Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

PHÂN TÍCH Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG. LIÊN HỆ THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.61 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ I

TÊN TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
NGUYỄN HỮU HOÀI NAM
Lớp: LQC63LT1
Mã sv: 820549
Khoa: Kinh tế
Khóa năm: 2023 - 2024

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: VŨ PHÚ DƯỠNG

Hải Phòng - 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Mục đích nghiên
cứu........................................................................................2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................2
NỘI DUNG..........................................................................................................2
I: Các khái niệm...................................................................................................2
II: Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái


riêng.............................................7
III: Ý nghĩa phương pháp luận.............................................................................7
IV: Thực tiễn vấn đề hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của học sinh tiểu
học ở địa phương hiện
nay........................................................................................................................9
V:Áp dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong hoạt động
phát triển phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học ở địa phương em hiện
nay......................................................................................................................11
KẾT LUẬN........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................15


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiện nay, con người là nguồn nhân lực yếu tố quan trọng và lâu dài hàng đầu,
quyết định đến sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Chúng
ta phải khẳng định rằng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát
triển kinh tế xã hội.
Với quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp trồng người ngay
từ khi là các mầm non của đất nước phải đước quan tâm và đào tạo để có thể có
một nền móng vững chắc trong quá trình phát triển đất nước để tạo ra những
con người có tri thức và đạo đức”. “Và mỗi cá nhân, gia đình, nhà trường như
xã hội có vai trị quan trọng trong hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của
học sinh các cấp của nước ta đặc biệt vấn đề được quan tâm hơn cả là cấp giáo
dục tiểu học. Khi mà các em bắt đầu tiếp xúc với các kiến thức xã hội ”.
Theo quan điểm của triết học Mác –Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại
trong khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện
lại, cái riêng là cái không lặp lại. Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi

một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng sẽ không mất
đi, mà nó vẫn cịn tồn tại ở nhiều cái riêng khác”. Để tìm hiểu rõ hơn về vai trị
của mối quan hệ của cái chung và cái riêng nên em chọn chủ đề: “Vận dụng
mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung .”
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và
1


cái riêng trong pháp biện chứng duy vật của Mác – Lênin để làm rõ phát triển
phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học ở Việt Nam hiện nay đối với xã hội
trong tương lai của các em học sinh, đồng thời vai trị của gia đình, nhà trường
và xã hội tỏng việc thúc đẩy để trẻ em phát huy được các phẩm chất tốt, năng
lực cần có của công dân tốt cho xã hội mai sau.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nêu được các cơ sở lý luận liên quan đến vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa cái chung và cái riêng của tiết học Mác-Leenin
+ Nêu thực tiễn trong hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của học sinh
tiểu học ở Việt Nam hiện nay
+ Vận dụng các quan điểm và mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và
cái riêng của tiết học Mác-Lênin vào trong hoạt động phát triển phẩm chất năng
lực của học sinh tiểu học ở Việt Nam hiện nay
NỘI DUNG
I. Các khái niệm
“Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự
kiện, sự vật, hiện tượng rất khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình
dáng, kích thước,.. nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc
điểm, thuộc tính chung giống nhau.
+ Cái riêng là phạm trù triết học dung dể chỉ một sự vật, hiện tượng, một

2


quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan”.
+ Ví dụ: ngơi nhà, cái bản, hiện tượng ơ nhiễm mơi trường, q trình
nghiên cứu thị trường của một công ty “Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy
nó chứa đựng trong các cấu trúc sự vật khác. Tinh chất này được diễn đạt bằng
khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dung để chỉ
những nét , những mặt, những thuộc tỉnh chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất
định và không lặp lại ở kết cấu vật chất khác. Tính cách của một người, vân tay,
nền văn hóa của một dân tộc .... là những cái đơn nhất. Như vậy, cái đơn nhất
không phải là một sự vật, một hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng.
Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung
khơng những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay q trình riêng lẻ khác”.
Ví dụ: Cái chung của người Việt Nam là có một lịng lồng nàn yêu nước,
tỉnh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của
nước nhà.
+ “Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của cơng nhân
làm thuê.
+ Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc
tính ... chỉ có ở một sự vật mà khơng lặp lại ở sự vật khác”
Ví dụ: “Đều là cây nhưng sao mỗi loại cây lại đặc điểm khác nhau. Chẳng
hạn đều là hồng đỏ có mùi hương thoang thoảng, hoa hồng vàng có mùi hương
thơm ngát, hoa hồng xanh mùi hương gần gũi, kiêu sa”.

* Phân biện cái chung bản chất và cái chung không bản chất:
Khái niệm: “Cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp
3



mà có Có thể như cái chug bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy
vật là vật chất ln vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái
chung.
Tính chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều
quá trình vật chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ
qua lại , gắn liền với nhau”.
Ví dụ: Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái
khác tiến bộ hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách
mạng tư sản , cách mạng dân tộc dân chủ), đó là những cái riêng.
+ “Cịn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật
hiện tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng
nào đó”. “Ví dụ: Cái chung của các loại cây là q trình quang hợp, hơ hấp,
trao đổi chất với mơi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà không có
những đặc điểm đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung
bản chất chính là tình cảm, mối quan hệ với gia đình, xã hội.”
II. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
“Những nhà nghiên cứu triết học Mác - Lenin đề cập đến có hai quan điểm
trái ngược nhau về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”, đó là phái duy
thực và phát duy danh. Triết học Mác - Lênin cho rằng, cả quan niệm của phái
duy thực và phái dư danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái
chung, tuyệt đối hóa cái riêng phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại.”
Phái duy thực
“Phải duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng , theo phái này thì cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua,
4


khơng phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có cái chung mới tồn tại vĩnh viễn, thật

sự độc lập với ý thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào cái riêng,
mà còn sinh ra cái riêng. Cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh
những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra”.
Chủ nghĩa duy thực, hay chủ nghĩa hiện thực trong triết học là niềm tin rằng
hiện thực của chúng ta, hoặc vài khía cạnh của nó, là độc lập về mặt bản thể với
nhận thức, đức tin, hệ hình, ngơn từ,... Chủ nghĩa hiện thực có thể nói tới khi
xét tới tâm thức tha nhân, quá khứ, tương lai, tính phổ quát, các thực thể toán
học (như số tự nhiên), các lãnh vực đạo đức, thế giới vật chất, và tư tưởng. Chủ
nghĩa duy thực cũng có thể xem xét như cách nó đối lập với chủ nghĩa hoài
nghi và chủ nghĩa duy ngã. Các triết gia đi theo phái này khẳng định rằng chân
lý chứa đựng trong sự tương ứng của tâm trí với thực tại. Họ có xu hướng tin
bất cứ điều gì chúng ta tin hiện giờ chỉ là một ước lượng về hiện thực và rằng
tất cả những quan sát mới đem chúng ta gần hơn tới việc hiểu biết hiện thực.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh là biểu hiện đặc
thù của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong triết
học Tây Âu thời trung cổ.
Phái duy danh
“Phái duy Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái
chung là những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì
trong hiện thực. Quan điểm này khơng thừa nhận nội dung khách quan của các
khái niệm.
Những khái niệm cụ thể đơi khi khơng có ý nghĩa gì trong cuộc sống
của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm

5


hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhịa và
con người khơng cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm
triết học nữa.

Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhịa và
con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm
triết học. Cả hai quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở
chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận
cái chung hoặc ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối
liên hệ khăng khít giữa chúng.
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx - Lenin cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ
với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những
mặt, những thuộc tính chung khơng những có ở một kết cấu vật chất nhất định,
mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác”.

Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng: “Cái chung chỉ tồn tại
trong cái riêng , thông qua cái riêng . Cái riêng chi tồn tại trong mỗi liên hệ đưa
đến cái chung. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung. Bất cứ cái chung nào
cũng là (một bộ phận , một khía cạnh , hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ
cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất
cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”. Lê – nin
Cụ thể là:
“Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà
6


biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là khơng có cái chung thuần túy tồn tại bên
ngồi cái riêng. Chẳng hạn, khơng có sinh viên nói chung nào tồn tại bên cạnh
sinh viên ngành kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển... nào cũng
phải đến trường học tập, nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường.
Hay như quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung,
khơng thế thì khơng phải là nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể hiện ra

ngoài dưới những biểu hiện của các nhà tư bản ( cái riêng ). Rõ ràng, cái chung
tồn tại thực sự nhưng không.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì
ngồi những đặc điểm chung, cái riêng cịn có đơn nhất . Cái chung sâu sắc hơn
cái riêng, vì cái chung phản ánh những thuộc tính , những mối liên hệ ổn định,
tất nhiên, lặp lại nhiều cái riêng cùng loại.
Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng
tồn tại và phát triển cảu cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái chung và cái
đơn nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất , hình thành nên chiều sâu của sự
vật, còn cái riêng là cái tồn bộ vì nó là tập thể sống động, trong mỗi cái riêng
luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất.
Nhờ thế, giữa những cái riêng ln có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua
lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự và chạm giữa những cái riêng vừa làm
cho những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa
bởi cải đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung
có thể được phát hiện ...
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong q
trình phát triển của sự vật. Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới không bao
7


giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau
theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái
phổ biến.
Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù
hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự
chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện cái mới ra đời thay thế
cái cũ. Đồng thời sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện
của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định, bị thay thế bằng cái mới.

Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương
đối. Có những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất nhưng xét
trong nhóm sự vật khác lại là cái chung.”
“Trong q trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện
nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có
thể biến thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và
cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất”.
Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không hề
đơn giản, Lênin đã cho rằng: “Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện
chứng của cái riêng và cái
chung” Lê – nin
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất:
+ Cái chung khơng tồn tại trừu tượng bên ngồi những cái riêng; trái lại, cái
chung chỉ tồn tại trong mỗi cái riêng, biểu hiện thơng qua mỗi cái riêng.
Vì vậy, để nhận thức cái chung có thể dùng phương pháp quy nạp từ việc
nghiên cứu nhiều cái riêng.
8


Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp
có thể rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh
tế.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; khơng có cái riêng tồn
tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
Vì vậy, để giải quyết mỗi vấn đề riêng không thể bất chấp cái chung, đặc biệt
là cái chung là cái thuộc bản chất, quy luật phổ biến.
Ví dụ, khơng có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệpmà lại
không tuân theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh tranh...).
Nếu doanh nghiệp nào đó bất chấp các ngun tắc chung đó thì nó khơng thể

tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng.
Vì vậy, chẳngnhững việc giải quyết mỗi vấn đề riêng khơng thể bất chấp cái
chung mà cịn phải xét đến cái phong phú, lịch sử khi vận dụng cái chung.
Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết
mỗi vấn đề riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử,
cụ thể tạo nên cái đơn nhất (đặc thù) của nó. Cần tránh thái độ chung chung,
trừu tượng khi giải quyết mỗi vấn đề riêng.
+ Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điểu
kiện xác định của quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Vì vậy, tuỳ từng mục đích có thể tạo ra những điểu kiện để thực hiện sự chuyển
hoá từ cái đơn nhất thành cái chung hay ngược lại.
Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân
rộng sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội, có thể
thơng qua các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái
chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...
III: Ý nghĩa phương pháp luận
Từ viêc phát hiện mối qua hệ biễn chứng giữ cái chung và cái riêng. Triết
9


học mác – Leenin nêu ra một số ý nghĩa có phương pháp luận cho mối quan hệ
này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
 “Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những
sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con
người bên ngồi cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức
phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung

để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những
nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình
trạng hoạt động một cách mị mẫm, mù quáng.
Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định ( cái đơn
nhất) có thể biế thành (cái chung) và ngược lại ( cái chung) có thể biến thành
( cái đơn nhất), nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần tạo điều kiện thuận
lợi để ( cai đơn nhất) có lợi cho con người trở thành ( cái chung) và ( cái chung)
bất lợi để trở thành (cái đơn nhất)”.Trong bút ký Triết học, Leenin viết: “Người
nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước.
Khi giải quyết vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ khơng sao tránh
khỏi những vấp váp vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp
phải những vấn đề đó trong trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính
sách của mình đến chỗ có sự giao động tồi tệ nhất và mất đi hẳn những nguyên
tắc.” Lê – nin
Từ mối quan hệ giưa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tơn trọng tính khách quan kêt hợp phát huy
tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ
10


trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát tư thực tế
khách quan, tư nhưng điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Phải tơn trọng và hành động theo qui luật khách quan, nếu không làm như vậy,
chúng ta sẽ phải gánh chịu nhưng hậu quả tai hại khôn lường.
Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng hoặc bôi
đen đối tượng, khơng được gán cho đối tượng cái mà nó khơng có. Văn kiện
Đại hội XII chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn
chung, phải xuất tư chính bản thân sự vật hiện tượng đó với nhưng thuộc tính,
mối liên hệ bên trong vốn có của nó.

Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy
vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan. Phải phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư
tương, thái độ thụ động, ỉ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải
coi trọng vai trị của ý thức, coi trọng cơng tác tư tương và giáo dục tư tương,
coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tương Hồ Chí Minh.
Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói
chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, tồn cầu
hố hiện nay; coi trọng việc giư gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ,
đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giưa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học.
Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ
lợiích, phải biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội;
11


phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi
trong nhận thức và hành động của mình.
Đối với phương pháp luận trong kinh tế học, các nhà kinh tế có thể chấp nhận
những phương pháp luận trong ngành tự nhiên, nhưng thực tiễn xã hội là một
hệ thống mở. Đó có thể là có nhiều biến số can thiệp, hoặc khơng nhất thiết
phải kiểm sốt mọi yếu tố như trong phịng thí nghiệm.
Về chủ nghĩa thực chứng, lý thuyết phải nhất quán với nhau và thể hiện được
sự logic của nội dung. Ví dụ một số phát biểu về phương pháp luận “Không gì
có thể được chứng minh là ln ln đúng”:
Chúng ta khơng bao giờ chắc chắn được rằng mơ hình của mình là hồn chỉnh
hoặc đã thiết lập quan hệ nhân quả.
Chúng ta tiến bộ nhờ chứng minh vấn đề là sai bằng cách lặp lại các thử

nghiệm và loại bỏ những vướng mắc khơng có tác dụng.
IV: Thực tiễn vấn đề hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của học sinh
tiểu học ở địa phương hiện nay.
“Với những thành tựu mới về phương pháp, kỹ thuật dạy học và kiểm tra,
đánh giá được tác giả khai thác dựa trên nền tảng của Tâm lí học hiện đại. Từng
phương pháp, kỹ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá được phân tích, hướng dẫn
và định hướng tổ chức theo quan điểm Giáo dục học hiện đại: Dạy học tích cực
dựa trên nền tảng tổ chức hoạt động học.
Hơn nữa, khi học xong modul này học viên có thể: được cung cấp kiến thức:
Trình bày được hiểu biết chung về dạy học phát triển năng lực và phẩm chất
học sinh. Phân biệt được giữa dạy học tiếp cận nội dung với tiếp cận mục tiêu
và tiếp cận năng lực.

12


Hiểu được chương trình giáo dục phổ thơng mới chính là chương trình dạy học
phát triển năng lực và phẩm chất. Những yêu cầu đối với công tác quản lý và tổ
chức dạy học theo chương trình giáo dục tiểu học. Hiểu được chương trình giáo
dục phổ thơng mới chính là chương trình dạy học phát triển năng lực và phẩm
chất. Những yêu cầu đối với công tác quản lý và tổ chức dạy học theo chương
trình giáo dục tổng thể của chương trình giáo dục tiểu học.
Trình bày được một số phương pháp, kỹ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá
năng lực và phẩm chất học sinh tiểu học”.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang tính nhất quán trong ưu tiên phát triển giáo
dục và đào tạo. “Một là, kế thừa các văn kiện quan trọng của Đảng trong các
giai đoạn trước đây, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) đã đưa ra
những quan điểm, định hướng lớn về phát triển giáo dục và đào tạo, chỉ rõ:“
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của
xã hội”.
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2015-2025 xác định: “Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”.
Đảng và nhà nước đã chỉ đạo cùng Bộ Giáo duc và Đào tạo cần quan tâm
sát sao với ngành giáo dục nước nhà đặc biệt là các chính sách chủ trương của
nhà nước được nêu trên theo yêu cầu đẫ được triển khai một cách nhất quán và
đồng bộ.
13


Điển hình chúng ta có thể thấy điểm nổi bật trong hoạt động phát triển
phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học của nước ta đó là khi thay đổi
chuwong trình giảng dạy ở các cấp tiểu học trên tồn hệ thơng giáo dục trong
cả nước năm 2018.
Ví dụ: “Năm học 2020-2021 là năm đầu tiên triển khai chương trình giáo
dục phổ thơng 2018 ở lớp 1. Trong 5 năm qua, nhiều công việc đã được chuẩn
bịkĩ lưỡng, từ xây dựng chương trình, biên soạn, thẩm định sách giáo khoa đến
chuẩn bị đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở lớp 1 thực hiện dạy học 2
buổi/ngày, mỗi ngày không quá 7 tiết học, mỗi tiết 35 phút. So với chương trình
hiện hành, chương trình mới có ít mơn học hơn. Lớp 1 có 7 mơn học và 1 hoạt
động giáo dục bắt buộc.
Các môn học bắt buộc gồm: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Tự nhiên và Xã
hội, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), Hoạt động trải nghiệm.
Các môn học tự chọn gồm: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 1.
Lần đầu tiên, hoạt động trải nghiệm trở thành nội dung giáo dục bắt buộc trong

nhà trường.
Năm học này cũng là lần đầu tiên, nội dung giáo dục địa phương được đưa vào
trong kế hoạch giáo dục bắt buộc, nội dung do các địa phương biên soạn trên cơ
sở hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Từ vài năm nay, thay vì thời khóa biểu chính khóa tồn các mơn học văn hóa
bắt buộc như Tốn, Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội..., nhiều nhà trường đã có sự
đan xen của các tiết học tự chọn cho học sinh. Học sinh sẽ được tham gia nhiều
nội dung học tập đa dạng hơn. Học sinh không chỉ ngồi cố định trong một lớp
14


học mà được di chuyển từ lớp học này sang lớp học khác để học các nội dung
khác nhau”.
Qua chính sách và sự thay đổi đồng bộ hác trước đây thì hệ thống phươngpháp
dạy học của cấp tiểu học ở Việt Nam ta học nhiều lý thuyết nhiều do thiếu
cơ sở vật chất nên việc ứng dụng và thực hành bị hạn chế. Các học sinh và giáo
viên khơng có khả năng tiếp cận với khoa học hiện đại, các em học sinh khơng
có sự hình thành, khả năng và phát triển các khả năng, năng khiếu, năng lực
thực hành của các em học sinh.
Nhưng hiện nay với những điểm mới của chương trình giảng dạy đã được đầu
tư các cơ sở vật chất, kỹ năng chuyên môn giáo việc được nâng cao trình độ để
hướng cho các em học sinh được trải nghiệm, phát huy hết khẩ năng và tiềm
lực của mình.
Có thể hiện ở một số điểm mới như:
Ví dụ: “Tại các trường Tiểu học trong nước, trung tâm và đang được thí
điểm chươn tình giáo dục mới. Thành Phố Cần Thơ thành phố đã triển khai mơ
hình trường học điển hình đổi mới, từ đổi mới phương pháp đến xây dựng kế
hoạch dạy học chính khóa theo nhu cầu người học.
Trường Tiểu học Bình Thủy (TP.Cần Thơ) là một trong những trường tiểu học
theo mơ hình điển hình đổi mới. Trường tổ chức nhiều lớp tự chọn khác nhau

như lớp học nấu ăn, lớp học đàn, lớp học Robotic,..ngồi ra nhà trường cịn tổ
chức thêm các lớp dạy nấu ăn cho các em học sinh được thể hiện hứng thú với
nấu ăn”.
Trong dịp tết đã tổ chức các chương trình gói bánh tét cho các em trải
nghiệm để về có thể hộ bố mẹ việc nhỏ nhất ngày tết.
15


Những thành tựu đã cho thấy việc thực hiện trên của Bộ giáo dục và Đào
tạo cùng với quan tâm Đảng, Nước đến công cuộc đào tạo những mần mon đất
nước chuẩn bị cho một nguồn nhân lực nước nhà ngay từ đầu, và các phẩm chất
đạo đưc của những người cơng dân tốt nên có.
V: Áp dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong hoạt
động phát triển phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học ở địa phương
hiện nay.
“Trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện chứng duy vật cho giáo
viên. Cần tập trung, nâng cao kiến thức chuyê môn giản dạy cho giáo viên
nắmvững phương pháp luận được rút ra từ lý luận phép biện chứng duy vật:
quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, quan
điểm thực tiễn; phương pháp giảng dạy các học sinh của mình càn phảm chất
coi các học sinh của mình như là một người con thứ hai của bản thân, có trách
nhiệm trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho các em…
Luyện tập giáo viên các phương pháp biện chứng thông qua thực tiễn cách
mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi không ngừng dể giáo viên khơng ngưng
nghĩ ra các chương trình trong giảng để đưa đến những kiến thức bổ ích, nâng
cao khả năng nhận thức về các vấn đề phát triển hoạt động động phát triển
phẩmchất năng lực của học sinh tốt nhất”.
Ví dụ: Bộ giáo dục và đào tạo đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực
tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế nào?
Nhận xét các cán bộ giáo viên khơng nên chỉ xét ngồi mặt, chỉ xét một lúc,

một việc, mà phải xét kỹ cả tồn bộ cơng việc của cán bộ”16 “Có kinhnghiệm
mà khơng có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”17.
16


Những tiêu chuẩn hiện nay của các nguyên tắc của giữa cái chung và cáiriêng
được áp dụng, kế thừa và phát riển mang tish chọn lọc những cái mới vàloại bỏ
những cái cũ.
“Định hướng cho đội ngũ những người cầm cân nảy mực nâng cao nhậnthức tự
vận dụng các phương pháp giảng dạy với chuwong trình giáo dục mớicho các
em học sinh phát triển hết khả năng nhận thức của bản thân”
Ví dụ: Như trong q trình giảng dạy người giáo viên sẽ nhân thất rằng những
em học sinh nào học tốt sẽ để các em phát huy thế mạnh của mình như mơn
tốn, đưa ra các chương trình phép tốn khó để các em tăng mức độ nhận thức ,
khả năng học tốn của mình tới đâu. Ngược lại những em có thế mạnh vềmỹ
thuật, hội họa hay ca nhạc, giáo viên sẽ động viên cho các em tham gia đểthỏa
sức với đam mê của bản thân
Trong quy luật phủ định của phủ định có thể định hướng cho giáo viên vàhọc
sinh vận dụng tính kế thừa của phủ định biện chứng trong cuộc sống, họctập
của các em học sinh; hoặc bản thân giáo viên cân kế thừa, phát huy các giá trị
văn hóa truyềnthơng dân tọc cần am hiểu về lịch sử.
Giáo viên dựa vao phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
để rèn luyện đạo đức bản thân, sau dó để truyền đạt những đạo đức của một
công dân tốt tỏng tương lai cho các em họcsinh cần có, dạy cho các em cấp tiểu
học phải nhận thức được bất cứ kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó
các em học sinh có ý thức làm việc thiện, tránh việc ác.
Luyện tập cho học sinh những vấn đề việc tốt sảy ra tỏng cuộcsống hằng ngày
nên làm, các việc xấu không nên làm”. “Để nâng cao năng lực hoạt động phát
triển phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học thì cần phải cần xác định trọng
17



tâm, nắm vững nội dung và phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận
và thực tiễn, định hướng vận các kỹ năng cần có của giáo viên và công nhân
viên, nhà trường để giảm dạy học sinh tốt nhất, nâng cao năng lực tư duy biện
chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập của các bé sau này.”

18


KẾT LUẬN
“Qua các quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
trong hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học ở Việt Nam
hiện nay thì đã có những ưu điểm.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt,
những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở trong cuộc sống.
Và quan điểm triết học của Mác – Lênin đã giúp nâng cao nhận thức trong việc
giảng dạy của đội ngũ giáo viên và lãnh đạo, mục tiêu trọng tâm giảng dạy là
tạo ra các hoạt động phát triển phẩm chất năng lực của học sinh tiểu học nước
ta hiện nay một cách tốt nhất và là nhiệm vụ hàng đầu.”
19


20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối khơng chun
ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2009.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình những Nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên
ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị, Triết học Mác – Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.7- 50.
4. Học viện chính trị- hành chính khu vực I, Khoa Triết học, Giáo trình
Triết học Mác- Lênin, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.102 144.
5. Học viện chính trị- hành chính khu vực I, Khoa Triết học, Giáo trình
Triết học Mác- Lênin, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.102 144.
6. Học viện chính trị Khu vưc I, Triết học Mác - Lênin, Những vấn đề lý
luận cơ bản, Nxb Văn hóa- Thơng tin, Hà Nội 2014, tr. 57 - 146.
7. Hồ Chí Minh (1974), “Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ”, Nxb Sự Thật,
Hà Nội, tr. 479.
8. Hồ Chí Minh (1996), “Tồn tập, t.5”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr234.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb CTQG- Sự thật. H
2011, tr 77
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb CTQG- Sự thật. H
2011, tr 131
11. Theo Ban Thời sự ( VTV.vn) “Thay đổi chương trình giáo dục: Có gì
mới?”, Báo Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 08/09/2020,
21


22




×