Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

(Luận văn thạc sĩ) PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.61 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC DŨ

PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC DŨ

PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. TRẦN QUANG HUY

HÀ NỘI, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Các thơng tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Dũ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................... 7
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT ......................................................................................................... 8
1.1. Các khái niệm ............................................................................................ 8
1.2. Pháp luật về hỗ trợ, tái đinh cư khi Nhà nước thu hồi đất ...................... 15
1.3. Khái quát về quá trình hình thành các quy định của pháp luật về hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .............................................................. 20
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........ 24
2.1. Những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng ảnh
hưởng đến việc áp dụng pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ................................................................................................................... 24
2.2. Việc ban hành các quy định về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất tại thành phố Đà Nẵng .............................................................................. 27
2.3. Thực trạng công tác hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng thể hiện qua một số dự án cụ thể. ............................ 32
2.4. Đánh giá về công tác hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng .................................................................................. 50


Chương 3 GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TĐC
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ............................................................................................................ 59
3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ....................................................................................................... 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật về hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng............................ 62
KẾT LUẬN ................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT


Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CBCCVC

Cán bộ, cơng chức, viên chức

2

CCHC

Cải cách hành chính

3

GPMB

Giải phóng mặt bằng

4

KNTC

Khiếu nại, tố cáo

5




Nghị định

6

NQ

Nghị quyết

7

NXB

Nhà Xuất bản

8

TĐC

Tái định cư

9

TTg

Thủ tướng

10


TT

Thông tư

11

TW

Trung ương

12

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay trong thời gian đầu khi vừa chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng,
trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào ngày 01/01/1997, thành phố
Đà Nẵng đã đẩy mạnh đô thị hóa trên 56 phường, xã của 08 quận, huyện.
Cơng tác đền bù, giải phóng mặt bằng được thành phố xác định là nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu, được lựa chọn là chủ đề của nhiều năm liên tiếp “Năm
giải tỏa đền bù, TĐC”. Tính đến nay, thành phố đã triển khai gần 836 dự án,
gần 150 nghìn hộ giải tỏa, đã giải quyết bố trí TĐC hơn 40 nghìn lơ đất và
chung cư.
Để đạt được con số khổng lồ trên là nhờ vào sự chỉ đạo quyết liệt, sáng
tạo với nhiều cách làm hay, mạnh dạn đột phá tạo cơ chế chính sách phù hợp,

đáp ứng được tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị; và đặc biệt
là sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính quyền trong việc tuyên truyền,
vận động thuyết phục, tạo được lòng tin và được sự ủng hộ của nhân dân
thành phố.
Trong q trình thực hiện, khó khăn xuất phát từ thực tế triển khai các
dự án, những kiến nghị được người dân đặt ra, yêu cầu thành phố phải có
những thay đổi phù hợp. Hàng năm, Nhà nước đã từng bước hoàn thiện pháp
luật về đất đai và ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện về công
tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn. Tuy nhiên, cơng tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC có những
vướng mắc do một số văn bản quy định chưa phù hợp, vừa chồng chéo, không
rõ ràng, vừa thiếu quy định thống nhất, vẫn đang gây nhiều bức xúc trong
thực tế triển khai, nhất là những bức xúc của người bị thu hồi đất về phương
thức thực hiện hỗ trợ, TĐC. Vì vậy, pháp luật về các vấn đề này cần được tiếp
tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế cuộc sống của người dân.

1


Trong thời gian tới, thành phố Đà Nẵng vẫn tiếp tục quy hoạch, điều
chỉnh quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng, chỉnh trang đô thị nên việc nghiên
cứu pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết nhằm
tìm ra giải pháp khắc phục các hạn chế, thiếu sót trong thực tế hiện nay và đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC
trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Xuất phát từ lý do trên,
học viên đã chọn đề tài “Pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn thạc sĩ Luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề hết sức
nhạy cảm và phức tạp tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của đất

nước. Qua tìm hiểu, được biết trong thời gian qua có nhiều tài liệu, đề tài và
cơng trình nghiên cứu liên quan đến nội dung này như:
- Luận văn Tiến sĩ: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật
về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” của Đào Chung Chính, Đại
học Nơng nghiệp Hà Nội (2014). Luận văn đã đề xuất khi thu hồi đất để sử
dụng vào các mục đích phi nơng nghiệp cần phải được tính tốn chặt chẽ, tiết
kiệm, phải có giải pháp bù đắp lại nguồn tài nguyên có hạn, khơng tái tạo này
thơng qua các quy định cụ thể hoặc cơng cụ tài chính; tính giá bồi thường về
đất cho người dân phải căn cứ vào thời giá thị trường và không chỉ căn cứ vào
các mục đích sử dụng của thửa đất hiện tại mà cần phải xem xét đến cả cơng
năng của thửa đất đó trong tương lai; tơn trọng và bảo đảm bình đẳng cho
người có đất bị thu hồi được tham gia vào quá trình ra quyết định trong việc
thu hồi đất, giải phóng mặt bằng…
- Luận văn thạc sĩ Quản lý Đất đai: “Đánh giá mức độ hài lòng của
người dân và các vấn đề bất cập trong giải tỏa, bồi thường và tái định cư trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Long” của Nguyễn Chí Cường, Đại học Cần Thơ (2016).

2


Tác giả chỉ ra mức độ hài lòng của người dân chưa cao trong công tác giải
tỏa, bồi thường, TĐC và chỉ ra nguyên nhân, cụ thể do giá tiền bồi thường
được cho là thấp hơn giá thị trường; bố trí tái định cư có diện tích nhỏ khơng
đủ ở; chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tiềm kiếm việc làm chưa hiệu quả…
- Bài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng triển khai công tác thu hồi đất,
bồi thương, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật” của nhóm tác giả
Đào Chung Chính, Đặng Hùng Võ, Nguyễn Thanh Trà đăng trên Tạp chí
Khoa học và Phát triển Số 03/2013, cho rằng chính sách giá đất hiện hành còn
nhiều mâu thuẫn; khi thu hồi đất, phải xác định giá đất cụ thể; cần quan tâm
đến việc giao đất sản xuất mới cho những trường hợp đã bị thu hồi phần lớn

hoặc thu hồi hết đất sản xuất; tăng mức hỗ trợ ổn định đời sống, việc làm; ưu
tiên cho người dân được đăng ký mua đất thuộc các dự án phát triển nhà, đô
thị với giá ưu đãi, thực hiện cơ chế đất đổi đất hay miễn thuế khi người dân
mua đất tại các dự án khác… Ngồi ra cịn có bài nghiên cứu “Bình luận và
góp ý với các quy định về thu hồi đất, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” của TS. Nguyễn Quang Tiến
đăng trên Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 5/2013; bài nghiên cứu “Giá đất
trong Luật Đất đai năm 2013” của TS. Nguyễn Thị Dung đăng trên Tạp chí
luật học, số 11/2014.
- Giáo trình: “Quản lý nhà nước về đất đai” của tác giả Nguyễn Khắc
Thái Sơn, NXB Nơng nghiệp Hà Nội, 2007. Giáo trình nêu một cách tổng
quát các nội dung quản lý nhà nước về đất đai qua các thời kỳ trước Luật đất
đai 2013.
- Cuốn sách: “Pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam”
của tác giả Phan Trung Hiền, NXB Đại học Cần Thơ, 2016. Tác giả nêu
các vấn đề đang tồn tại phổ biến trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư hiện nay.
- Cuốn sách: “Bình luận chế định quản lý nhà nước về đất đai trong

3


Luật Đất đai 2013” của TS. Trần Quang Huy, NXB Tư Pháp, 2017. Cuốn
sách có 16 chương, trong đó tác giả dành riêng 02 chương để bình luận các
quy định về thu hồi đất và các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất.
Các luận văn, tài liệu và đề tài nêu trên được nghiên cứu cơng phu, cung
cấp một nhìn tồn diện về hệ thống quy định của pháp luật về công tác hỗ trợ,
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, các nghiên cứu, đề tài này đánh
giá về công tác hỗ trợ, TĐC theo quy định của pháp luật nói chung hoặc

nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC ngoài địa bàn thành
phố Đà Nẵng. Trong khi đó, tình hình giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng vẫn còn diễn biến phức tạp, các vấn đề liên quan đến giải tỏa,
đền bù trước đây vẫn cịn phải tiếp tục xử lý. Vì vậy, cần nghiên cứu tồn
diện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về công tác hỗ
trợ, TĐC để giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, đúng chủ trương chính
sách, đúng pháp pháp luật, phù hợp thực tiễn tại thành phố từ đó đem lại sự
đồng thuận của người dân khi thực hiện cơng tác giải phóng mặt bằng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Luận văn thạc sĩ Luật về đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn,
góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật về
hỗ trợ, TĐC trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát và tìm hiểu tổng quan quy định của pháp luật về
công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất; đánh giá thực
trạng áp dụng tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện các nhiệm vụ chính như sau:
Một là: Khái quát về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất; nêu được
mục đích, ý nghĩa của việc Nhà nước hỗ trợ, TĐC khi thu hồi đất; khái quát
quá trình hình thành các quy định của pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất;
Hai là phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hỗ trợ TĐC

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020.
Ba là đề xuất các kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật và các giải
pháp để nâng hiệu quả áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện các quy định của pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
- Pham vi về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp
luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
thông qua quy định của thành phố Đà Nẵng, một số dự án giải tỏa đang triển
khai và các vụ khiếu nại liên quan đến hỗ trợ, tái định khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn thành phố.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
- Các giải pháp được đề xuất áp dụng thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2021 trở về sau.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn thạc sĩ về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng và pháp luật đất đai.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử khi nghiên
cứu những vấn đề lý luận chung về công tác hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất.
Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được sử dụng chủ yếu khi
phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng chủ yếu khi đưa ra định
hướng, giải pháp hoàn thiện về pháp luật và các giải pháp để nâng cao hiệu quả
công tác hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hỗ trợ, TĐC khi
Nhà nước thu hồi đất và hệ thống hóa các quy định của pháp luật về công tác
hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích, tìm ra những hạn chế, bất cập
trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua phân tích thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng trong việc áp dụng pháp
luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và cùng với cơ sở lý luận, luận
văn đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện, nâng cao hiệu quả việc áp
dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và có một số kiến

6


nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 03 chương và lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, cụ thể các chương gồm:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi
đất tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật về hỗ trợ, TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất
Vấn đề sở hữu là vấn đề gốc để giải quyết các mối quan hệ pháp luật đất
đai tiếp theo. Đối với những quốc gia công nhận quyền tư hữu về đất đai, khi
nhà nước cần một diện tích đất cho mục đích cơng ích thì đa phần sẽ tiến hành
trưng mua và người có quyền tư hữu với thửa đất đó là người bán tài sản
thuộc sở hữu của mình. Đối với Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử
dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.Với vai trò đại
diện chủ sở hữu thì Nhà nước có quyền giao đất, cho th đất, cơng nhận
quyền sử dụng đất. Vì vậy, khi Nhà nước sử dụng và mục đích cơng ích, Nhà
nước sẽ thu hồi đất đã giao, đã cho thuê và có bồi thường, hỗ trợ, TĐC.
Theo Luật Đất đai 2013, Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết
định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.
Về thẩm quyền thu hồi đất, theo Điều 66, Luật Đất đai năm 2013 quy

định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp
sau đây: Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tơn giáo, người Việt Nam định cư
ở nước ngồi, tổ chức nước ngồi có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi, trừ trường hợp thu hồi đất ở của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; Thu hồi đất nơng nghiệp
thuộc quỹ đất cơng ích của xã, phường, thị trấn. Ủy ban nhân dân cấp huyện
quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: Thu hồi đất đối với hộ
8


gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; Thu hồi đất ở của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Trường hợp trong khu vực
thu hồi đất có cả đối tượng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
và cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy
quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất.
1.1.2. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt, hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào; còn
Nhà nước hỗ trợ khi thu hồi đất được thể hiện cụ thể thơng qua các chính sách
nhằm thể hiện sự nhân đạo, biểu hiện bản chất Nhà nước của dân, do dân và
vì dân của nước ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn của người dân bị thu hồi đất,
giúp đỡ một phần nào rủi ro mà họ phải gánh chịu, đồng thời giúp cho người
bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất và kinh doanh.
Theo Nghị định số 22/1998/NĐ-CP, là văn bản đầu tiên quy định chi tiết
về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, các khoản hỗ trợ bao gồm: Chi phí đào tạo
nghề, người sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước… Đến Luật Đất đai 2003,
khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đã được luật hóa, theo đó, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thơng
qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa
điểm mới. Hiện nay, theo khoản 14, Điều 3, Luật Đất đai 2013 thì hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để

ổn định đời sống, sản xuất và phát triển.
Như vậy, khái niệm hỗ trợ có bản chất là giúp đỡ, mang tính xã hội
(khác với bồi thường mang tính kinh tế). So với trước đây, thì hình thức hỗ
trợ có những điểm khác nhau cơ bản như: thứ nhất, về tên gọi, nếu trước đấy
gọi là hỗ trợ, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm thì nay được đổi thành
hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Thứ hai, mở rộng đối

9


tượng nhận hỗ trợ, đối với hình thức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm, có thêm đối tượng nhận hỗ trợ là người có đất thu hồi là đất ở
kết hợp kinh doanh dịch vụ mà phải chuyển chổ ở khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, chi phí di chuyển trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất đã quy định
thành khoản bồi thường chứ khơng cịn là hỗ trợ như trước đây. Thứ tư, các
văn bản hiện hành khơng cịn quy định khoản hỗ trợ đất nông nghiệp trong
khu dân cư, đất vườn, ao không được công nhận là đất ở trong các khoản hỗ
trợ của Nhà nước khi thu hồi đất vì các nội dung thể hiện tính chất hoạt động
bồi thường về đất.
1.1.3. Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Hiện nay, khái niệm tái định cư chưa được luật hóa. Có thể hiểu, TĐC
chỉ những ảnh hưởng tác động đến đời sống của người dân do bị mất tài sản,
nguồn thu nhập trong quá trình phát triển dự án; bất kể có phải di chuyển hay
khơng và các chương trình nhằm khơi phục cuộc sống của họ; nhà ở TĐC là
nhà được hỗ trợ cho những người bị thu hồi đất ở. Tuy nhiên, khơng phải gia
đình nào cũng được hỗ trợ nhà ở TĐC, chỉ có một số trường hợp mới được
hưởng chế độ này, cụ thể phân loại TĐC như sau:
- Dựa vào hình thức TĐC được phân ra thành 3 loại như sau: Di dân
vào vùng được đơ thị hóa; TĐC tại chỗ khi áp dụng triển khai các dự án chỉnh
trang khu dân cư; chuyển dịch nội ngoại thành;

- Dựa vào nguyện vọng của người dân: TĐC tự phát là việc mua bán, xây
dựng trái phép không đúng theo quy định; TĐC tự giác là việc TĐC thể hiện
các dự án, người dân tự giác chấp hành kế hoạch và phương thức TĐC, ngay cả
việc xây dựng lên chỗ ở mới các dự án phát triển nhà, cưỡng bức TĐC;
- Dựa vào tính chất: TĐC bắt buộc và TĐC tự nguyện.
Nhà ở TĐC là dùng để cấp cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện TĐC
10


khi bị Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật, theo đó điều kiện để
được TĐC quy định tại Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP như sau: Hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang
sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu
hồi đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai nếu thuộc trường
hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở cịn lại sau thu hồi khơng đủ
điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá
nhân khơng còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi
có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư; nếu hộ
gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các trường
hợp nêu trên mà khơng có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở tái
định cư thì được Nhà nước bồi thường bằng tiền.
Các nhóm TĐC được chia thành 03 nhóm: Nhóm thuộc diện TĐC; nhóm
thuộc diện hỗ trợ TĐC; nhóm thuộc diện xét mua nền TĐC.
- Nhóm thuộc diện TĐC được áp dụng khi Hộ gia đình, cá nhân có nhà ở
hợp pháp mà phải di chuyển chỗ ở và khơng cịn chỗ ở nào khác trên địa bàn
cấp xã nơi có đất ở bị thu hồi. Việc bố trí TĐC thực hiện bằng việc giao đất ở,
nhà ở hoặc bằng tiền;
- Nhóm thuộc diện hỗ trợ TĐC áp dụng hộ gia đình, cá nhân, người Việt

Nam định cư ở nước ngoài nhận đất ở, nhà ở TĐC mà số tiền được bồi thường
về đất nhỏ hơn giá trị một suất TĐC tối thiểu, khoản hỗ trợ chênh lệch giữa giá
trị suất TĐC tối thiểu và số tiền được bồi thường về đất gọi là hỗ trợ TĐC;
- Nhóm thuộc diện mua nền đất TĐC, thứ nhất, khi bị thu hồi đất gắn với
nhà ở mà không đủ điều kiện bồi thường về đất ở và phải di chuyển chỗ ở và

11


khơng cịn chỗ ở nào khác trên địa bàn cấp xã nơi có đất ở bị thu hồi thì hộ
gia đình, cá nhân đó được xét mua một nền đất TĐC với diện tích tối thiểu;
thứ hai, trường hợp hộ gia đình nêu trên có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng
cùng chung sống trên cùng một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện tách thành
từng hộ gia đình riêng hoặc nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một
thửa đất ở thu hồi thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở TĐC và
tình hình thực tế ở địa phương quyết định mức đất ở, nhà ở TĐC cho từng hộ
gia đình.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của việc hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt mối quan hệ pháp luật đất đai (làm
chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
đất) mà cịn liên quan đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích
của người bị thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người
hưởng lợi từ việc thu hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức,
cá nhân…). Do vậy trên thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất
gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn đề hỗ trợ và TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều phương diện.
Trong hơn 20 năm kể từ ngày thành lập, thành phố Đà Nẵng đã triển
khai gần 836 dự án, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án này đã ảnh hưởng
đến gần 150 nghìn hộ giải tỏa. Thực tế cho thấy, do mất đất sản xuất, mất nơi

định cư đã làm cho người bị thu hồi đất khơng có nghề nghiệp ổn định, mất đi
nơi sản xuất kinh doanh sau khi bị thu hồi đất. Như chúng ta đã biết: Quyền
sử dụng đất được pháp luật bảo hộ và tại Điều 2 Hiến pháp 2013 xác định
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; cùng với các quyền công dân khác được Hiến pháp ghi

12


nhận: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã
hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi,
người khuyết tật, người nghèo và người có hồn cảnh khó khăn khác. Nhà
nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở”.
Vì vậy, Nhà nước ln có chính sách về xóa đói, giảm nghèo, chăm lo cho
người dân có nơi ở, nơi sản xuất mới tốt hơn so với trước khi bị thu hồi đất.
Mục tiêu tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất ổn định cuộc sống, sản xuất
và tạo việc làm.
Vấn đề đất đai ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và nhạy cảm; các
chính sách, pháp luật về đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về chính
trị. Điều này có nghĩa là nếu chủ trương, chính sách pháp luật đất đai đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn và được thực thi nghiêm túc sẽ góp phần vào việc
duy trì và củng cố sự ổn định chính trị; ngược lại, sẽ làm phát sinh những
điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về chính trị.
Một trong các chính sách, pháp luật về đất đai được xã hội quan tâm đó
là chính sách, pháp luật về hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Bởi vì
mảng chính sách, pháp luật này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị thu hồi đất. Trong trường hợp bị thu hồi đất quyền và lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp bị xâm hại, họ không chỉ mất
quyền sử dụng đất mà còn buộc phải di chuyển chỗ ở, hậu quả là cuộc sống
thường nhật của họ bị đảo lộn. Với quan niệm truyền thống của người Việt

Nam có an cư mới lạc nghiệp thì việc bị mất đất đai, nhà cửa thực sự ảnh
hưởng rất lớn đối với người bị thu hồi đất. Do vậy, họ phản ứng rất gay gắt,
quyết liệt thông qua việc khiếu nại đông người, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài
nếu không được Nhà nước hỗ trợ thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất đai nói
chung và khiếu kiện về hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng
tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định anh ninh, trật tự và dễ phát sinh thành các
13


điểm nóng. Cho nên việc giải quyết tốt vấn đề hỗ trợ là thực hiện tốt chính
sách an dân để phát triển kinh tế xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố về
sự ổn định của chính trị.
Thực tiễn cho thấy, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất ln là cơng
việc khó khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai thực hiện theo tiến độ đề
ra có ngun nhân do cơng tác hỗ trợ, TĐC khơng nhận được sự đồng thuận
từ phía người bị Nhà nước thu hồi đất. Xét dưới góc độ kinh tế, dự án chậm
triển khai thực hiện ngày nào là chủ đầu tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng
kể về lợi ích kinh tế do máy móc, vật tư, thiết bị không đưa vào hoạt động
được, người lao động khơng có việc làm trong khi doanh nghiệp vẫn phải trả
lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường xuyên và trả lãi xuất vay vốn
từ ngân hàng… Vì vậy, thực hiện tốt công tác hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất là điều kiện để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án
đầu tư góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao
tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Để duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội, góp phần vào cuộc xóa đói, giảm nghèo và tạo tiền đề cho các
bước phát triển tiếp theo.
Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt vấn đề hỗ trợ, TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất sẽ giúp cho người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định cuộc
sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa

điều này giúp củng cố niềm tin của người bị thu hồi đất vào đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời loại trừ cơ
hội để kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng nhân
dân khiếu kiện nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an tồn xã hội và làm
đình trệ sản xuất.

14


1.2. Pháp luật về hỗ trợ, tái đinh cư khi Nhà nước thu hồi đất

1.2.1. Khái niệm pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Khi Nhà nước thu hồi đất có thể phát sinh việc bồi thường hoặc hỗ trợ
cho đối tượng bị thu hồi đất. Mục đích của bồi thường là bồi hồn thiệt hại
cho người dân trên cơ sở hành vi hành chính thu hồi đất của Nhà nước. Bồi
thường chỉ phát sinh khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất của người dân.
Có thể nói, bồi thường trong thu hồi đất là trách nhiệm của Nhà nước khi tiến
hành ra quyết định thu hồi. Nhà nước thơng qua chính sách về đất đai của
mình “bù đắp” lại những thiệt thịi của người dân khi bị thu hồi đất.
Khác với bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, hỗ trợ không nhằm bù
đắp có tính ngang giá các giá trị mà người bị thu hồi đất bị thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất cho các mục đích cơng cộng, lợi ích quốc gia và cho
mục tiêu phát triển kinh tế mà có tính trợ giúp thêm từ phía Nhà nước. Sự
trợ giúp này giúp cho người bị thu hồi đất sẽ ổn định cuộc sống hơn, có
thêm nguồn tài chính để tái hòa nhập vào cuộc sống nơi ở mới hoặc có
thêm thời gian thích nghi tốt hơn cuộc sống ở nơi mới. Sự hỗ trợ này có thể
bao quát cả trường hợp bị thu hồi đất ở hoặc thu hồi đất nông nghiệp, tuy
nhiên mức độ hỗ trợ sẽ khác nhau. Những trợ giúp về tìm việc làm, có
cơng việc mới, thu nhập mới, hướng tới học nghề mới ngồi nơng nghiệp
được ổn định là rất q báu; đặc biệt, đối với hỗ trợ đất nông nghiệp nằm

trong khu dân cư hoặc đất vườn ao nằm trong khu dân cư thậm chí cịn cao
hơn mức bồi thường đối với đất nơng nghiệp đang mở ra khả năng tài
chính để họ thu xếp công ăn việc làm.
Pháp luật về TĐC điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thu hồi đất và
việc giải quyết nơi ở, đất sản xuất mới cho người bị thu hồi đất (chỉ có người
bị thu hồi đất mới liên quan đến giải quyết đất ở, đất sản xuất TĐC). Nhưng

15


nói như vậy khơng có nghĩa là pháp luật về TĐC điều chỉnh tất cả các quan
hệ kể trên.
Đối với nhóm quan hệ liên quan đến thu hồi đất về nguyên tắc thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật về thu hồi đất nói chung. Tuy nhiên, như đã
nói ở trên vấn đề TĐC là hậu quả trực tiếp của thu hồi đất, TĐC chỉ phát sinh
khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất. Bởi vậy, khi quy định về TĐC, nhất
thiết phải đề cập đến vấn đề thu hồi đất. Mặt khác, TĐC được xác định là một
trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở, nơi sản xuất mới cho người
dân bị thu hồi đất và phải di chuyển. Như vậy, TĐC không chỉ là một chế
định pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, mà ở một khía
cạnh khác, pháp luật về TĐC là một bộ phận các chính sách về an sinh xã hội
đối với người bị thu hồi đất khơng cịn nơi ở cần sự trợ giúp từ Nhà nước và
Nhà nước trong trách nhiệm xã hội của mình phải đáp ứng các nhu cầu chính
đáng của họ. Sở dĩ chúng ta xác định vị trí trên bởi pháp luật về TĐC là chính
sách mang tính xã hội của Nhà nước nhằm bù đắp cho người sử dụng đất
quyền lợi kinh tế của họ bị mất đi khi bị Nhà nước thu hồi đất bằng các chính
sách của mình. Nhà nước giúp đỡ người bị mất đất có thể tiếp cận, sử dụng
các quyền lợi về kinh tế được đền bù để tạo lập cuộc sống mới. Pháp luật về
TĐC đã tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất cho cơng tác TĐC trên thực tế nói
riêng và cơng tác bồi thường để giải phóng mặt bằng trên thực tế nói chung.

Thơng qua các quy định và q trình tổ chức thực hiện cơng tác TĐC, Nhà
nước đã cho thấy sự quan tâm đối với những người dân phải chịu thiệt thòi do
hành vi thu hồi đất mang lại; hay như nhóm người phải di chuyển chỗ ở, nơi
sản xuất tới một nơi mới, với tập quán mới, cơ sở vật chất mới và điều kiện
sống mới thì việc nơi bố trí TĐC để có thể đáp ứng được cơ bản nguyện vọng
của người dân, giúp họ sớm hịa đồng với mơi trường mới là một điều hết sức
có ý nghĩa. Như vậy, pháp luật về TĐC khơng chỉ đơn thuần là một chế định

16


pháp luật về lĩnh vực đất đai mà còn là một bộ phận chính sách an sinh xã hội
đối với người dân sau thu hồi đất, thể hiện được sự tơn trọng quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân, của Nhà nước thơng qua đó bộc lộ tính “của dân, do
dân, vì dân” của Nhà nước Việt Nam ta.
1.2.2. Quy định của pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/7/2014 thay thế Luật Đất
đai năm 2003, trong đó quy định sửa đổi, bổ sung về bồi thường, hỗ trợ, TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể hóa các quy định này, ngày 15/5/2014,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Đến ngày 30/6/2014, Bộ Tài nguyên
và Môi trường ban hành Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết
về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Thơng tư này có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 13/8/2014.
- Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống, tại điểm a khoản 2 Điều 83
Luật Đất đai và Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa và
bổ sung so với Nghị định số 69/2009/NĐ-CP như sau: Hỗ trợ chế độ trợ cấp
ngừng việc cho người lao động không quá 06 tháng khi chủ cơ sở sản xuất,
kinh doanh bị thu hồi đất dẫn đến ngừng lao động; Nếu được bồi thường bằng

đất nơng nghiệp thì được hỗ trợ: Giống cây trồng, giống vật nuôi cho vụ sản
xuất nông nghiệp đầu tiên, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo
vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với
sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp. Chính sách hỗ trợ ổn định
đời sống và sản xuất qua các thời kỳ có nhiều thay đổi khác nhau theo hướng
tăng thêm quyền lợi cho người bị thu hồi đất và mở rộng phạm vi áp dụng.
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP khơng đưa chính sách hỗ trợ cho người bị thu
hồi đất đối với hộ nghèo;

17


- Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, tại điểm b khoản 2
Điều 83 Luật Đất đai; Điều 20 và Điều 21 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với
những kế thừa và bổ sung so với Nghị định số 69/2009/NĐ-CP như sau: Mức
hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng
giá đất của địa phương; trường hợp thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ
của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm theo quy định tại điểm b khoản
2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP đã bỏ khung
hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 đến 5 lần quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
mà chỉ quy định mức trần không quá 5 lần, mức cụ thể do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế địa phương;
- Hỗ trợ TĐC, tại Điều 79, điểm c khoản 2 Điều 83, Điều 85 Luật Đất
đai; Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa Nghị định số
69/2009/NĐ-CP về điều kiện TĐC phải có đất bị thu hồi và phải di chuyển
chỗ ở, TĐC bằng hình thức nhà ở, đất ở tại khu TĐC hoặc nhận tiền hỗ trợ
để tự lo chỗ ở. Hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở, nhà ở TĐC mà số tiền
được bồi thường về đất nhỏ hơn giá trị một suất TĐC tối thiểu thì được hỗ
trợ khoản chênh lệch giữa giá trị suất TĐC tối thiểu và số tiền được bồi

thường về đất;
- Hỗ trợ đối với người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, tại
Điều 14 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP giữ nguyên quy định tại Điều 21 Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP. Như vậy, người đang sử dụng nhà ở hợp pháp
thuộc sở hữu Nhà nước không được bồi thường về nhà, đất; được bồi thường
chi phí tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp nhà ở; không được giải quyết TĐC mà
chỉ được thuê nhà tại khu TĐC;

18


- Hỗ trợ người đang thuê nhà ở không thuộc sở hữu Nhà nước, tại Điều
23 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP kế thừa Nghị định số 197/2004/NĐ-CP với
quy định: Hộ gia đình, cá nhân đang th nhà ở khơng phải là nhà ở thuộc sở
hữu Nhà nước khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ
trợ chi phí di chuyển tài sản theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
- Đối với hai khoản hỗ trợ là hỗ trợ di chuyển và hỗ trợ sản xuất, đời
sống tại khu TĐC, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
chưa quy định về loại hỗ trợ này;
- Hỗ trợ đất nông nghiệp bị thu hồi. Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành chưa quy định về loại hỗ trợ này. Như vậy hỗ trợ đất
nông nghiệp trong khu dân cư lần đầu tiên được quy định tại Nghị định số
197/2004/NĐ-CP với mức hỗ trợ từ 20% đến 50% giá đất ở, diện tích được
hỗ trợ là tồn bộ diện tích đất nơng nghiệp bị thu hồi không vượt hạn mức
giao đất nông nghiệp tại địa phương. Đến Nghị định số 84/2007/NĐ-CP quy
định thêm đối tượng hỗ trợ đối với đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở
với diện tích đất nơng nghiệp được hỗ trợ không quá 5 lần hạn mức đất ở địa
phương. Sang Nghị định số 69/2007/NĐ-CP giới hạn diện tích đất nông
nghiệp được hỗ trợ không quá 5 lần hạn mức đất ở tại địa phương;
- Hỗ trợ khác, tại điểm d khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai và Điều 25 Nghị

định số 47/2014/NĐ-CP với những kế thừa những quy định tại Điều 23 Nghị
định số 69/2009/NĐ-CP với mục đích: Bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống
và sản xuất, công bằng đối với người bị thu hồi đất; trường hợp đất nhận
chuyển quyền vượt hạn mức mà khơng có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc khơng đủ điều
kiện bồi thường thì được xem xét hỗ trợ.

19


×