Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

TL XDĐ tư tưởng hồ chí minh đối với xây dựng đảng về tổ chức và sự vận dụng của đảng trong đường lối đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.73 KB, 55 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
-------------------------------

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG

Tên đề tài: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI XÂY
DỰNG ĐẢNG VỀ TỔ CHỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI.

Sinh viên: HỒNG VĂN KHUN
MÃ SV: 1951050072
LỚP: TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG K39 A2


HÀ NỘI 2021

Mục lục.

2


Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng
về tổ chức và sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi
mới.
Phần mở đầu.
1.

Lý do lựa chọn đề tài.
Một Việt Nam đang gặt hái được nhiều thành công, thành tựu


trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đó là nhờ
sự lãnh đạo, nhất quán của Đảng cộng sản Việt Nam tới những
cán bộ, tổ chức, nhân dân làm việc có hiệu quả. Từ đó nâng tầm
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đảng cộng sản Việt Nam
- chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam, ra đời mang bản
chất giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của
cánh mạng bảo vệ tổ quốc, xây dựng đổi mới đất nước Việt Nam
và sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam là do thời đại,
giai cấp và dân tộc quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Xây
dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn với quá trình phát triển liên tục
của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của
điều kiện khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi
mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng giữ một vị trí đặc
biệt quan trọng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh khơng ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện
Đảng ta thành một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu
cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng
đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân.

3


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải ln là một khối đồn
kết, thống nhất về mọi mặt, trong đó sức mạnh của Đảng chính là
sức mạnh của tổ chức chặt chẽ, có tính kỷ luật cao từ Trung ương
đến cơ sở, từ các cơ quan nhà nước đến các đồn thể chính trị xã hội. Do đó, xây dựng Đảng về tổ chức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là nhằm tạo ra sự khoa học, đồng bộ, thống nhất trong hệ

thống chính trị, bảo đảm tổ chức bộ máy phải tinh gọn, hiệu quả,
luôn đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp thực tiễn: “Chính quyền và
đồn thể (Đảng) cũng cần thường xuyên rửa các bộ máy của
mình, để tẩy trừ những phần tử bất chính, đầu cơ và chỉnh đốn lại
cách làm việc cho gọn gàng, mau chóng”. Trong đó, Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Đảng không
bao biện, làm thay Nhà nước; mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị
phải phát huy một cách tự giác, đầy đủ nhất vai trò của mình. Vì
thế, cơng tác xây dựng Đảng về tổ chức có mối liên hệ gắn bó,
khơng thể tách rời với hệ thống chính trị, với việc nâng cao chất
lượng của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Nội dung xây dựng Đảng về tổ chức đều được khẳng định
trong văn kiện mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Thời kỳ đổi mới, đứng
trước yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng, địi hỏi cả hệ
thống chính trị cần phải đổi mới hoạt động của Đảng theo hướng
bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả gắn với việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng,
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: “Tiếp tục
đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh
gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành…
Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ
hệ thống chính trị.

4


Vậy nên đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng
về tổ chức và sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới” là
đề tài luôn được quan tâm và được thể hiện rõ ràng trong sự tiếp

thu tư tưởng ở mỗi cấp, mỗi tổ chức.
2.

Mục đích nghiên cứu đề tài.
Tìm hiểu, phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây
dựng Đảng về tổ chức và sự vận dụng của Đảng trong đường lối
đổi mới.

3.

Nhiệm vụ cần làm rõ.
Những khái niệm liên quan, lý luận và thực tiễn hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng đảng về tổ
chức.
Đảng ta vận dụng đổi mới trong công tác xây dựng Đảng về
tổ chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. (Sự vận dựng của Đảng trong
đường lối đổi mới)

4.

Đối tượng luận.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức và
sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới.

5.

Phương pháp luận đề tài.
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp luận dựa trên những
quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh. Kết

hợp với đó là những quan điểm tư tưởng về cách mạng về chính
trị về Đảng và tổ chức của các ban ngành cán bộ lãnh đạo chính
trị đất nước. Góc nhìn của tác giả tham gia viết qua những phân
tích và ví dụ.

5


Phần nội dung.
Chương 1: Những khái niệm liên quan đến đề tài, lý
luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với xây dựng Đảng về tổ chức.
1.1 khái niệm liên quan.
Xây dựng đảng là gì? Là tồn bộ các hoạt động xây dựng nơi
bộ đảng cộng sản nói chung, Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và phương thức lãnh đạo
của Đảng nhằm xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững mạnh;
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thực hiện
mực tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ? là hệ thống những
khái niệm, quan điểm, luận diểm của Hồ chí Minh về các hoạt
động xây dựng nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, đạo đức và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm
xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thực hiện mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng về tổ chức? là Xây dựng hệ thống tổ chức, cơ
cấu bộ máy của Đảng từ cấp uỷ đến các ban Đảng, từ cơ sở đến
Trung ương đúng theo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng;
Xây dựng đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ; Xác định đúng đắn

mối quan hệ và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân; xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội; Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng Đảng về tổ chức là nhằm tăng cường sức mạnh
của các tổ chức cơ sở Đảng nói riêng và tồn Đảng nói chung.
6


Muốn vậy, phải kiện toàn tổ chức đảng và nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên mà hàng đầu là rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo
đức cách mạng chí công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân; chú
trọng công tác cán bộ. Đảng phải là một tổ chức chính trị trong
sạch, vững mạnh; một tổ chức chiến đấu kiên cường, một tổ chức
với đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với lý tưởng
của Đảng, của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, tận tâm,
tận lực phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân;
Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng phải chọn lực những người rất trung
thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh
đạo”. Đảng là một tổ chức coi trọng chất lượng hơn số lượng,
thường xuyên quan tâm xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và cầm quyền của
Đảng và sẵn sàng đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tiêu
chuẩn : “ Đảng phải luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngồi”.
1.2 Lý luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với xây dựng Đảng về tổ chức.
Hồ Chí Minh và sự tiêu biểu cho mọi hoạt động tổ chức Đảng.
Cần cù lao động, anh dũng chiến đấu dựng nước và giữ nước,
đồn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Tất cả tạo nên
một truyền thống cho những điều tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Con đường cách mạng, hoạt động cách mạng đến những kinh
nghiệm bài học xuyên xuốt dòng chủ lưu lịch sử dân tộc và mãi
mỗi thế hệ đều phải học tập và làm theo. Tư chất thơng minh, tư
duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới,
phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng. Giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa
nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống
phức tạp; tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành
7


những luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên nền tảng
tư tưởng vững chắc và truyền bá, hình thành xây dựng Đảng về tổ
chức cho cách mạng Việt Nam. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của
các nhà khoa học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại.
Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã để lại những
luận điểm rất quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng
trong tình hình mới.
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách
mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường
lối đúng đắn, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết

phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình
kinh tế - xã hội và giai cấp ở Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong Cách mạng Việt Nam, tổ
chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.

8


Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính
đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai
cấp cơng nhân, có khả năng đồn kết “tập hợp”, “lơi kéo” các
tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ Đảng
cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung
thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc”, “ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng
ta khơng có lợi ích gì khác”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào cơng nhân và phong trào u
nước.
Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết “Chủ
nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông
Dươngvào đầu năm 1930”. Điều này thể hiện hai mặt gắn bó với
nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm vững quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để vận

dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc. Người khẳng định: không phải mọi người yêu nước
đều là cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng
sản lại là điều kiện cần thiết để xác định được mục tiêu yêu nước
đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết phải là người yêu
nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo công
nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của
Đảng.
Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân

9


tộc”, Hồ Chí Minh khi thành lập Đảng đã xác định tên Đảng là
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong
trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận
điểm của Người về việc gắn Đảng với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước, gắn giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng
đắn.
Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân,
đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng
sản, Hồ Chí Minh cịn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt
Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951), Người đã khẳng định: “Trong giai

đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là
Đảng của dân tộc Việt Nam” 1. Năm 1961, luận điểm đó được
Người nhắc lại: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của
dân tộc, Người đã hiều rõ vai trị lãnh đạo cách mạng của giai cấp
cơng nhân, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái như
không thấy rõ vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân,
hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các
tầng lớp, giai cấp khác đi với cơng nơng tạo thành sức mạnh to
lón của khối đại đoàn kết toàn dân.

10


Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp cơng nhân của
Đảng không phải chỉ ở số lượng Đảng viên xuất thân từ công
nhân, mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa
Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc
tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm
cốt”.
- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu
bằng một câu của Lênin: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng
có cách mệnh vận động…chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền
phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền

phong”. Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm nịng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người
khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa
Lênin: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nịng cốt” theo Hồ Chí Minh
khơng có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm
vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường,
quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời
thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.
Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những
nguyên tác của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.

11


V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới
để phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã
tiếp thu những nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra
những nguyên tác xây dựng Đảng cụ thể.
Để thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, Đảng phải thực sự là đại biểu về danh dự, lương tâm, trí tuệ
của dân tộc. Sự vững mạnh về tổ chức hoạt động của Đảng là
điều kiện cơ bản, bảo đảm chắc chắn nhất cho một Đảng vững
mạnh, nhận được lòng tin lớn lao của nhân dân như vậy. Điều đó
giải thích vì sao Đảng ta ln xem xây dựng Đảng về tổ chức là

hoạt động quan trọng, thường xuyên quan tâm hàng đầu của
Đảng.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng công tác
xây dựng Đảng về tổ chức, đã tập trung chỉ đạo từ mỗi Đảng viên
đến nhân dân thực hiện cuộc cách mạng phát triển đất nước và
đạt nhiều kết quả to lớn. Nhờ đó, Đảng ta từng bước trưởng thành
qua các thời kỳ cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng
Đảng và lãnh đạo tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đạt thành
tựu to lớn. Tuy nhiên, cơng tác xây dựng trong tổ chức Đảng vẫn
cịn những yếu kém và nổi lên những vấn đề cấp bách phải giải
quyết. Điều này đã được Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ ra. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ Tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa
XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra
mục tiêu: “Phải tạo được chuyển biến rõ rệt, khắc phục được
những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm
xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày
12


càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng
và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện
thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng.”

Chương 2: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xây dựng
đảng về tổ chức.
2.1 Trong tổ chức, Đảng Cộng sản Việt Nam phải được
xây dựng theo những nguyên tắc của đảng kiểu mới của

giai cấp vô sản.
Một là, tập trung dân chủ. Tập trung và dân chủ là hai mặt
của một nguyên tắc, quan hệ mật thiết với nhau, mặt này nương
tựa và là điều kiện của mặt kia.
Tập trung trên nền tảng dân chủ. Hồ Chí Minh lý giải vấn đề
tập trung trong Đảng là: thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, bộ phận phục tùng đoàn thể, tất cả đnagr
viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đản. Đảng tuy
nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh tập trung phải trên nền tảng dân chủ, phải chú ý
thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người cho rằng “phải thực
sự mở rộng dânc hủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của

13


mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương
chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt.
Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Dân chủ là của quý
báu nhất của nhân dân, là thành quả, mục tiêu, động lục của cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh “Chế độ ta là chế dộ dân chủ, tư tưởng
phải tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do
bày tỏ ý của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi
và cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát
biểu ý kiên, đã tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra
quyền tự do phục tùng chân lý.
Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Vì sao cần phải có tập
thể lãnh đạo? Vì một người dù có khơn ngoan tài giỏi đến mấy, dù
kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, xem xét được một
hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét

tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người để
có nhiều kinh nghiệm, xem xét được khắp mọi mặt, và vấn đề ấy
mới được giải quyết chu đáo, tránh khỏi sai lầm. Viêc gì đã được
đơng người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì
mới phải giao lại cho một người hoặc cho một nhóm ít người phụ
trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới chuyên trách,
công việc mới chạy. Nếu khơng có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra
cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho ngươi nọ, kết
quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng khơng xong.
“Tập thẻ lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với
nhau”. Trong khi thực hiên nguyên tắc này tránh máy móc, bao
biện độc đốn, chủ quan, dựa dẫm vào tập thể.
Hai là, tự phê bình và phê bình. Phê bình và tự phê bình là vũ
khí sắc bén, là quy luật phát triển Đảng, là nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, là thang thuốc hay nhất để chữa các bệnh trong Đảng.
14


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có
thiện và ác ở trong lịng”, “Người đời khơng phải thánh thần,
không ai tránh khỏi khuyết điểm”. Mặt khác, Đảng từ trong xã hội
mà ra nên cũng không tránh khỏi những cái xấu xa của xã hội bên
ngoài lây ngấm vào; trong đảng “không phải là người đều tốt, việc
việc đều hay”.
Mục đích của việc phê bình tự phê bình là “cốt để giúp nhau
sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt
hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Là một biếu
hiện của dân chủ, đồng thời giữ uy tín của đảng và người lãnh
đạo. Thái độ phê bình và tự phê bình là “triệt để, thật thà, khơng
nể nang, không thêm bớt”. Cần một cái tâm trong sáng: phê bình

“khơng phải để soi mói, khơng mỉa mai, nói xấu”, khơng được trù
dập người phê bình. “Phải có tình dồng chí yêu thương lẫn nhau”.
Phải thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh. Mỗi cán bộ, đnagr
viên hằng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi
ngày phải rửa mặt. Được như vậy thì Đảng sẽ khơng có bệnh mà
Đảng sẽ mạnh khỏe vơ cùng.
Ba là, kỷ luật nghiêm chỉnh và tự giác. Nghiêm chỉnh là
thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật của Đảng là đối với mọi đảng viên,
không phân biệt lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ,
đảng viên đều bình đảng trước kỷ luật Đảng. Tự giác là thuộc về
mỗi cá nhân đảng viên đối Đảng – một tổ chức của những người
tự nguyện đứng trong hàng ngũ vì nhiệm vụ chung, mục tiêu lý
tưởng của đảng. Trên cơ sở nhận thức về mục tiêu, lý tưởng sứ
mệnh lịch sử Đảng, quần chúng vào Đảng là tự nguyện, Đảng
không ép buộc ai vào Đảng. Vì vậy, việc tuân thủ kỷ luật của
Đảng cũng phải tự giác. Về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ :
“Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ
15


đối với Đảng”. Kỷ luật nghiêm minh, tự giác trước hết được thể ở
chỗ chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ
theo các nguyên tắc tổ chức, lãnh đọa và sinh hoạt Đảng, các
nguyên tắc xây dựng Đảng, kỷ luật đảng. Đây là yêu cầu cao nhất
của kỷ luật Đảng. Kỷ luật này tạo điều kiện để Đảng thống nhất
về tư tưởng và hành động.
Kỷ luật của Đảng cịn thể hiện ở chỗ nói và làm theo đúng
nghị quyết của Đảng, không được phát ngôn bừa bãi. Tuân thủ kỷ
luật của Đảng gắn liền với việc nghiêm túc chấp hành pháp luật
nhà nước và kỷ luật của đồn thể. Trên thực tế, có một số trường

hợp đảng viên, cán bộ lợi dụng quyền lực, tự coi mình là nhà
nước. người của Đảng dẫn đến một số một số biểu hiện hư hỏng,
hành động vô tổ chức, vơ chính phủ. Đã là cán bộ, đảng viên thì
khơng được cho phép mình coi thường kỷ luật các đồn thể, đứng
ngoài, đứng trên pháp luật Nhà nước cho phép. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh rằng: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ
luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn
thể nhân dân và của những cơ quan chính quyền cách mạng.
Đảng viên thi hành tốt kỷ luật của các đoàn thể và chấp
hành nghiêm pháp luật của Nhà nước là sự khẳng định đọa lý
“đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, đồng thời đó cũng là
một thước đo uy tín của Đảng, chỉ rõ Đảng ta là một Đảng chân
chính của cách mạng.
Bốn là, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Nhờ
đoàn kết chặt chẽ, một lịng mơt dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay,
Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái
đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn Đảng phải
16


thống nhất ý chí và hành động, phải bảo vệ sự đồn kết thống
nhất của tồn Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Sự
đồn kết thống nhất trong Đảng, đặc biệt là sự đoàn kết thống
nhất của cán bộ lãnh đạo là nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn
kết thống nhất trong nhân dân và đoàn kết quốc tế.
Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng
là dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đường lối, quan
điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước và được

vận dụng có lý có tình. Cách thức để xây dựng sự đồn kết thống
nhất trong Đảng là thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để đảng
viên tham gia bàn bạc đến nơi đến trốn những vấn đề hệ trọng
của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình; thường xuyên
tu dưỡng đạo đức cách mạng, chúng chủ nghĩa cá nhân. Thơng
qua cơng tác thực tiễn để thực hiện đồn kết và sức mạnh đoàn
kết và sức mạnh đoàn kết là động lực để hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng.
Năm là, Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan
hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Đảng lãnh đạo để đưa cách mạng
Việt Nam đến thắng lợi, đem lại độc lập tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Vì vậy, Đảng pahir làm trịn sứ mệnh của mình vừa là
người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành cùa nhân dân. Hồ
Chí Minh viết về lãnh đạo: “Lãnh đạo là làm đầy tớ cho nhân dân
và phải làm cho tốt”. Sự lãnh đạo của Đảng phải đặt trong mối
liên hệ với chế dộ dân chủ, Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất
cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến
xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào – đều phải là đầy tớ trung thành
của nhân dân”. Quyền lực chính trị của Đảng càng lớn thì trách
nhiệm phục vụ nhân dân càng cao, nhất là từ khi Đảng trở thành
Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân làm chủ.
17


Đảng khơng có quyền lợi của riêng mình ngồi quyền lợi của giai
cấp, của Tổ quốc, dân tộc.
Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với dân. Đảng phải lấy dân làm gốc. Biết ý kiến của
dân chúng, tức là phải lắng nghe ý kiến của nhân dân. Khiêm tốn
học dân chúng nhưng không theo đuôi dân chúng. Nâng cao dân

chúng tức là nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Hồ Chí
Minh dân chúng rất khơn khéo, hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy,
phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng. Phải phụ trách trước
Đảng và Chính phủ, đồng thời phụ trách trước nhân dân. “Mà phụ
trách trước nhân dân nhiều hơn trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng
và Chính phủ vì dân mà làm việc, phục vụ cho nhân dân, đưa
nhân dân đi lên phát triển tốt đẹp, và cũng phụ trách trước nhân
dân. Vì vậy nếu cán bộ khơng phu trách trước nhân dân, tức là
không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, và tức là đưa nhân dân
đối nghịch với Đảng và Chính phủ”, kìm hãm sự phát triển của
dân tộc.
Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân tức là làm theo
cách quần chúng với các nguyên tắc sau:
-

Việc gì cũng phải học hỏi bàn bạc với dân chúng, giải thích cho
dân chúng

-

Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và
tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa
nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là
khơng hợp thì để hộ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiên của dân
chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.

-

Không đi theo mãi những cái cũ, ln phải tình hình thiết thưc của
dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng,


18


theo sự tình nguyện của dân chúng àm tổ chức họ, tùy hồn cảnh
thiết thực trong nói đó và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
-

Chúng ta tuyệt đối khơng theo đi quần chúng.

-

Đưa chính trị vào quần chúng.
Chăm lo mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân là một
đòi hỏi khách quan vừa là yêu cầu của cách mạng vừa là nhu cầu
của chính bản thân Đảng. Bởi vì theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân
dân nhiều tai nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe cũng thấy. Họ khôn
khéo, hắng hái, anh hùng; bao nhiêu quyền hành, lực lượng, của
cải đều ở trong dân. Dân rất tốt, từ ngày có Đảng, họ một lịng
theo Đảng, chở che, đùm bọc, bảo vệ Đảng, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng. Kinh nghiệm trong nước và thế giới,
xưa và nay cho thấy, có lực lượng dâm chúng, được dân chúng
đồng lòng, ủng hộ, giúp đỡ việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng
làm được. khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, nhanh chóng, đầy
đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ khơng ra
được. “dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu
cũng ra”. Hồ Chí Minh khẳng định “Giữ chặt mối liên hệ với dân
chúng và luôn lắng tai nghe ý kiên của dân chúng, đó là nền tảng
lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa

dân chúng, khơng liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng
lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
2.2 Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của Đảng Cộng sản.
Thực chất của nguyên tắc này chính là nhằm nâng cao tính
tích cực và năng lực sáng tạo của đảng viên, để các quyết định
của Đảng luôn là sản phẩm kết tinh bởi trí tuệ tập thể và bảo đảm

19


tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ chức đảng và đảng viên khi ý chí
của đa số được khẳng định và bắt buộc phải phục tùng.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln khẳng định và kiên trì thực hành ngun tắc tập trung
dân chủ
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đó là nguyên tắc chỉ
đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, vừa
bảo đảm cho Đảng có sự thống nhất về ý chí và hành động, vừa
phát huy được dân chủ trong Đảng, tạo nên sức mạnh to lớn của
Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn khẳng định tập trung
dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
Đảng; phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành do Đại hội XI của
Đảng (năm 2011) thông qua nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt
chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời

thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đồn kết trên
cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với
nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật”.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được quy định tại Điều
9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam:
-

Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

20


-

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên...

-

Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới...

-

Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân
phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội

đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

-

Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi
hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán
thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến
của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo
lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với
đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

-

Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn
của mình, song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp
trên”

Đảng Cộng sản Việt Nam ln khẳng định và kiên trì thực
hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là do, trước hết, xuất phát
từ bản chất của Đảng và từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin xác định, Đảng Cộng sản là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân, là
21


đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công

nhân. Đảng chỉ kết nạp vào trong đội ngũ của mình những người
ưu tú nhất, tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Làm cách mạng để tự giải
phóng và để cải tạo xã hội cũ xấu xa thành xã hội mới tốt đẹp... là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ”.
Cách mạng muốn thắng lợi, “Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy”. Để xây dựng Đảng vững mạnh, trước hết phải xây
dựng Đảng vững mạnh về tổ chức. Tổ chức của Đảng từ Trung
ương đến địa phương phải thật chặt chẽ, thống nhất, có ý thức kỷ
luật cao. Đồn kết là sức mạnh của Đảng, còn kỷ luật của Đảng là
một điều kiện, nhân tố quan trọng để giữ vững sự đoàn kết, thống
nhất về ý chí và hành động, nâng cao khả năng lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết chặt
chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, hai điều đó khơng thể tách rời nhau
trong nội bộ Đảng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ
luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.
Bởi nhiệm vụ lịch sử của Đảng rất nặng nề, phức tạp, lâu dài, ln
phải đấu tranh với các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá
Đảng và chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng phải được xây dựng một
cách tập trung với sự thống nhất về tổ chức và hoạt động, đồng
thời giữ vững kỷ luật nghiêm minh thì mới đủ sức hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử vẻ vang.

22



Xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế; từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế cho thấy, chế độ tập trung dân chủ trong Đảng chính là
nguồn gốc tạo ra sức mạnh của Đảng về mặt tổ chức, là điều kiện
bảo đảm cho Đảng giữ vững sự thống nhất về ý chí và hành động.
Luận giải về vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đều khẳng
định, nguyên tắc này có tác dụng quan trọng đối với việc nâng
cao tính tích cực và sáng kiến của đảng viên trong cuộc đấu tranh
cách mạng vì sự nghiệp của Đảng, để các quyết định của Đảng
trở thành sản phẩm trí tuệ tập thể của tất cả các đảng viên và
của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, làm tăng thêm tính kỷ luật,
tính tự giác vơ sản của Đảng. Dân chủ trong Đảng hoàn toàn đối
lập với dân chủ hiểu theo quan điểm của chủ nghĩa cơ hội. Nếu
các phần tử cơ hội chủ nghĩa núp dưới chiêu bài “dân chủ” để tấn
công vào chế độ tập trung và âm mưu đòi tự do bè phái trong
Đảng, thì ngược lại, những người cộng sản đấu tranh để thực hiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của
đảng viên, giáo dục cho đảng viên có ý thức làm chủ trong Đảng.
Tập trung trong Đảng là biểu hiện của sự lãnh đạo tập thể, bảo
đảm cho các chủ trương của Đảng được đúng đắn, trên cơ sở tập
trung được kinh nghiệm và ý kiến của mọi đảng viên, hạn chế
được những sai lầm chủ quan, phiến diện, tránh được những hiện
tượng độc đoán, chuyên quyền. V.I. Lê-nin viết: “Chế độ tập trung
dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ
nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vơ chính phủ”;
“Khơng có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ
với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khn máy móc”. Lê-nin


23


khẳng định, đây là nguyên tắc tổ chức duy nhất đúng của đảng vô
sản kiểu mới, là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng chân
chính của giai cấp cơng nhân với các đảng phái khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải bản chất của tập trung dân chủ:
“Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu
thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ
quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân
và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ
Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa
dân chủ vừa tập trung”. Tập trung và dân chủ là hai mặt thống
nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm
cho dân chủ được thực hiện trong khn khổ, có sự kiểm soát;
dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả
cao trong lãnh đạo và quản lý. Vì vậy, cần phải có sự kết hợp một
cách đồng bộ, chặt chẽ việc bảo đảm cả hai yếu tố này trong hoạt
động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý nhà nước. Dân chủ
phải được bảo đảm bởi tập trung và tâp trung phải dựa trên cơ sở
dân chủ. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà khơng mở rộng dân
chủ thì sẽ tạo mơi trường cho phát sinh cửa quyền, tham nhũng.
Ngược lại, khơng có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất sẽ dẫn đến
tình trạng tùy tiện, vơ chính phủ, cá nhân chủ nghĩa.
Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể
lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Một người dù tài
giỏi bao nhiêu cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề,
càng không thể hiểu được cặn kẽ mọi việc, hiểu hết được mọi
24


chuyện. Vì vậy, để lãnh đạo được sát, được đúng, cần phải có sự
tham gia đóng góp ý kiến của nhiều người, giúp chỉ ra được các
mặt của vấn đề, qua đó, sẽ hiểu vấn đề một cách tồn diện và vì
vậy, mới có thể lãnh đạo thành cơng trong việc giải quyết vấn đề
đó. Khi tập thể đã bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì
giao cho một người phụ trách chính. Làm như vậy, kế hoạch mới
được thực hiện đầy đủ, không bị chồng chéo, tránh dựa dẫm, cơng
việc sẽ đạt kết quả cao, có cơ sở để biểu dương những người làm
giỏi, phê bình những người làm kém, xác định rõ trách nhiệm của
từng cá nhân. “Lãnh đạo khơng tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao
biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách khơng
do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vơ chính phủ. Kết
quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Phải tránh dân chủ theo kiểu tùy
tiện, phân tán, vơ tổ chức và hình thức. Như thế là rất nguy hại,
làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi tổ chức
đảng.
Sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và các
nước Đơng Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực
hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng
sản. Một số nước nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng
nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt
các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước
lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vơ chính

phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ đã làm tổn hại đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, cản trở sự phát triển của các nước đó.
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến
nay, trải qua hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản
25


×