ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
--- --VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
Ở HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Giáo viên hướng dẫn:
Th.S. Hoàng Ngọc Vĩnh
Sinh viên thực hiện:
Đinh Thị Hà Lan
HUẾ, 05/2010
1
Để hoàn thành khóa luận Tốt nghiệp, em xin bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc đối với các thầy, cô trong khoa Giáo dục Chính trị, bạn bè và
người thân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em giải quyết những khó
khăn, vướng mắc trong thời gian nghiên cứu. Đặc biệt là thầy Thạc sỹ
Hoàng Ngọc Vĩnh (ĐHKH Huế), giáo viên hướng dẫn.
Em xin chân thành cảm ơn Huyện ủy Minh Hóa tỉnh Quảng Bình,
Thư viện trường Đại học Sư phạm Huế; Trung tâm Học liệu Đại học
Huế đã tạo điều kiện cho em hoàn thành Khóa luận Tốt nghiệp này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do kiến thức còn hạn chế, thời
gian không nhiều và những lý do khách quan khác, nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong các thầy, cô giáo góp ý để Khóa luận
của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn!
Người thực hiện:
Đinh Thị Hà Lan
2
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Một trong những di sản cực kì quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại cho dân tộc ta là tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công to lớn trong việc tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn và là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo dẫn dắt dân tộc ta đi theo con
đường mà Người đã chọn. Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng rèn luyện Đảng thành một Đảng
macxit chân chính.
Để Đảng làm tròn sứ mạnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong suốt
cuộc đời mình Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng
chỉnh đốn, đối mới Đảng để Đảng mãi xứng đáng là người lãnh đạo và đầy
tớ trung thành của nhân dân.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam nói
chung và về luận điểm “Đảng phải thường xuyên chăm lo, xây dựng, chỉnh
đốn đảng” nói riêng không chỉ có ý nghĩa lý luận - khẳng định những cống
hiến của Người đối với sự phát triển học thuyết Mác-Lênin về đảng cộng
sản, đặc biệt là đảng cộng sản ở những nước thuộc địa, phụ thuộc, kinh tế
chậm phát triển - mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, nhằm vận dụng sáng
tạo tư tưởng của Người làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh xứng
đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, thực hiện những nhiệm vụ
mà cách mạng nước ta đã đặt ra hiện nay.
Huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình là một huyện miền núi rẻo cao.
Trong bối cảnh quốc tế cũng như trong nước hết sức phức tạp và công cuộc
đổi mới đất nước hiện nay, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở nơi đây
cũng được nâng lên một bước. Đảng phải thường xuyên tự đối mới, tự
3
chỉnh đốn, thường xuyên chăm lo công tác chính trị, tư tưởng, đảm bảo sự
thống nhất trong Đảng về nhận thức và hành động.
Do đó, việc nghiên cứu Đảng phải thường xuyên chăm lo, xây dựng
và chỉnh đốn đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh lại có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Và việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng ở Minh Hóa có tầm quan trọng
đặc biệt, là vấn đề then chốt trong công cuộc đổi mới của huyện.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh trong công tác xây
dựng đảng ở Minh Hoá, Quảng Bình hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Đề tài làm sáng tỏ sự vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch vững mạnh trong công
tác xây dựng đảng ở Minh Hoá, Quảng Bình hiện nay.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sạch vững mạnh.
Làm rõ thực trạng về công tác xây dựng Đảng và phương hướng xây
dựng Đảng bộ Minh Hoá, Quảng Bình trong sạch vững mạnh trong giai
đoạn hiện nay.
IV. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch vững mạnh. Công tác xây dựng Đảng ở Minh Hoá Quảng Bình trong
giai đoạn hiện nay.
V. Phưong pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là phương pháp luận biện chứng duy vật; Quan điểm
xây dựng đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp cụ thể:
4
•
phương pháp logic-lịch sử
•
phương pháp điền dã thu thập tài liệu
•
phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh…
VI. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận:
Khái quát được một số vấn đề về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh và ở Minh Hoá, Quảng
Bình hiện nay.
Về mặt thực tiễn:
Khóa luận hoàn thành là nguồn tài liệu để các bạn sinh viên, các
đọcc giả nghiên cứu tham khảo nhằm phục vụ mục đích học tập, nghiên
cứu của bản thân về Đảng Cộng sản Việt Nam.
B NỘI DUNG
Chương 1: Cở sở lý luận và quá trình hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
1. Cơ sở lý luận
1.1
Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Tư tưởng là gì?
Tư tưởng là quan điểm, ý nghĩ chung của con người đối với thế giới,
tự nhiên và xã hội[27; 17, 57]
Tư tưởng là hình thức phản ánh thế giới bên ngoài trong đó bao hàm
sự ý thức về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo
thế giới bên ngoài, là kết quả khái quát hoá kinh nghiệm và sự phát triển tri
thức trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích các hiện
tượng[25; 704]
5
Theo nghĩa thông thường tư tưởng là ý nghĩ, là sự suy nghĩ, là quá
trình tư duy. Trong cụm từ tư tưởng Hồ Chí Minh, thuật ngữ tư tưởng Hồ
Chí Minh có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Khái niệm tư tưởng ở đây
được hiểu là hệ thống quan điểm, quan niệm, luận điểm xây dựng trên nền
tảng thế giới quan Mác-Lênin.
1.1.2 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Đại Tướng Võ Nguyên Giáp: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống lý luận về đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt
Nam”[11; 98]. Nó bao gồm tư tưởng về cách mạng không ngừng, cách
mạng dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là tư tưởng về độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí
Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc”[8;
127-128]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại”[9; 83-84].
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh 2003 (Hội đồng Trung ương chỉ
đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh dùng trong các trường Cao đẳng và Đại học): “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát triển
6
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời
là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người”[13; 19].
Như vậy khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh đã nói lên nguồn gốc ra
đời, nội dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam
và nhân loại. Nhưng đây chỉ là khái niệm bước đầu do đó để đi đến một
khái niệm đầy đủ, toàn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh cần có thêm thời
gian, có thêm sự đóng góp công sức và trí tuệ của nhiều người, nhiều giới,
nhiều ngành khoa học ở trong và ngoài nước.
1.1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch vững mạnh.
Tư tưỏng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt trong toàn bộ di sản của Người.
Người liên tục đề cập vấn đề xây dựng, chỉnh đốn đảng và hình thành một
hệ thống các luận điểm mang tính nhất quán.
Hồ Chí Minh bàn về xây dựng Đảng không phải là khi trong Đảng
có gì đột biến hay trong Đảng “có vấn đề nổi cộm” mới cần đến một giải
pháp tình thế. Với Người xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường
xuyên của Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân
tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh đặt ra như một nhiệm
vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Khi cách mạng gặp khó khăn xây dựng Đảng
để cán bộ, đảng viên củng cố lập trường quan điểm bình tĩnh, sáng suốt,
không tỏ ra bị động, lúng túng, bi quan.
Trong quan điểm Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền
với sự tồn tại của Đảng. Còn Đảng còn hoạt động, còn cần tổ chức xây
dựng và chỉnh đốn Đảng.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được Hồ Chí Minh lý giải hết sức thuyết phục theo các căn cứ sau đây:
7
Xây dựng chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên
tục cuả sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo giai cấp và
nhân dân đánh đổ đế quốc, phong kiến, xây dựng chế độ mới, tạo điều kiện
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người. Trong suy nghĩ và nhận thức của Hồ Chí Minh
Đảng ta lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự phát triển của đất nước và của
dân tộc, Đảng thực sự là “một cơ thể sống” luôn tự hoàn thiện và vươn lên.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó, đặc biệt giữ các phẩm chất, đạo đức cách mạng tiêu
biểu.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ,
hiểu đúng và thực hành tốt các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng không thể buông lỏng việc thắt chặt công
tác kiểm tra, quản lý của cán bộ đảng viên. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng nếu
không đặt đúng vị trí, ngang tầm mà lại buông lỏng kiểm soát, quản lý thì
rất dễ làm cho bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hoá, biến chất về đạo đức
và lối sống, dẫn đến tha hoá về chính trị.
Trong điều kiện khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng lại được Hồ Chí Minh coi là công việc càng phải
được tiến hành thường xuyên hơn của Đảng. Đảng phải quan tâm tới việc
chỉnh đốn và đối mới để hạn chế, ngăn chặn đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn
do thái hoá, biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền
nhà nước.
Nhìn một cách tổng quát, theo Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng mang tính quy luật và nhu cầu tồn tại phát triển của bản thân Đảng.
Chỉnh đốn và đối mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch vững
mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
8
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, đòi hỏi
ngày càng cao, càng phức tạp nhiệm vụ cách mạng. Đối mới chỉnh đốn
Đảng sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và
tư tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền
cách mạng Việt Nam tiến về phía trước, vượt qua những khúc quanh đầy
thử thách.
1.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng cộng sản Việt nam
1. 2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam
1.2.1.1. Cuộc đời, sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh năm 1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ
An, trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước. Băn khoăn
trước những thất bại của các sỹ phu yêu nước chống Pháp, Người muốn
học hỏi, tìm hiểu con đường đấu tranh của các cuộc cách mạng ở Châu Âu,
muốn đi xem họ đã làm gì để giúp đồng bào thoát khỏi cảnh nô lệ. Từ ý chí
đó thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911.
Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, sống và hoạt động với
những người dân bị áp bức, Người đã khảo sát tìm hiểu các cuộc cách
mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng xã hội Pháp, học tập và tìm
hiểu Cách mạng Tháng Mười với chủ nghĩa Lênin. Đến tháng 7 năm 1920
Người đã tìm ra con đường giải phóng cách mạng Việt Nam, đưa cách
mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
Sau đó Người tích cực hoạt động trong Đảng xã hội Pháp, tham gia
thành lập các tổ chức để tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
Trong thời gian này Người đã nghiên cứu lí luận và thực tiễn, truyền bá tư
tưởng giải phóng dân tộc và vận động quần chúng đấu tranh xây dựng tổ
chức cách mạng chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
9
Năm 1930 Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức đảng
thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1941 Người trở về trực tiếp lãnh đạo
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hơn
80 năm đã giành thắng lợi); Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ, thống nhất nước nhà; v.v,.. vai trò lãnh đạo của Đảng là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt nam.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là sự gắn bó, cống hiến cho nền độc lập
dân tộc, cho nhân dân lao động. Cho đến giây phút cuối đời Người cũng
luôn lo lắng cho dân tộc, cho đất nước “suốt đời tôi hết lòng hết sức phục
vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế
giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không
được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[6; 38]
1.2.1.2. Cơ sở lí luận
Khi hoạt động ở nước ngoài Nguyễn Ái Quốc biết được Đảng Cộng
sản Bônsêvich và VI.Lênin đã lãnh đạo công - nông Nga nổi dậy tiến hành
cuộc cách mạng thành công. Sau đó Người tham gia hoạt động trong Quốc
tế Cộng sản. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đọc được bản sơ thảo lần thứ nhất
luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của VI. Lênin, từ đây Người
hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III.
Tháng 12 năm 1920 khi tham gia Đại hội Tua, Nguyễn Ái Quốc đã
hoàn thiện nhận thức của mình về con đường cách mạng Việt Nam, về sự
cần thiết phải có Đảng Cộng sản theo học thuyết đảng kiểu mới của Lênin
và Người tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết
hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Hai ông đã
10
nói giai cấp vô sản chỉ có thể hành động với tư cách là một giai cấp khi nó
được tổ chức thành một chính đảng riêng biệt, đủ mạnh và để có thể dành
được thắng lợi nó phải thành lập một đảng đặc biệt khác với tất cả các đảng
khác và đối lập với các đảng khác và tự coi mình là Đảng của giai cấp.
Đảng là tổ chức của những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội khoa học
chống lại những người xã hội chủ nghĩa tiểu tư sản và không tưởng. Theo
các ông đảng phải là những người liên minh chiến đấu cùng lí tưởng được
củng cố bằng sự thống nhất về tổ chức. Những người cộng sản hoàn toàn
không có lợi ích nào tách khỏi toàn thể giai cấp vô sản. Đảng phải là một tổ
chức chiến đấu của cách mạng, nhằm mục tiêu lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản thiết lập chuyên chính vô sản.
C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu lên một số vấn đề xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Theo Lênin Đảng mácxít là một bộ phận của giai cấp công nhân, là
đội ngũ tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp công nhân, là đội ngũ có tổ
chức của giai cấp công nhân, có kỷ luật, bắt buộc tất cả các đảng viên tuân
theo, là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng là sự hiện thân của
sự liên hệ giữa đội tiền phong của giai cấp công nhân với hàng triệu quần
chúng. Đảng được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có một điều
lệ duy nhất, một kỷ luật duy nhất mà tất cả mọi đảng viên và lãnh tụ đều
phải thi hành.
Như vậy C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin đã nêu lên những quan điểm
cơ bản về một chính Đảng vô sản của giai cấp công nhân. Đây chính là cơ
sở lí luận để Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.1.3. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động ở nước ngoài giúp Hồ Chí Minh thấy rằng cách
mạng trước hết phải có gì? Có Đảng cách mệnh theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Vì sao công xã Pari chỉ tồn tại trong vòng 72 ngày? Nguyên nhân chủ yếu
11
dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga là gì?. Tiếp theo là sự
ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới: Đảng Cộng sản Inđônêxia
(1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản
(1921), Đảng Cộng sản Ấn Độ (1928), Đảng Cộng sản Pháp (1920)...
Khảo sát phong trào cách mạng Việt Nam Người thấy rằng sự thất bại
của phong trào Cần Vương, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào
Đông Du, phong trào Duy Tân không phải là do nhân dân ta thiếu tinh thần
cách mạng mà thiếu một tổ chức lãnh đạo để đưa ra các chiến lược, sách
lược tập hợp toàn dân tham gia kháng chiến. Và cùng với quá trình khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp làm cho giai cấp công nhân Việt Nam phát triển
mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, nhiều phong trào đấu tranh liên tục nổ
ra từ tự phát rồi chuyển sang tự giác (phong trào đấu tranh của công nhân
đóng tàu Bason, dệt Nam Định...), tuy vậy các cuộc đấu tranh này cuối cùng
đều thất bại.
Trước thực tiễn này đòi hỏi có một tổ chức lãnh đạo phong trào cách
mạng. Nhìn thấy sự cần thiết phải có một chính Đảng để tập hợp lãnh đạo
quần chúng đấu tranh, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cả về ba mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử cách mạng Việt Nam, nó phản ánh đúng xu thế khách quan của thời
đại và điều kiện chín muồi của cách mạng Việt Nam. Chúng ta thấy rằng
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết
quả chuẩn bị chu đáo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
1.2.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn
kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam.
12
Hồ Chí Minh khẳng định: “lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng
lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”[20; 290]. Giai cấp mà không có Đảng
lãnh đạo thì không làm được cách mạng.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX Hồ Chí Minh đã đặt ra câu hỏi:
“Cách mạng trước hết phải có cái gì? Và Người khẳng định “trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”[15; 267-268]. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy, chủ nghĩa
Mác- Lênin vì đây là chủ nghĩa khoa học nhất, cách mạng nhất.
“Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất
mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí
phải kiên quyết. Vì vậy phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân
thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo, vì:
Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong
nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn.
Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hoá, xã hội cho nên Đảng
vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao
động đến thắng lợi hoàn toàn”[18; 228-229]
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp
với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng ta có mục đích tự thân, ngoài lợi
ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc
Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích
gì khác.
13
Như chúng ta đã biết, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
nêu lên luận điểm: Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội
khoa học với phong trào công nhân. Luận điểm này rất đúng và có ý nghĩa
phổ biến đối với các nước ở phương Tây. Tuy nhiên, như Việt Nam thì
luận điểm đó tỏ ra chưa phù hợp. Nước ta bị chủ nghĩa thực dân thống trị,
nền kinh tế hết sức lạc hậu, què quặt, công nghiệp gần như chưa phát triển,
giai cấp công nhân tuy đã ra đời nhưng còn rất nhỏ bé. Vì vậy phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân chưa đại diện cho toàn bộ phong trào dân
tộc. Mặt khác ở nước ta vấn đề dân tộc trở nên bức xúc đòi hỏi phải giải
quyết, do đó cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đã hoà chung với
phong trào yêu nước và các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống yêu nước và tinh thần đấu
tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Người đã
chứng kiến những phong trào yêu nước chống Pháp bị đàn áp, biết rút kinh
nghiệm thất bại của các con đường giành độc lập của các sỹ phu yêu nước
để đi tìm con đường mới cứu nước, cứu dân.
Bằng thực tiễn hoạt động cách mạng hết sức phong phú, thông qua
sự khảo nghiệm bằng chính con đường của mình đến với chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi theo con đường
mà chính mình đã trải qua từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa MácLênin, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp, giữa
phong trào yêu nước với phong trào công nhân để chuẩn bị tiến tới thành
lập Đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Như vậy sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam không những là kết quả của chủ nghĩa xã hội khoa học
kết hợp với phong trào công nhân, mà còn là sự kết hợp với phong trào yêu
nước của nhân dân ta, đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản Việt Nam.
14
Ngày 3 - 2 - 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước
ngoặt lịch sử trong cách mạng Việt Nam chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về
đường lối lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố
quan trọng quyết định hàng đầu là sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam đã được thực tế chứng minh, không có một tổ chức chính trị nào có
thể thay thế được.
Thứ nhất, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của
các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong suốt 15 năm sau ngày
thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh 1930-1931, cách mạng dân
tộc dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945, mặc
dù cách mạng có lúc bị dìm trong máu lửa. Nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam nhân dân ta đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa
phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, Cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm
đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua tìm tòi, khảo nghiệm sáng kiến của
nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình Việt Nam và bối
cảnh quốc tế mới.
15
Như vậy từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay đã 80
năm với những thành tựu mà đất nước ta đạt được càng chứng minh vai trò
lãnh đạo duy nhất của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định
hàng đầu mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1.2.3. Bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản
chất giai cấp công nhân.
Những quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ
những quan điểm của VI.Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô
sản. Ngoài ra Hồ Chí Minh còn có một cách thể hiện khác về vấn đề Đảng
của ai? Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội II của Đảng (2 - 1951). Hồ
Chí Minh nêu rõ: trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động nên nó phải là
Đảng của dân tộc Việt Nam. Năm 1953 Hồ Chí Minh viết: “Đảng Lao
động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của
cả dân tộc” và “Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là đảng của
toàn dân”[18; 230-231]. Năm 1957 Hồ Chí Minh khẳng định lại: Đảng là
đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời Đảng cũng là đội tiên
phong của dân tộc. Trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
năm 1961 Hồ Chí Minh lại khẳng định: Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là Đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên vị. Năm 1965 Hồ Chí
Minh cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong là bộ tham mưu của
giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng quan điểm nhất quán về
bản chất giai cấp của Đảng là mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng tập
hợp vào hàng ngũ của mình những người tin theo chủ nghĩa cộng sản,
16
chương trình của Đảng và quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy
sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng.
Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất gánh vác sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, giai cấp đại diện cho hiện tại
và tương lai của đất nước. Giai cấp nông dân tuy chiếm đa số và có tinh
thần cách mạng rất cao nhưng do tính phân tán tư hữu của những người sản
xuất nhỏ nên không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Chỉ có chịu sự
lãnh đạo theo đường lối của Đảng của giai cấp công nhân thì giai cấp nông
dân mới trở thành đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân trở thành lực
lượng to lớn nhất của cách mạng, mới giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh cho mình và cho toàn thể dân tộc.
Nhưng chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp
nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. “Ngay từ khi mới thành lập
Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố
dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết
phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai
cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc.
Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người
lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của
mình”[13; 152].
Quan niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà
còn là Đảng của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc có ý nghĩa to lớn
đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc do
vậy nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính
mình. Trong thành phần của mình ngoài công nhân, Đảng còn có những
người ưu tú trong giai cấp nông dân và các thành phần khác, chính vì vậy
Đảng ta khẳng định để tăng cường bản chất giai cấp công nhân Đảng luôn
gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân
17
tộc. Trong tất cả các thời kỳ của cách mạng Đảng ta đã luôn luôn chú trọng
tính thống nhất giữa hai yếu tố giai cấp và dân tộc. Sức mạnh của Đảng
không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng
lớp khác. Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của
toàn dân tộc và nhân dân lao động.
1.2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm
cốt”
Bất cứ Đảng nào cũng cần phải có lí luận để dẫn đường. Đảng phải
được trang bị lí luận tiên phong mới hoàn thành được trách nhiệm tiên
phong. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”, bởi
vì đó là lí luận tiên phong nhất ngày nay. Đó là học thuyết về sự giải phóng
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, nó cũng là
học thuyết về sự phát triển xã hội lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp
của nó là chủ nghĩa xã hội - xã hội tốt đẹp nhất ngày nay.
Hồ Chí Minh chỉ rõ phải dựa vào lí luận cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác-Lênin, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam”[15; 268]. Người khẳng định chủ nghĩa ấy là chủ nghĩa MácLênin, là “mặt trời soi sáng” cho con đường cách mạng Việt Nam, là “cái
cẩm nang thần kỳ” để giải quyết công việc cho đúng đắn.
Việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã
đưa ra bốn điều cần lưu ý: lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt không có
nghĩa là giáo điều từng câu từng chữ của Mác của Lênin mà chỉ nên nắm
những nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp luận Mác-Lênin, nắm vững lập
trường quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ
thể của cách mạng Việt Nam.
18
Thứ nhất, Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa MácLênin phải luôn luôn phù hợp với hoàn cảnh và phù hợp với từng đối
tượng.
Thứ hai, Việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin tránh giáo điều đồng
thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thứ ba, Trong quá trình hoạt động Đảng ta phải chú ý học tập, kế
thừa những kinh nghiệm của Đảng Cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải
tổng kết các kinh nghiệm tốt của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thứ tư, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa
Mác-Lênin, chống lại những quan điểm sai trái xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh đã nêu lên một chuẩn mực cho mọi người cách mạng về
sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết thành công
những vấn đề mà cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới đặt ra.
Chương 2. Nội dung xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh
trong tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin
2.1.1 Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của chính đảng cộng sản
Lênin khẳng định “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó
là học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn mĩ và chặt chẽ, nó cung
cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ
một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự
áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt
đẹp nhất, mà loài người đã tạo ra cuối thế kỉ XIX, đó là triết học Đức, kinh
tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp[23; 50]
19
Chủ nghĩa Mác theo V.I Lênin chính là nền tảng tư tưởng kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của Đảng vô sản cách mạng. Chủ nghĩa Mác là thế
giới quan, phương pháp luận cho cuộc đấu trang cách mạng của giai cấp vô
sản. Theo Người không có lý luận cách mạng thì sẽ không có phong trào
cách mạng và khi lý luận cách mạng đã xâm nhập vào quần chúng thì nó sẽ
trở thành sức mạnh vật chất to lớn
Trong khi nhấn mạnh vai trò hết sức to lớn của C.Mác, V.I.Lênin
không quên căn dặn rằng không được coi “lý luận của Mac như là một cái
gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm. Trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa
cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt. Nếu họ không muốn trở nên lạc
hậu đối với cuộc sống… Vì lý luận chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo
chung còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi. Ở Anh
không giống Pháp, ở Pháp không giống Đức, ở Đức không giống
Nga[4,232].
2.12. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là
đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất cách mạng nhất và giác
ngộ nhất cuả giai cấp công nhân
Đảng là một bộ phận của giai cấp nhưng phải phân biệt Đảng với
toàn bộ giai cấp. Theo V.I.Lênin, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội
ngũ có tổ chức chặt chẽ có giác ngộ nhất của giai cấp.
Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện trược hết trên lĩnh vực lý luận.
V.I.Lênin đã chỉ rõ “chỉ Đảng nào có một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong”[6; 32]
Vai trò tiên phong của Đảng còn được thể hiện về mặt tổ chức và sự
hành động gương mẫu của người Đảng viên trong thực tiễn. Đảng phải
được tổ chức chặt chẽ để đảm bảo là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành
động, có kỷ luật nghiêm minh.
20
Đảng là của giai cấp, nhưng không phải là toàn bộ giai cấp, không
được lẫn lộn giữa Đảng và giai cấp. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình
những người giác ngộ nhất, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao nhất trong giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tại Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (7- 1903)
V.I.Lênin khẳng định: “Không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp[2; 89]
Đảng không phải là một câu lạc bộ, Đảng thể hiện vai trò tiên phong
của mình “không phải bằng lời nói suông cho công nhân thấy rằng Đảng là
một tổ chức đặc biệt, Đảng cần phải có những con người giác ngộ, sẵn sàng
hy sinh tính mạng… biết rõ con đường mà chúng ta sẽ đi, biết sẽ khó khăn
mà chúng ta sẽ gặp[42;115]. V.I.Lênin khẳng định Đảng là “Đội tiên phong
giác ngộ nhất của giai cấp vô sản”[36; 231]
2.1.3 Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Đảng là một liên minh tự nguyện của những người cùng chung lý
tưởng và lợi ích cơ bản, của những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Thực hiện dân chủ là nhằm phát huy cao nhất
trí tuệ và mọi khả năng sáng tạo của chiến sĩ tiên phong trong Đảng. Đó là
điều kiện cơ bản bảo đảm cho đảng có trí tuệ cao nhất để làm tròn được vai
trò lãnh đạo toàn xã hội. Đảng còn là một tổ chức chiến đấu. Dân chủ trong
Đảng phải hướng tới và phải có sự chỉ đạo tập trung để đảm bảo sự thống
nhất ý chí và hành động trong Đảng.
Tập trung dân chủ là thuộc tính cơ bản của Đảng cách mạng, của giai
cấp công nhân. Nếu như mỗi Đảng viên, mỗi tổ chức của Đảng chỉ hoạt
động theo ý mình, không chú ý tới các nghị quyết của tập thể, coi thường ý
chí của đa số thì không thể có sự thống nhất hành động được. Đảng không
phải là một câu lạc bộ. Đảng sẽ bị tiêu tan nếu Đảng không là một khối
21
đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nếu Đảng chỉ là con
số cộng những tổ chức và cá nhân riêng lẻ không có mối liên hệ hữu cơ với
nhau bằng những nguyên tắc tổ chức chặt chẽ.
Tập trung là quyền lực của tập thể giao cho những người lãnh đạo để
thực hiện những ý chí của đa số. Tập trung dân chủ hoàn toàn đối lập với
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng được thực hiện, vận dụng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của
cuộc đấu tranh giai cấp, với điều kiện hoạt động và vị trí của Đảng trong
đời sống xã hội. Thiếu sự chỉ đạo tập trung dân chủ có thể trở thành vô
chính phủ. Coi nhẹ dân chủ là phá hoại tính tập thể trong lãnh đạo và sẽ
dẫn đến tình trạng quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Buông lỏng tập
trung sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, phá
hoại sự thống nhất và làm giảm sức chiến đấu của Đảng.
Từ thực tiễn và kinh nghiệm thực hiện chuyên chính vô sản của
những năm đầu của chính quyền Xô Viết ở Nga, V.I.Lênin rút ra kết luận
rằng: “chế độ tập trung tuyệt đối và kỷ luật hết sức nghiêm minh của giai
cấp vô sản là một trong những điều kiện cơ bản để chiến thắng giai cấp tư
sản”.
2.1.4. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh của Đảng. Sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cáp vô sản. Đảng chỉ
thu nhận vào đội ngũ của mình những đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động tự nguyện gia nhập Đảng. Đó là những người có cùng lý
tưởng, mục đích và lợi ích.
Trong nhiều tác phẩm của mình, V.I.Lênin đã lý giải một cách toàn
diện, sâu sắc tính tất yếu và tầm quan trọng đặc biệt là sự thống nhất trong
22
đội ngũ Đảng. Theo V.I.Lênin muốn đưa cách mạng đến thắng lợi Đảng
“phải có sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”[36; 245]
Để sự thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát triển,
Đảng cần phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê
bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát triển và giải quyết
những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính
Đảng và tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, nâng cao được mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng. Tự
phê bình và phê bình là một nội dung thường xuyên của sinh hoạt Đảng.
2.1.5. Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để
ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Đảng ta là một tổ chức tự
nguyện đấu tranh và sự nghiệp giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức và bóc
lột, nhân dân cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu
tranh ấy. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ
trương đường lối của Đảng không trở thành hiện thực.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một sự nghiệp
hoàn toàn mới mẻ và vô cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ thành công nếu
Đảng tổ chức và phát huy được tính sáng tạo cách mạng của nhân dân.
V.I.Lênin chỉ ra rằng, những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong
đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng với bàn tay những người cộng
sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo sinh
động của nhân dân đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội
không phải là những kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống. Tính
chất máy móc hành chính và quan liêu không dung hợp với tinh thần của
chủ nghĩa xã hôi, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản
thân quần chúng nhân dân.
23
Khi Đảng Bônsêvích Nga đã có chính quyền, V.I.Lênin luôn nhấn
mạnh sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với nhân dân,
từ sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Thiếu điều
kiện đó không những không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mà
còn có thể dẫn đến mất chính quyền. Khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều
điều kiện mới, công cụ mới rất thuận lợi cho việc tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng và nhân dân. Đồng thời, khi đảng viên có chức có quyền trong
Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu mệnh lệnh làm cho một bộ phận cán
bộ, đảng viên thiếu rèn luyện có thể rơi và tình trạng thoái hoá, biến chất,
xa rời nhân dân. V.I.Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà đảng
viên cầm quyền cần chú ý khắc phục.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam trong sạch vững mạnh.
2.2.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng thành một tổ chức
chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy
sức mạnh của những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ chức.
Đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Dân chủ và tập trung là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ là cơ sở
của tập trung chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tuỳ tiện, vô tổ
chức. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ chứ không phải theo kiểu quan
liêu, độc đoán, chuyên quyền.
Đối với tập trung thì phải thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành
động. Bởi vậy thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên,
mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Còn “dân
chủ” là cái quý báu nhất của nhân dân, là thành quả của cách mạng. Hồ Chí
Minh viết: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do
24
là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là nghĩa vụ của mọi
người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý lúc đó quyền
tự do tư tưởng, hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”[19; 216]
Chúng ta cần phải đặc biệt chú ý tới việc thực hiện và phát huy dân
chủ nội bộ, vì dân chủ nội bộ không được thực hiện thì làm cho trong Đảng
âm u. Tình hình ấy tập trung sẽ không tạo nên được sức mạnh của Đảng,
bởi lẽ Đảng đã bị suy yếu từ bên trong, như vậy sớm muộn sẽ không còn là
Đảng Cộng sản. Chúng ta cần phải thấy rằng dân chủ trong Đảng mới nói
đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ
dân chủ triệu lần hơn chế độ dân chủ tư bản chủ nghĩa.
Như vậy dân chủ phải đi đôi với tập trung, dân chủ để đi đến tập
trung và tập trung phải trên cơ sở dân chủ. Nếu dân chủ thiếu tập trung sẽ
dẫn đến sự tuỳ tiện vô tổ chức. Ngược lại tập trung mà thiếu dân chủ sẽ dẫn
đến độc đoán chuyên quyền.
2.2.2. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Theo Hồ Chí Minh một người
dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của mọi vấn đề, càng
không thể thấy hết mọi việc, hiểu được mọi chuyện. Vì vậy cần phải có
nhiều người tham gia lãnh đạo, nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy
rõ mặt này, người thấy rõ mặt kia do đó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề.
Sau khi công việc được đưa ra xem xét, bàn bạc của tập thể đã có kế
hoạch rõ ràng thì phải giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một
nhóm người thì cũng phải có người phụ trách chính. Có như thế mới phát
huy được tính tích cực của mỗi cá nhân, công việc nhanh chóng được hoàn
thành, tránh được thói dựa dẫm, người này ỉ lại người kia, cá nhân ỉ lại tập
thể. Nếu không có người phụ trách dễ dẫn tới tình trạng “cá mè một lứa”
không ai chịu trách nhiệm công việc sẽ bế tắc “cha chung không ai khóc”.
25