, trước hết, xuất phát từ bản chất của Đảng và
từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin xác định,
Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của
giai cấp cơng nhân, là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai
cấp công nhân. Đảng chỉ kết nạp vào trong đội ngũ của mình những người ưu


tú nhất, tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Làm cách mạng để tự giải phóng và để
cải tạo xã hội cũ xấu xa thành xã hội mới tốt đẹp... là một sự nghiệp rất vẻ
vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ”. Cách mạng muốn thắng lợi, “Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Để xây
dựng Đảng vững mạnh, trước hết phải xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức.
Tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương phải thật chặt chẽ, thống
nhất, có ý thức kỷ luật cao. Đồn kết là sức mạnh của Đảng, cịn kỷ luật của
Đảng là một điều kiện, nhân tố quan trọng để giữ vững sự đồn kết, thống
nhất về ý chí và hành động, nâng cao khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc,
hai điều đó không thể tách rời nhau trong nội bộ Đảng. Sức mạnh vô địch của
Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ,
đảng viên. Bởi nhiệm vụ lịch sử của Đảng rất nặng nề, phức tạp, lâu dài, luôn

phải đấu tranh với các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá Đảng và chủ
nghĩa xã hội. Do đó, Đảng phải được xây dựng một cách tập trung với sự
thống nhất về tổ chức và hoạt động, đồng thời giữ vững kỷ luật nghiêm minh
thì mới đủ sức hồn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang.
Xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế; từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, chế độ
tập trung dân chủ trong Đảng chính là nguồn gốc tạo ra sức mạnh của Đảng
về mặt tổ chức, là điều kiện bảo đảm cho Đảng giữ vững sự thống nhất về ý
chí và hành động.


Luận giải về vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đều khẳng định, nguyên tắc này có
tác dụng quan trọng đối với việc nâng cao tính tích cực và sáng kiến của đảng
viên trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp của Đảng, để các quyết
định của Đảng trở thành sản phẩm trí tuệ tập thể của tất cả các đảng viên và
của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, làm tăng thêm tính kỷ luật, tính tự giác
vơ sản của Đảng. Dân chủ trong Đảng hoàn toàn đối lập với dân chủ hiểu theo
quan điểm của chủ nghĩa cơ hội. Nếu các phần tử cơ hội chủ nghĩa núp dưới
chiêu bài “dân chủ” để tấn cơng vào chế độ tập trung và âm mưu địi tự do bè
phái trong Đảng, thì ngược lại, những người cộng sản đấu tranh để thực hiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của đảng viên,
giáo dục cho đảng viên có ý thức làm chủ trong Đảng. Tập trung trong Đảng
là biểu hiện của sự lãnh đạo tập thể, bảo đảm cho các chủ trương của Đảng
được đúng đắn, trên cơ sở tập trung được kinh nghiệm và ý kiến của mọi đảng
viên, hạn chế được những sai lầm chủ quan, phiến diện, tránh được những
hiện tượng độc đoán, chuyên quyền. V.I. Lê-nin viết: “Chế độ tập trung dân
chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác,
thật khác xa chủ nghĩa vơ chính phủ”; “Khơng có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn

chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khn máy
móc”. Lê-nin khẳng định, đây là ngun tắc tổ chức duy nhất đúng của đảng
vô sản kiểu mới, là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng chân chính
của giai cấp cơng nhân với các đảng phái khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải bản chất của tập trung dân chủ: “Nhân
dân là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi
hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất,
tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến
Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa
dân chủ vừa tập trung”. Tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện


chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực
hiện trong khn khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực
hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Vì vậy, cần phải có
sự kết hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc bảo đảm cả hai yếu tố này trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý nhà nước. Dân chủ phải
được bảo đảm bởi tập trung và tâp trung phải dựa trên cơ sở dân chủ. Nếu chỉ
có sự lãnh đạo tập trung mà khơng mở rộng dân chủ thì sẽ tạo môi trường cho
phát sinh cửa quyền, tham nhũng. Ngược lại, khơng có sự lãnh đạo tập trung,
thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vơ chính phủ, cá nhân chủ nghĩa.
Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần
thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách
là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.
Một người dù tài giỏi bao nhiêu cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn
đề, càng không thể hiểu được cặn kẽ mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì
vậy, để lãnh đạo được sát, được đúng, cần phải có sự tham gia đóng góp ý
kiến của nhiều người, giúp chỉ ra được các mặt của vấn đề, qua đó, sẽ hiểu

vấn đề một cách tồn diện và vì vậy, mới có thể lãnh đạo thành cơng trong
việc giải quyết vấn đề đó. Khi tập thể đã bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được
định rõ thì giao cho một người phụ trách chính. Làm như vậy, kế hoạch mới
được thực hiện đầy đủ, không bị chồng chéo, tránh dựa dẫm, công việc sẽ đạt
kết quả cao, có cơ sở để biểu dương những người làm giỏi, phê bình những
người làm kém, xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân. “Lãnh đạo không
tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đốn, chủ quan. Kết quả là hỏng
việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vơ
chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách
cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Phải tránh dân chủ theo kiểu tùy tiện,
phân tán, vơ tổ chức và hình thức. Như thế là rất nguy hại, làm suy giảm năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức đảng.


Sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu là bài học đau xót về việc bng lỏng, xa rời, thực hiện không đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản. Một số nước nghiêng về tập
trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng,
xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một
số nước lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vơ chính phủ.
Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã
làm tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cản trở sự phát triển của
các nước đó.
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến nay, trải qua
hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam ln kiên trì
thực hành ngun tắc tập trung dân chủ, từ đó tập hợp, đồn kết, phát huy bản
lĩnh, trí tuệ, tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm
hạt nhân quy tụ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính
vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến công

cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện
nay.
2.3 Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu
và nhiệm vụ cách mạng.
Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với
danh hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách
mạng…họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến
tham ơ, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” 1. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận
điểm quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là


vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân” 2. Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa chữa những lỗi lầm, sai
trái ấy.
Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh hưởng
của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được
cái tốt, cái hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường
xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi
việc xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là cơng việc thường xun của Đảng.
Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lựx có sức mạnh
rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức
phá hoại rất ghê gớm vì con người nắm quyền lực có thể thối hóa, biến chất
rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo

quyền lực, tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền lực thì lợi dụng quyền
lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng
lãnh đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đồi
mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá
biến chất gây ra.
Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn
Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trịn nhiệm vụ Đảng giao phó
cho mình, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân” 3
Những luận điểm trên đây về cơng tác xây dựng Đảng của Hồ Chí
Minh thực sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn
kiểm nghiệm, khôngphải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế
giới, có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng


sản. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng
và Nghị quyết Đại hội IX đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là những
việc làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng trong tình hình mới.


Chương 3: Đảng ta vận dụng đổi mới trong công tác xây dựng Đảng về tổ
chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

3.1 tình hình đổi mới của Đảng ta trong cơng tác xây dựng tổ chức
Đảng.
Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu,
trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, những năm qua Đảng ta luôn giữ vững
bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;

thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ mới.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn,
thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Giữ vững ổn
định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phịng - an ninh; mở rộng quan
hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày
nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu khơng ngừng của tồn Đảng, tồn dân,
tồn qn, trong đó có sự hy sinh qn mình và đóng góp quan trọng của đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và
lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu
của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Quá trình tực hiện công tác xây dựng tổ chức Đang ta cũng có nhiều
thay đổi tích cực, tự phê bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những


×