VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
************
Họ và tên: Nguyễn Hoàng Sơn
Tên đề tài: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Thuân
Hà Nội, năm 2021
1
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi,
được hồn thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Văn Thn.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội.
Các kết quả, số liệu nghiên cứu nêu trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được công bố, trùng lặp trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồng Sơn
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU:
Chương I: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.1. Khái quát về Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2. Vai trị, vị trí của Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
1.3. Nội dung địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Chương II: Quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải
quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
2.1. Pháp luật quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thời kỳ trước năm 2015.
2.2. Pháp luật quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
2.3. Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự và sự tác động của chúng tới địa vị pháp lý của Thẩm phán.
Chương III: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm
vụ án hình sự trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay và một
số giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ
thẩm vụ án hình sự.
3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, dân cư tỉnh Hải Dương.
3.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự
trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay
3.3. Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3
3.4. Một số giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải
quyết sơ thẩm vụ án hình sự
KẾT LUẬN:
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả thụ lý giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Hải Dương từ năm 2016 – 2020.
Bảng 2.2: Thống kê số lượng giải quyết sơ thẩm tất cả các vụ án nói
chung và số lượng giải quyết sơ thẩm vụ hình sự nói riêng.
Bảng 2.3: Bảng kết quả giải quyết của thẩm phán so với số lượng giải
quyết sơ thẩm vụ án hình sự.
Bảng 2.4: Bảng đối chiếu số lượng giải quyết sơ thẩm tất cả các vụ án nói
chung và số lượng giải quyết sơ thẩm vụ hình sự nói riêng
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX
Hội đồng xét xử
TAND
Tồ án nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
CQĐT
Cơ quan điều tra
THTT
Tiến hành tố tụng
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tịa án nhân dân là một cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ
thống bộ máy nhà nước. Bằng hoạt động của mình, Tịa án bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, quyền dân chủ của công dân, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, nhân phẩm danh dự của công dân và bảo vệ tài sản của Nhà
nước. Thông qua hoạt động xét xử, Tịa án góp phần giáo dục cơng dân ý thức
pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống, tham gia cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Trong đó, Thẩm phán là
người trực tiếp thực thi nhiệm vụ quan trọng đó.
Thẩm phán là một chức danh cao quý, do Chủ tịch nước bổ nhiệm để xét
xử, thực hiện quyền tư pháp, khi xét xử Thẩm phán được nhân danh Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thẩm phán xét xử các vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật; căn cứ các tài liệu, chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử, Thẩm phán ra bản án, quyết định việc có tội hoặc khơng có
tội, áp dụng hoặc khơng áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về
quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân của đương sự. Bản án, quyết định
của Tịa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Do
đó, được bổ nhiệm chức danh Thẩm phán là niềm tự hào, là mục tiêu mà hầu hết
những công chức trong ngành Tòa án đều phấn đấu để đạt được.
Trong những năm gần đây, việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sâu
rộng đòi hỏi Việt Nam ta phải có những cải cách về thể chế tư pháp và pháp luật
tố tụng hình sự. Vị trí, vai trò và địa vị pháp lý của Thẩm phán trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự là nội dung quan trọng, không thể thiếu trước yêu cầu
cải cách tư pháp tại nước ta hiện nay. Củng cố đội ngũ và tăng cường địa vị pháp
7
ý của Thẩm phán là yêu cầu cơ bản để bảo vệ công lý bởi sự ổn định của trật tự
pháp luật, giữ kỷ cương xã hội.
Chính vì lý do trên, tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương” để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ là vấn đề rất cần thiết về từ lý luận đến thực tiễn
trong quá trình giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trên thực tế hiện nay cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự. Địa vị pháp lý
của thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự được đề cập trong Giáo
trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
xuất bản năm 2013 do tác giả Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; Giáo trình Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam xuất bản năm 2019 của Trường Đại học Luật Hà Nội do
tác giả Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Giáo trình Luật TTHS xuất bản năm 2019
của Học viện Tịa án do Tiến sĩ Nguyễn Trí Tuệ chủ biên. Bên cạnh đó cũng có
nhiều nghiên cứu trên nhiều diễn đàn pháp luật, trên các tạp chí điện tử của
ngành Cơng an nhân dân, Tồ án nhân dân, Kiểm sát nhân dân.
Ngồi ra có một số cơng trình nghiên cứu đã tập trung vào địa vị pháp lý
của thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự như: Luận án Thạc sĩ luật
học của tác giả Trương Thị Hạnh với đề tài “Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự Việt Nam” bảo vệ năm 2009; Luận văn thạc sĩ luật học "Địa vị
pháp lý của Thẩm phán chủ toạ phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi” của tác giả Lê Thị Mỹ Giang bảo vệ năm 2017; Luận văn thạc sĩ
luật học "Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau” của
tác giả Huỳnh Việt Hằng bảo vệ năm 2018 của Học viện khoa học xã hội; tác giả
8
Nguyễn Thị Minh Hạnh với Luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu đề tài “Địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh” bảo vệ năm 2020.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về “Địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự trong thực tiễn
trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay” nên cơng trình nghiên cứu này khơng
trùng lặp với bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn của Tác giả nghiên cứu nhằm bổ sung thêm những vấn đề lý
luận về Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự
trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay. Mục đích nghiên cứu là
làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm và các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để xác định địa vị pháp
ý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó đề xuất
một số kiến nghị hồn thiện các quy định của pháp luật để nang cao địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự, góp phần nâng cao
chất lượng giải quyết sơ thẩm các vụ án hình sự, đồng thời tăng cường hiệu quả
phịng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải
quyết sơ thẩm vụ án hình sự
- Nêu thực trạng Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm
vụ án hình sự trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương
9
- Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự, góp phần nâng cao chất
lượng giải quyết sơ thẩm các vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định và thực tiễn thi hành
về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Phạm vi nghiên cứu chỉ nghiên cứu về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Về thực tiễn chỉ nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong
thời gian từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các biện pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lê nin;
Tư tưởng Hồ Chí Minh và các đường lối của Đảng và nhà nước. Đề tài nghiên
cứu kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
lịch sử; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp;
phương pháp nghiên cứu những vụ án điển hình; phương pháp thống kê, tổng
hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong khoa
học pháp luật hình sự Việt Nam. Tác giả hi vọng Luận văn sẽ đóng góp khoa học
về lý luận áp dụng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự và được kiểm chứng thơng qua thực tiễn hoạt động xét xử trên địa
bàn tỉnh Hải Dương.
Đề tài nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ địa vị của Thẩm phán trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm và các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để xác định
10
địa vị pháp ý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó
đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật để nang cao địa
vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự, góp phần nâng
cao chất lượng giải quyết sơ thẩm các vụ án hình sự, đồng thời tăng cường hiệu
quả phịng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cơ cấu thành 03 chương.
Chương I: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương II: Quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương III: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án
hình sự trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay và một số giải pháp
nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự.
11
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG GIẢI QUYẾT XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
1.1.1. Khái niệm về Thẩm phán.
Lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển hệ thống Tòa án nhân dân ở
nước ta đặt trong lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước ta, điều đó cho thấy
sứ mệnh của Tịa án nhân dân gắn liền với sứ mệnh của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát triển các quy định của các bản Hiến
pháp trước, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, Hiến pháp năm 2013 quy
định“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.”
Khi nhắc đến Tịa án nhân dân thì điều đầu tiên phải nói đến Thẩm phán vì
thực hiện nhiệm vụ xét xử của Tịa án phải thơng qua hoạt động thực hiện nhiệm
vụ của Thẩm phán. Trong Tịa án, chỉ có Thẩm phán thực hiện hoạt động xét xử,
thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán là nhân tố rất quan trọng trong hoạt động
xét xử.
Ở nước ta do trình độ dân trí cịn thấp, khái niệm Thẩm phán cịn xa lạ đối
với một số tầng lớp nhân dân. Còn nhiều người hiểu nhầm Thẩm phán là luật sư
hoặc là một chức danh khác nào đó của cơ quan hành pháp trong bộ máy nhà
nước. Thậm chí kể cả trong nhận thức của những người đang là công chức, viên
chức nhà nước cũng nhận thức không rõ được hoặc không phân biệt được Thẩm
phán là ai, có nhiệm vụ gì và họ làm việc ở đâu? Thực tế cho thấy, chỉ trong
12
trường hợp cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào có liên quan đến một vụ án cụ thể
nào đó, thì lúc này họ mới tìm hiểu một cách sơ lược về vị trí vai trị của Thẩm
phán. Điều này cho thấy xã hội còn chưa quan tâm đúng mức đến vị trí, vai trị
của Thẩm phán, ngay cả những người làm việc tại các cơ quan công quyền cũng
chưa hẳn đã nhận thức đúng và đủ về vấn đề này. Thẩm phán với tư cách là
người đại diện cho Nhà nước, họ được pháp luật quy định quyền ban hành các
quyết định công nhận, hướng dẫn, dẫn dắt và quyết định các vấn đề có liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức. Tại phiên tòa, với
vai trò là người điều khiển phiên tòa, hướng dẫn cho những người tham gia tố
tụng trong vụ án thực hiện quyền tranh tụng đúng pháp luật. Đặc biệt trong các
vụ án hình sự, vai trị của Thẩm phán xét xử được thể hiện rõ nét nhất. Chính tại
phiên tịa, nơi diễn ra tất cả các quy trình của sự tranh tụng, Thẩm phán là người
điều khiển, dẫn dắt việc tranh tụng để việc tranh tụng diễn ra một cách tơn
nghiêm, có trật tự, đi đúng vào trọng tâm của vụ án. Để từ đó, các chứng cứ, các
sự thật khách quan của vụ án đều được đưa ra làm rõ tại phiên tòa. Trên cơ sở
tranh tụng khách quan, hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ áp dụng pháp luật một cách
đúng đắn để đưa ra một bản án với các quyết định hợp tình, hợp lý nhất. Với các
quyết định của mình, cùng với các cơ quan liên quan, Thẩm phán đã góp phần
định hướng cho xã hội phát triển.
Nếu nhìn nhận dưới góc độ xã hội, Thẩm phán được xem như là một nghề
nghiệp, với sự phân cơng của xã hội thì Thẩm phán thực hiện nghề xét xử. Về
khái niệm Thẩm phán, theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân năm 2002, Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án”. Với cách hiểu này, Thẩm phán là người thực
hiện nhiệm vụ xét xử và quyền tư pháp. Chức năng xét xử của Tòa án được thực
13
hiện thông qua hoạt động xét xử của Thẩm phán, bằng việc ra bản án hoặc quyết
định nhân danh nhà nước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt hội đồng xét xử
tuyên án hoặc các quyết định nhân danh nhà nước. Như vậy, trước tiên nhắc đến
Thẩm phán là nói đến người làm nhiệm vụ xét xử, cơng việc xét xử cũng được
coi là một nghề. Nghề xét xử này được thực hiện để đảm bảo việc thực thi cơng
lý, đảm bảo sự ổn định an ninh chính trị, bảo đảm tính pháp quyền của nhà nước.
Để làm cơng việc này Thẩm phán dựa phải trên cơ sở các nguyên tắc của pháp
luật quy định để thực hiện việc xét xử.
Thẩm phán được hiểu theo nghĩa chung là một chức danh tư pháp. Cho
đến nay ở nước ta chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước quy định về khái
niệm chức danh tư pháp. Có quan điểm cho rằng những người nào trực tiếp thực
hiện quyền lực tư pháp thì mới là chức danh tư pháp. Trong các chức danh tư
pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý
nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp.
Trong hệ thống Tòa án nhân dân, đội ngũ Thẩm phán là lực lượng lao
động nịng cốt, kết quả cơng tác của Thẩm phán quyết định hiệu quả của hệ
thống Tòa án nhân dân trong thực hiện quyền tư pháp, bởi khơng phải Tịa án
hoặc một chức danh tư pháp nào khác mà chỉ có Thẩm phán, Hội đồng xét xử
mới nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp. Tại lời nói đầu của Bộ Quy
tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán được Hội đồng tuyển chọn, giám sát
Thẩm phán quốc gia ban hành năm 2018 xác định: “Thẩm phán là người được
Chủ tịch nước bổ nhiệm để nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp. Trọng
trách của Thẩm phán rất nặng nề, sứ mệnh của Thẩm phán rất cao quý. Trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và
Nhân dân yêu cầu các Thẩm phán phải thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư,
khách quan, thượng tôn pháp luật; đòi hỏi các Thẩm phán phải trở thành biểu
14
tượng của đạo đức thanh liêm, tuân thủ những nguyên tắc của Hiến pháp về hoạt
động tư pháp, thực hiện được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thẩm phán
phải “Phụng cơng, thủ pháp, chí cơng vơ tư” và “Gần dân, hiểu dân, giúp dân,
học dân”.
Với sự phát triển của nền tư pháp Việt Nam, khái niệm về Thẩm phán đã
xuất hiện và được hoàn thiện dần theo theo thời gian. Tới quy định của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn theo quy định của Luật này, được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm
vụ xét xử và thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán là người có kiến thức về pháp
luật cũng như kinh nghiệm cơng tác pháp luật, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị và phải trải qua kỳ thi tuyển Thẩm phán. Giai đoạn xét xử là giai đoạn
quan trọng nhất trong quá trình tố tụng. Do vậy, người Thẩm phán phải thực sự
nghiêm minh và sáng suốt, để có thể đưa ra một quyết định đúng đắn. Trong hệ
thống người tiến hành tố tụng, Thẩm phán là người có địa vị pháp lý đặc biệt,
hoàn toàn khác so với những người tiến hành tố tụng cịn lại. Để trở thành Thẩm
phán thì phải có đầy đủ các điều kiện sau:
- Là cơng dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
Cộng hịa xã hội chư nghĩ Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ cơng lý, liêm khiết và
trung thực;
- Có trình độ cử nhân luật trở lên;
- Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử;
- Có thời gian làm cơng tác thục tiễn pháp luật.;
- Có sức khỏe bảo đảm hồn thành nhiệm vụ được giao;
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành, Tòa án nhân
dân được tổ chức bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân cấp cao, tòa
15
án nhân dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự. Tương ứng
với các cấp Toà án, Thẩm phán làm việc tại các cấp Toà án bao gồm Thẩm phán
tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán
sơ cấp. Dù kinh qua các điều kiện làm việc từ đơn giản đến phức tạp, trong chiến
tranh, ở thời bình hay trước yêu cầu hội nhập sâu rộng, sứ mệnh nhân danh Nhà
nước đã được các thế hệ Thẩm phán trong hệ thống Tòa án nhân dân đảm nhận
và khẳng định, như trong lời phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng tại Hội nghị triển khai cơng tác Tịa án năm 2019 là “…Những đóng
góp bền bỉ, thầm lặng của các thế hệ cán bộ, Thẩm phán đã làm nên truyền
thống tốt đẹp của ngành Tịa án; ln được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận
và trân trọng…”.
1.1.2. Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên. Theo Luật tổ chức Tồ án
nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì Tồ án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà
án cấp huyện, Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân
khu.
Xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình
giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều
tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách cơng
khai tại phiên tồ, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được
nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại Cơ
quan điều tra họ khơng có điều kiện thực hiện; tại phiên tồ quyền và nghĩa vụ
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tồ tụng được thực hiện một cách
công khai, đầy đủ nhất. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó địi hỏi
Thẩm phán phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ
16
đưa ra khơng chỉ địi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng
thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật thông qua phiên tồ có thể
đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán. Cũng thơng qua phiên tồ mà
Thẩm phán nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực cơng tác và kỹ năng nghề
nghiệp; thơng qua phiên tồ, những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp
luật, củng cố thêm lịng tin vào Tồ án. Vì vậy, việc tổ chức phiên tồ sơ thẩm
tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà cịn có tác dụng đối
với việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân.
Đội ngũ Thẩm phán nhận thức rõ sứ mệnh và trọng trách của họ, không
chỉ nhân danh Nhà nước tiếp nối truyền thống xây dựng và phát triển hệ thống
Tòa án nhân dân, mà còn đảm bảo thực thi quyền tư pháp trong thời đại mới với
năng lực, tâm thế, bản lĩnh vững vàng, sánh vai với các nền tư pháp tiên tiến trên
thế giới, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Vì lẽ đó, đối với Thẩm
phán, suy cho cùng, đảm trách và thực thi sứ mệnh nhân danh Nhà nước trong
thực hiện quyền tư pháp khơng chỉ là niềm vinh dự mà chính là trách nhiệm lớn
nhất, lâu dài, sau cùng của Đảng và Nhân dân đã giao – sứ mệnh gắn với cả cuộc
đời, sự nghiệp mỗi người Thẩm phán nhân dân.
Công lý được xem là một trong những giá trị cốt lõi, nền tảng để thực hiện
quản lý xã hội vì lợi ích của nhân dân. Công lý trước hết được quan niệm là sự
tôn trọng tự do và các quyền cá nhân, sự tôn trọng con người và phẩm giá con
người như những mục đích tự thân. Trong xã hội hiện đại, công lý là điều kiện
tiên quyết cho cuộc sống tốt đẹp, là phẩm hạnh thiết yếu của một xã hội văn
minh, hịa bình, hợp tác, tiến bộ, trật tự và ổn định.
Nhiều quan điểm tiến bộ cho rằng: một quốc gia văn minh phải được quản
lý trên cơ sở nền tảng của đạo lý, công lý, lẽ công bằng. Công lý ở nhà nước ta,
17
trong thời kỳ hội nhập, suy cho cùng là phát huy giá trị cốt lõi của truyền thống
đạo lý, văn hóa của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ
cơng bằng, vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại, vì một Việt
Nam hùng cường.
Thực tế, trong lịch sử xây dựng và phát triển hệ thống Tòa án nhân dân,
đằng sau từng bản án đã xét xử, sâu hơn pháp luật là lịng nhân, là tình người;
mục tiêu của xét xử không chỉ là bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhà nước, bảo vệ
quyền, lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà hướng cho nhân dân lấy nhân, dựa
vào đạo lý dân tộc ngàn đời để sửa mình; khi cần Nhà nước sẽ áp dụng pháp luật
với nguyên tắc pháp luật là thượng tôn và với yêu cầu “Quốc pháp vô
thân”. Hơn ai hết, mỗi Thẩm phán đã được rèn luyện và thấm nhuần đạo lý dân
tộc, và thuận lợi hơn khi họ được đào tạo bài bản, được giao đảm trách sứ mệnh
nhân danh Nhà nước, bảo vệ công lý ở tuổi trưởng thành, trong môi trường tư
pháp xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống Tòa án nhân dân
từng bước trưởng thành, thành quả đó hun đúc nên niềm tin mãnh liệt của nhân
dân Việt Nam nói chung, của các Thẩm phán trong hệ thống Tịa án nhân dân nói
riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ công lý, bảo vệ nhân
dân trong thời đại mới.
1.2. Vai trò, vị trí của Thẩm phán trong giải quyết xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Với mỗi quốc gia, hệ thống tư pháp trong đó có Tịa án đều đóng vai trị
rất quan trọng trong việc bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, đảm bảo an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sứ mệnh của TAND được xác định là bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, và người thực thi nhiệm vụ
cốt lõi chính là các Thẩm phán. Tuy nhiên, cùng là công chức như các ngành
nghề khác nhưng Thẩm phán hiện nay đang phải chịu rất nhiều áp lực trong quá
18
trình thực thi nhiệm vụ của mình và xã hội ln địi hỏi ở họ cao hơn các ngành
nghề khác. Trong số đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta thì đội ngũ cơng
chức Tịa án, đặc biệt là Thẩm phán chịu sự giám sát nhiều nhất trên cả hai
phương diện, đó là cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm. Trước mỗi phiên tòa, hay khi
ban hành bản án, các Thẩm phán bị Kiểm sát viên, bị những người tham gia tố
tụng giám sát. Đặc biệt, có 2 đối tượng là Kiểm sát viên và Luật sư với tư cách là
người bào chữa hoặc người bảo vệ cho các đương sự, họ là những người có kiến
thức pháp luật rất cao, cùng với đó là đội ngũ phóng viên báo chí được tham dự
những phiên tịa cơng khai, họ cũng có thể giám sát. Cịn theo cơ chế hậu kiểm là
Kiểm sát viên không chỉ giám sát Thẩm phán trong quá trình xét xử và bản thân
họ lại chịu sự giám sát của Viện Kiểm sát cùng cấp, Viện Kiểm sát cấp trên và
Thẩm phán cũng chịu sự giám sát của Tịa án cấp trên. Ngồi ra theo Nghị quyết
03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về
việc phải công khai các bản án, Quyết định trên cơng thơng tin điện tử của Tịa
án do đó Tịa án phải chịu sự giám sát của tồn xã hội.
Không chỉ chịu sự giám sát chặt chẽ từ nhiều phía, Thẩm phán hiện nay
đang chịu sự quá tải của công việc. Lượng án tăng lên hàng năm, nhưng biên chế
từ năm 2012 đến nay không tăng mà tới đây còn phải tinh giản theo Nghị quyết
39 của Trung ương. Vừa qua, khi trả lời chất vấn trước Quốc hội, Chánh án
TANDTC Nguyễn Hịa Bình cũng đã nêu một thực tế là theo quy định, mỗi
Thẩm phán phải xét xử 5 vụ/tháng, nhưng nhiều nơi, Thẩm phán đã phải xử đến
12 vụ/tháng, thậm chí là 18 vụ/tháng. Với số lượng công việc nhiều vậy, nguy cơ
rủi ro về chất lượng rất cao, dù rằng các Thẩm phán đã cố gắng hết mình.
Năm 2017, tồn hệ thống Tịa án xét xử 60.048 vụ, với 100.077 bị cáo. Số
lượng án lớn như vậy, nhưng chỉ có 0,45% vụ án bị hủy do lỗi chủ quan. Mà lỗi
chủ quan ở đây được hệ thống Tòa án đánh giá là lỗi của cá nhân Thẩm phán, chỉ
19
có 1,09% sai do lỗi chủ quan của Tịa án. Con số đó đã nói lên sự nỗ lực rất lớn
của các Thẩm phán. Trong khi đó, các chỉ tiêu thi đua áp dụng trong Tòa án khá
chặt. Theo quy định, 1 Thẩm phán có án bị hủy, sửa; đặc biệt là hủy, cịn bị sửa
thì chỉ cần 0,7% đã không được xét thi đua; nếu quá 1,16% trên tổng vụ án đã
xét xử thì Thẩm phán bị dừng khơng được tái bổ nhiệm. Đây cũng là điều mà đại
đa số các Thẩm phán lo lắng. Vấn đề xã hội cũng là điều đáng quan tâm và chia
sẻ đối với các Thẩm phán. Đó là với những vụ án dân sự, kinh tế, hơn nhân và
gia đình, Tịa án có xử như thế nào cũng không bao giờ làm hài lịng cả hai bên.
Bên thắng thì ca ngợi, cịn bên thua thì đương nhiên họ sẽ ốn ghét, thậm chí họ
cịn cho rằng Tịa án có tiêu cực, họ có thể có những hành động nguy hiểm. Đã
có những Thẩm phán phải chịu những hậu quả vô cùng ghê gớm từ những đương
sự như vậy. Trên thực tế, hàng chục năm qua có nhiều gương sáng tư pháp,
Thẩm phán tâm huyết, liêm chính, cống hiến hết mình cho hệ thống Tòa án mà
mọi người đều biết đến. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có những nơi đã xảy ra
tiêu cực và chính sự tiêu cực này đã làm lu mờ đi những thành tựu, những nỗ
lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán.
Nếu coi Toà án là một công cụ pháp lý bảo vệ công lý được thực thi thì
Thẩm phán chính là trụ cột trong hoạt động đấu tranh và phịng chống tội phạm.
Thơng qua hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán trực tiếp góp sức
vào q trình phịng chống tội phạm, trừng trị kịp thời hành vi tội phạm gây
nguy hại đến tính mạng sức khoẻ con người, an ninh trật tự xã hội…., mặt khác
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật tới nhân dân, rút kinh nghiệm
từ thực tiễn xét xử của mình để bổ sung hồn thiện pháp luật; giúp duy trì kỉ
cương phép nước, tạo nên mơi trường an tồn bền vững để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế văn hố, chính trị đất nước.
20
Thẩm phán có vị trí, vai trị rất quan trọng, họ có nhiệm vụ cùng với các
cơ quan chức năng có liên quan góp phần làm cho xã hội hoạt động theo các quy
định của pháp luật. Ở Việt Nam, một đất nước có bề dầy lịch sử đấu tranh dành
và giữ nước, với mười bốn lần bị giặc ngoại ban xâm lấn và mười bốn lần kiên
cường chiến thắng. Người Việt Nam kiên cường, chịu thương, chịu khó, thường
sống theo lề lối phong tục tập quán, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, trọng tình
hơn trọng lý. Chính vì vậy, việc hướng cho mọi người Việt Nam sống và làm
việc theo quy định của pháp luật là một việc làm khó khăn cho hệ thống bộ máy
nhà nước, trong đó có vai trị của Thẩm phán. Điều này cho thấy người Thẩm
phán Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam muốn làm tốt vai trò mà Đảng, Nhà nước
và nhân dân giao phó là “Phụng cơng, thủ pháp, chí cơng, vô tư” và “Gần dân,
hiểu dân, giúp dân, học dân”, địi hỏi họ phải có nhận thức sâu sắc, kinh nghiệm
sống, tinh thơng về trình độ chun mơn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị vững
vàng, để nhận thức rõ vị trí vai trị của mình đối với nhân dân và đất nước.
Thầm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm
của hoạt động tố tụng. Vì thế số lượng, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán cũng
như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ Thẩm phán là yếu tố
mang tính quyết định đến hiệu quả q trình giãi quyết vụ án của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND năm 2002’ Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002; đến nay là Luật Tổ chức
TAND năm 2014, Hiến pháp năm 2013 đã quy định điều kiện, tiêu chuẩn của
Thẩm phán, cũng như quyền hạn, nghĩa vụ của họ khi tiến hành tố tụng ... đã góp
phần nâng cao một bước chất lượng của đội ngũ Thẩm phán những năm vừa qua.
Kết quả xét xử của Toà án là sản phẩm cuối cùng của một quá trình tố
tụng xét xử sơ thẩm. Thông qua bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật, tồn bộ kết quả của một quá trình tố tụng được đúc kết lại và khẳng định
21
một người nào đó là có tội hay khơng. Thẩm phán là người thay mặt cho Nhà
nước, được pháp luật trao quyền để thực hiện chức năng xét xử của Tịa án do đó
vị trí và vai trị của Thẩm phán được đánh giá song hành với vị trí, vai trị của
Tịa án. Thơng qua hoạt động xét xử của mình, Thẩm phán góp phần vào việc
bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ tính
mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người dân. Trong lĩnh vực hình
sự, phán quyết của Thẩm phán dẫn đến hậu quả pháp lý vô cùng quan trọng đối
với người bị kết án, người bị hại. Sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm phán
sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai. Điều này khơng chỉ ảnh hưởng đến một cá
nhân mà có thể làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng
của xã hội, vào pháp luật của Nhà nước ta. Qua phân tích trên, chúng ta nhận
thấy vị trí trung tâm của Thẩm phán trong hoạt động xét xử giải quyết sơ thẩm
vụ án hình sự cũng như trong hoạt động tư pháp hình sự.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được bắt đầu từ khi Tịa án nhận
được hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng việc
một bản án (quyết định). Giai đoạn xét xử sơ thẩm đựoc phân thành hai giai đoạn
là chuẩn bị xét xử và xét xử vụ án tại phiên tòa. Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian theo quy định của pháp luật để tòa án
thực hiện các hoạt động tố tụng và các công việc cần thiết khác chuẩn bị cho việc
xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Đối với Thẩm phán được phân cơng làm chủ toạ phiên tồ - Trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, được giao nhiều quyền, trừ quyền ra quyết định
thay đổi biện pháp tạm giam. Đây cũng là vấn đề cần xem xét lại, vì việc quy
định cho Chánh án, Phó Chánh án mới là người có quyền này chủ yếu là đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng nhưng lại khơng phù
hợp với thực tiễn xét xử, vì Thẩm phán mới là người nghiên cứu hồ sơ vụ án,
22
mới biết được bị cáo có cần phải áp dụng hoặc thay đổi biện pháp tạm giam hay
không. Giả thiết, Thẩm phán đề xuất với Chánh án cần phải thay đổi biện pháp
tạm giam cho bị cáo nhưng Chánh án khơng đồng ý thì Thẩm phán có quyền
khiếu nại quyết định của Chánh án hay khơng, trong khi đó Thẩm phán có quyền
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, cịn tại phiên tồ thì Thẩm phán cịn có quyền bắt giam hoặc tha bị cáo.
Trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán chủ toạ phiên toà là người điều khiển
phiên tồ, nhưng do tư duy cũ và thói quen của Thẩm phán từ thế hệ này qua thế
hệ khác quá tập trung vào việc "khuất phục" bị cáo nên khơng quan tâm đến việc
điều khiển phiên tồ nhất là điều khiển việc tranh luận giữa người bào chữa
(Luật sư) với Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Đây là khâu yếu nhất của Thẩm
phán chủ toạ phiên toà hiện nay.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định khi xét hỏi bị cáo, chủ toạ
phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của
vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ
hoặc có mâu thuẫn, nhưng trên thực tế hầu hết các phiên toà hiện nay, chủ toạ
phiên toà khơng để cho bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình
tiết của vụ án, mà chủ toạ phiên toà đặt ngay các câu hỏi theo diễn biến sự việc
mà nội dung bản cáo trạng nêu. Thực tế thì Thẩm phán chủ toạ phiên tồ hỏi là
chính, hỏi hết cả phần của Kiểm sát viên và người bào chữa; hỏi như một Điều
tra viên hoặc Kiểm sát viên hỏi bị can trong giai đoạn điều tra; Thẩm phán khơng
chỉ hỏi mà cịn giáo dục bị cáo, bình luận, nhận xét, tỏ thái độ đối với lời khai
của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; tại phiên toà sơ thẩm người ta
chỉ thấy chủ toạ phiên tồ nói. Chủ toạ phiên tồ khơng chỉ hỏi mà cịn giải
thích, cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về Bộ luật hình sự, trong khi
23
đó thì lại khơng giải thích cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về quyền
và nghĩa vụ của họ tại phiên toà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Nếu vai trị của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng, thường có vai trị thụ
động, rất ít khi hoặc khơng tham gia thẩm vấn mà chỉ là người điều khiển phần
thẩm vấn cũng như phần tranh tụng của các bên. Do Tịa án khơng biết trước hồ
sơ vụ án, nên sự tranh tụng giữa hai bên là nội dung chủ yếu của phiên tòa và
nhiệm vụ của các bên trong quá trình tranh tụng là thuyết phục Tòa án mà đại
diện là Thẩm phán tại phiên tịa chấp nhận u cầu của mình. Cịn đối với vai trò
của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi (thẩm vấn) thì lại khác. Trong tố tụng thẩm
vấn thì Thẩm phán là người có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết các vụ
án hình sự so với những người tiến hành tố tụng khác, đồng thời Thẩm phán còn
là người giữ vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Chính vì vậy, so sánh với
Tố tụng tranh tụng khi vai trò của Thẩm phán được đề cao và nắm giữ vai trị
quyết định thì các chức năng buộc tội và bào chữa tồn tại khá mờ nhạt và thụ
động. Thẩm phán là người có trách nhiệm tìm ra sự thật trên cơ sở các sự việc,
tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, các Thẩm phán sẽ thực
hiện trực tiếp việc thẩm vấn các nhân chứng một cách tích cực chứ không phải
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tịa và luật sư bào chữa. Chính
vì vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo tố tụng thẩm vấn được đề cao
như vậy, nên Thẩm phán vừa là người tiến hành tố tụng, vừa là người điều khiển
tồn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tịa của những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng khác. Để thực hiện chức năng của mình, trước khi
mở phiên tịa xét xử Thẩm phán phải lập kế hoạch xét hỏi, dự kiến xét hỏi những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Theo quy định về trình tự xét hỏi thì “khi
xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…”. Do
24
vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải xác định được đầy đủ các tình tiết về
từng sự việc, từng hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan đến việc
giải quyết vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Thông thường, khi xét hỏi tại các
phiên tòa các thẩm phán phải căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan
điều tra thu thập có trong hồ sơ để có những kế hoạch xét hỏi khác nhau như:
- Đối với vụ án chỉ có một bị cáo bị truy tố về một tội danh thì việc xét hỏi
cần tập trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội, các tình tiết là yếu tố định
khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng mà Viện kiểm sát truy tố, các tình tiết là
yếu tố gỡ tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến
trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.
- Đối với vụ án tuy chỉ có một bị cáo những lại bị truy tố theo nhiều tội
danh khác nhau, thì việc xét hỏi cần theo một trình tự như: xét hỏi hết hành vi
phạm tội này, rồi chuyển qua xét hỏi tới hành vi phạm tội khác, lần lượt cho đến
hết các hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố song cũng cần làm rõ tất cả
các tình tiết liên quan đến vụ án như trường hợp trên.
- Đối với vụ án có nhiều bị cáo, bị truy tố về một tội danh hoặc nhiều tội
danh khác nhau thì cần thẩm vấn từng bị cáo một về hành vi phạm tội hoặc xét
hỏi từng bị cáo về từng tội danh như xét hỏi đối với trường hợp bị một bị cáo bị
truy tố một tội. Tuy nhiên, đối với trường hợp nhiều bị cáo bị truy tố cùng một
tội, thì khi xét hỏi cần phải làm rõ sự liên quan đến nhau của các bị cáo, cũng
như vai trò của từng bị cáo trong vụ án…
Trong quá trình điều khiển việc xét hỏi, sau khi Thẩm phán đã hỏi xong,
thì Thẩm phán phải thường xuyên theo dõi việc xét hỏi tiếp tục của những người
tiến hành tố tụng khác, nếu thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc
những câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật điều tra, xúc phạm đến
danh dự, nhân phẩm của con người thì có quyền u cầu người hỏi đặt lại câu
25