BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
PHANTHAVIXAY VILAXAY
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC
HÀNH CHÍNH Ở THỦ ĐƠ VIÊNG CHĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
PHANTHAVIXAY VILAXAY
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC
HÀNH CHÍNH Ở THỦ ĐƠ VIÊNG CHĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành chính – Hiến pháp
Mã số: 603801002
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu của luận
án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
PHANTHAVIXXAY VILAXAY
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CHDCND
Cộng hịa dân chủ nhân dân
CBCC
Cán bộ cơng chức
CHXHCN
Cộng hịa xã hộichủ nghĩa
KSNDTC
Kiểm sát nhân dân tối cao
NDCM
Nhân dân cách mạng
Nxb
Nhà xuất bản
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CHỦ YẾU VỀ ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC HÀNH CHÍNH. ............................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của cán bộ, cơng chức hành chính ........7
1.1.1. Khái niệm cán bộ, cơng chức hành chính ..................................................7
1.1.2. Đặc điểm cán bộ, cơng chức hành chính ...................................................3
1.1.3.Vai trị của cán bộ, cơng chức hành chính ..................................................16
1.2. Khái niệm, đặc trưng, vai trò, chủ thể, nội dung, hình thức và phương
pháp của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ..........................19
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ...................19
1.2.2. Đặc trưng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức hành chính .................23
1.2.3. Vai trị của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - cơng chức hành chính ................24
1.2.4. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức hành chính ...................28
1.2.5. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - cơng chức hành chính ..................30
1.2.6. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - cơng chức hành chính ............32
1.3. Sự cần thiết của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính .......32
1.3.1. Tình tất yếu về nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức hành chính ...................................................................................................32
1.3.2. Yêu cầu của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính................33
1.4. Kinh nghiệm của một số nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức hành chính ........................................................................................35
1.4.1. Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính của nước
ngồi .....................................................................................................................35
1.4.2. Kinh nghiệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành
chính đối với Thủ đơ Viêng Chăn và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào .....38
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CƠNG
CHỨC HÀNH CHÍNH Ở THỦ ĐƠ VIÊNG CHĂN VÀ KIẾN NGHỊ ..................40
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đơ Viêng Chăn ............40
2.2.Tình hình đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính của Thủ đơ Viêng
Chăn.....................................................................................................................44
2.2.1. Về đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn ..........................................44
2.2.2. Về thành phần cơ cấu của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ởThủ
đơ Viêng Chăn ......................................................................................................45
2.3. Tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức
hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn .....................................................................47
2.3.1.Thực trạng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - công chức hành chính ở Thủ
đơ Viêng Chăn ......................................................................................................47
2.3.2. Những ưu điểm, hạn chế trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn .........................................................................60
2.3.3. Ngun nhân của những ưu điểm và hạn chế ............................................66
2.4. Một số kiến nghị ..........................................................................................70
2.4.1. Qn triệt quan điểm và hồn thiện chính sách bảo đảm công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn. .................70
2.4.2. Hoạch định chiến lược và chủ động thực hiện quy hoạch, kế hoạch đối
với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn .....76
2.4.3. Hồn thiện chương trình, nội dung, hình thức và điều kiện đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ởThủ đô Viêng Chăn ................................78
KẾT LUẬN ..................................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào cũng như nhiều nước
trên thế giới, đã và đang tiến hành một cách tích cực việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, iệu quả quản lý hành chính và
phát triển đất nước.
Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức theo yêu
cầu của cải cách hành chính là một nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng (Đảng
NDCM) Lào lần thứ IX tiếp tục khẳng định sự cần thiết và tầm quan trọng của việc
đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không
chỉ trong giai đoạn hiện nay mà còn cả về lâu dài. Đảng Nhân dân cách mạng
(NDCM) Lào luôn khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Kay sỏn Phôm Vị Hán, lãnh tụ kiệt xuất của
cách mạng Lào đã chỉ rõ: Muốn thực hiện được đường lối, chính sách của Đảng
phải có một lực lượng cán bộ vững mạnh. Cán bộ là vốn quý nhất của Đảng, là
người lãnh đạo nhân dân, là người phục tùng nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với
qun chúng”1.
Thành phố Viêng Chăn - Thủ đô của nước CHDCND Lào, là trung tâm
kinh tế - văn hóa lớn nhất của Lào, là đơn vị đi đầu của cả nước về thực hiện cải
cách hành chính. Trong bối cảnh mới của hội nhập quốc tế, bộ máy hành chính của
Thành phố nói riêng, cả nước nói chung đang có sự thay đổi căn bản về chức năng,
nhiệm vụ quản lý và cung ứng dịch vụ công. Sự chuyển đổi việc sử dụng quyền lực
Nhà nước từ tập quyền sang hướng nền hành chính có sự phân cấp, có sự kết hợp
hài hòa giữa tập trung với phân quyền hành chính, chuyển giao từng phần nhiệm vụ
của Trung ương xuống cho địa phương đang đặt ra những thách thức mới cho cơng
tác quản lý và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Mặt khác, nền kinh tế
có sự thay đổi mạnh mẽ từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cũng là đòi hỏi phải thay đổi phương thức quản lý cho phù hợp.
1
Káy Són Phơm Vị Hán (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, thủ đô Viêng Chăn.
tr. 68, 69.
2
Hơn nữa, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế đối
với các nước cũng như điều kiện mới trên thế giới và khu vực đã ảnh hướng không
nhỏ đối với nước Lào.
Trong thời gian qua, chính quyền địa phương của Thủ đơ Viêng Chăn đã
hết sức cố gắng tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức
hành chính. Điều đó, chung ta đã đào tạo, bồi dưỡng được cán bộ, cơng chức về
chất lươngj và số lượng, góp phần và giành được những thành tựu trong quá trình
xây dựng và phát tiển Thủ đô cũng như đất nước nói chung. Tuy nhiên, do với yêu
cầu mới hiện nay. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngủ cán bộ hành chính cịn gặp
nhiêu khó khăn, hạn ché; chưa đáp ứng những sự địi hỏi mới theo chính sách nhà
nước cũng nhu hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính nhà nước. Về đào tạo, bồi
dưỡng chưa đi theo kế hoạch; chương trình, nội dung chưa phù hợp và chưa thực
sự bán sát vào việc quản lý nhà nước và dịch vụ cơng, phục vụ nhân dân. Điều đó,
đã ảnh hướng đến chất lượng của một số cán bộ, phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng và trình độ chun mơn chưa cao, chưa đủ tầm và có tình trạng vẫn thừa vẫn
thiếu cả chất lượng và số lượng. Do vậy, để khác phục những hạn chế và đáp ứng
kịp thời theo yêu câu mới; việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức là một đòi hỏi bức thiết và là điều kiện tiên quyết cho việc đổi mới
phương thức quản lý nhà nước về lĩnh vực này trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào.
Chiến lược phát triển kinh tế của Thành phố Viêng Chăn phấn đấu giai đoạn
năm 2010-2015 và 2015-2020 cũng khẳng định và địi hỏi rất lớn đội ngũ cán bộ,
cơng chức của Thành phố phải được nâng cao hơn nữa về năng lực và đạo đức cơng
vụ.
Vì các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức hành chính ở thủ đơ Viêng Chăn ” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một vấn đề quan trọng,
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trên thực tế cũng như trên phương diện
khoa học quản lý hành chính nhà nước đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên
3
quan đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính và mỗi đề tài có
mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau và có những đóng góp nhất định như :
- Hồn thiện về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ngành giao
thông vận tải, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính cơng của Lê Thành Hà, Hà Nội,
2007.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính xã, phường, thị trấn trên
địa bản Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính cơng của
Trần Thị Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
- Đào tạo, bồi dưỡng cơng chức hành chính cấp tỉnh ở Bình thuận, Luận văn
thạc sĩ luật học, chuyên ngành lý luật và lịch sử Nhà nước và pháp luật của Võ Duy
Quý, Hà Nội, 2008.
Ngồi ra cũng có nhiều hội nghị, hội thảo, bài báo… bàn về vấn đề này
nhưng chưa có đề tài nào đề cập đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức
hành chính ở Thủ đơ Chăn, nước CHDCND Lào một cách tổng hợp và chuyên biệt.
Từ thực tiễn này, vấn đề thiết yếu là nên có một cơng trình nghiên cứu, đánh giá
tổng qt cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính qua thực tiễn
tại một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở Thủ đô Viêng Chăn và đánh giá những thực trạng đó, luận văn hướng
tới mục đích đề xuất các kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ở Thủ đô Viêng Chăn trong những năm tới.
Xuất phát từ mục đích trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lý luận về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính
trên cơ sở làm rõ các khái niệm cán bộ, công chức, khái niệm đào tạo, bồi dưỡng;
làm rõ quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước Lào về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức hành chính;
- Nghiên cứu tình hình cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành
chính qua thực tiễn tại Thủ đơ Viêng Chăn, Phân tích làm rõ thực trạng, vạch ra
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên khía cạnh thực tiễn quản lý cũng như
chính sách và quy định của pháp luật. Từ đó, so sánh, đối chiếu, rút ra các bài học
4
kinh nghiệm, đề xuất kiến nghị và các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Luận văn nghiên cứu thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để định hướng
nghiên cứu.
Tùy thuộc vào nội dung vấn đề cụ thể thuộc đề, tác giả luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp thống kê, thu thập
thông tin, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, để có đủ các tài liệu, số liệu,
luận cứ nhằm giải quyết các vấn đề đã nêu.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài trình bày một cách có hệ
thống các luận cứ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức hành chính. Mặt
khác, nội dung luận văn đã chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính. Do đó, luận văn có những đóng góp nhất
định ở một số điểm sau:
- Luận văn nêu lên được các khái niệm cơ bản về cán bộ, công chức; khái
niệm về đào tạo, bồi dưỡng; những nhân tố và yêu cầu đối với đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức hành chính. Từ đó, tạo tiền đề lý luận và thực tiễn để đề xuất một
số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn.
- Luận văn phân tích, so sánh các quy định tại các văn bản chuyên ngành
có liên quan đến cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính, đồng
thời phân tích các giá trị thực tiễn của lĩnh vực này làm cơ sở cho việc đánh giá thực
tiễn đào tao, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn. Qua
5
đó, đề tài đã làm nổi bật tính cấp thiết của việc hồn thiện dần các văn bản chun
ngành có liên quan và sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo nhằm góp phần gia
tăng hiệu quả cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính ở Thủ đơ
Viêng Chăn.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng
chức hành chính ở Thủ đơ Viêng Chăn, luận văn xây dựng được hệ thống những
quan điểm cơ bản, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức hành chính ở Thủ đô Viêng Chăn.
Các luận cứ và giải pháp nêu trong luận văn có thể được sử dụng cho việc
hồn thiện các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành
chính trên thực tiễn. Mặt khác, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo,
giảng dạy và học tập của giảng viên, sinh viên và cán bộ, công chức đang công tác
tại các cơ quan hành chính nhà nước và một số lĩnh vực khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, phần nội dung, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục. Phần nội dung luận văn được chia thành 2 chương:
Chương 1: Những văn đề lý luận cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức hành chính.
Chương 2:
Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính
ở Thủ đơ Viêng Chăn và kiến nghị.
6
Chương 1
NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CHỦ YẾU
VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của cán bộ, cơng chức hành chính
1.1.1. Khái niệm cán bộ, cơng chức hành chính
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ:
Ở CHDCND Lào, cán bộ là lực lượng chủ yếu trong các cơ quan hành chính
nhà nước, trong đó đại số cán bộ có thể giữ các chức vụ khác nhau. Thuật ngữ “cán
bộ” xuất hiện nhiều trong các văn bản chính trị, pháp luật và quản lý nhà nước. Tuy
nhiên, do trải qua các thế kỳ khác nhau nên khái niệm cán bộ cũng khơng hồn tồn
thống nhất. Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội Lào vào những năm
50-70 của thế kỷ XX, để chỉ một lớp người, những chiến sĩ cách mạng chịu hy sinh,
gian khổ, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
thuật ngữ này được dùng phổ biến chỉ tất cả những người thoát ly tham gia hoạt
động kháng chiến, để phân biệt với nhân dân. Theo cách hiểu thông thường cán bộ
được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền nhà
nước, Đảng, đồn thể, qn đội. Dưới góc độ khoa học quản ý hành chính nhà nước,
cán bộ được coi là những người có lương từ cán sự trở lên, để phân biệt với nhân
viên có mức lương thấp hơn cán sự.
Do tính chất đặc thù của nền cơng vụ Lào, khái niệm cán bộ được dùng với
nhiều nghĩa khác nhau:
- Khái niệm cán bộ gắn liền với những người được bầu vào các cấp lãnh đạo,
chỉ huy từ cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên
thường, đoàn viên, hội viên hoặc “cán bộ” là những người làm công tác chuyên
trách hưởng lương trong các tổ chức đảng, đoàn thể.
- Cán bộ là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên (cán
bộ tiểu đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn v.v…) hoặc là sĩ quan từ
cấp úy trở lên trong quân đội nhân dân Lào.
- Trong hệ thống bộ máy nhà nước, khái niệm cán bộ được hiểu với nghĩa
trùng với khái niệm công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước.
Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách,
7
lãnh đạo. Tuy cách dùng, cách thức biểu đạt khái niệm cán bộ có khác nhau nhưng
về cơ bản thuật ngữ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung, là nòng cốt, là
lãnh đạo, là chỉ huy.
Trong giai đoạn hiện nay, thuật ngữ “cán bộ” được dùng rất phổ biến, cụ thể
là những người làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, Đoàn thể quần
chúng từ Trung ương đến địa phương (trừ những người làm việc trong lực lượng vũ
trang nhân dân: công an, bộ đội) thường được gọi là cán bộ. Ngoài ra, thuật ngữ
“cán bộ” còn được dùng cho cả những người làm việc ở các doanh nghiệp nhà
nước, tư nhân, các cơng ty, tổ chức quốc tế, v.v… nhằm mục đích phân biệt với
thuật ngữ “công nhân, nông dân, nhân dân…” theo người dân thường dùng phổ biến
ở Lào. Nhưng trong thực tế thì chưa có văn bản pháp luật nào đề cập đến khái
niệm về cán bộ. Thuật ngữ này thường được dùng phổ biến ở các tài liệu của các
cơ quan Đảng - công tác Đảng, Nhà nước về cơng tác cán bộ, Đồn thể và những lời
phát biểu, vận động nhân dân và người dân hay dùng gọi đối với những người của
Đảng và Nhà nước xuống làm việc với người dân địa phương, như: cán bộ huyện,
cán bộ tỉnh, cán bộ thuế, cán bộ tư pháp… Như vậy trong thực tế thì thuật ngữ cán
bộ thường được hiểu một cách chung chung bao gồm tất cả những người làm việc
trong cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, đồn thễ, khơng phân biệt chức vụ, chun
mơn, khơng phân biệt được cán bộ với công chức, mặc dù thuật ngữ “công chức” đã
được văn bản pháp luật quy định nhưng lại khơng hay dùng. Thành thử nói đến cán
bộ, nhưng thực chất lại là cơng chức. Có thể nói, trong phạm vi quản lý nhà nước
hoặc khu vực công (bao gồm cả các cơ quan của Đảng và Nhà nước và cơ quan
Đoàn thể từ Trung ương đến địa phương) thuật ngữ cán bộ có thể dùng thay thế cho
thuật ngữ cơng chức được. Vì vậy, theo thói quen của nhiều người sẽ dùng luôn cả
hai là “cán bộ, cơng chức”. Vì vậy phải làm rõ cả hai khái niệm này.
Ở Việt Nam, trong Đại từ điển tiếng Việt, “cán bộ” được định nghĩa : Một là,
người làm việc trong cơ quan nhà nước gọi là cán bộ nhà nước; Hai là, người giữ
chức vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ chức vụ, trong cơ quan, tổ
chức nhà nước gọi là cán bộ tổ chức, cán bộ đại đội .2 Theo từ điển tiếng Việt, khái
niệm “ cán bộ” được hiểu: Một là, Người làm công tác có nghiệp vụ, chun mơn
trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị; Hai
2
Trung tâm Ngơn ngữ và văn hóa Việt Nam( 1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thơng tin, Hà
Nội ( Nguyễn Như Ý chủ biên) tr. 249].
8
là, người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với
người thường, không có chức vụ3.
Cịn trong nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam cũng như
trong Đề cương bài giảng sau đại học, chuyên ngành xây dựng Đảng của Học viện
Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng, khái niệm này
đã được trình bày, phân tích khá đầy đủ.
Nhìn chung, theo nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam, thuật ngữ cán bộ
xuất hiện trong đời sống xã hội ở Việt Nam từ sau khi có phong trào cách mạng
theo con đường chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là danh xưng để chỉ một lớp người là
những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh,
gắn bó với nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã bàn nhiều về cán bộ và công tác cán bộ, Người chỉ rõ: “ Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [20, Hồ Chí Minh (2000 ), Tồn
tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 269].
Tuy nhiên cách hiểu khái niệm cán bộ nói ở trên đây không phải là khái
niệm pháp lý, không phải là thuật ngữ được định nghĩa trong văn bản pháp luật. Ở
Việt Nam khái niệm cán bộ lần đầu tiên được nêu tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ,
công chức 2008, không đồng nghĩa với quan niệm cán bộ chung chung mà sách báo
chính trị hay các văn bản của Đảng đề cập. Cụ thể, Luật Cán bộ công chức (CBCC)
2008 của Việt Nam định nghĩa:"Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước”.
Ở CHDCND Lào, khái niệm cán bộ không được định nghĩa riêng trong văn
bản như Việt Nam. Nhưng nếu dựa vào định nghĩa công chức thì có thể hiểu ”cán
bộ là những người trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng không
3
Viện Ngôn ngữ học ( 2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. tr. 109 ].
9
đảm nhiệm công tác chuyên môn, nghiệp vụ mà giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, do
bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm làm việc theo nhiệm kỳ”. Nói cách khác có thể
hiểu cán bộ ở CHDCND Lào cũng gần như ở Việt Nam vì có cùng thể thế chính trị,
hệ thống chính trị là thống nhất, cơng tác cán bộ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.Cán
bộ chủ yếu được bầu, co 1thể là phê chuẩn hoặc bổ nhiệm nhưng họ làm việc theo
nhiệm kỳ, hưởng lương theo chức danh chứ không hưởng lương theo ngạch, bậc
chuyên môn, nghiệp vụ. Ví dụ như tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ trưởng, Bí thư Trung
ương Đảng, Chánh án Tịa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao (KSNDTC)...
1.1.1.2. Khái niệm công chức:
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới, để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên
trong cơ quan nhà nước, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khái niệm công chức mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc rất nhiều
vào tính chất đặc thủ của mỗi quốc gia và từng giai đoạn lịch sử cụ thể trong từng
nước. Do đó, trong thực tế rất khó có một khái niệm chung về công chức cho tất cả
các quốc gia, thậm chí ngay trong một quốc gia, ở từng thời kỳ phát triển khác
nhau. Có nước chỉ giới hạn công chức trong phạm vi những người tham gia các hoạt
động quản lý nhà nước. Một số nước có quan niệm rộng hơn cho rằng công chức
không chỉ bao gồm những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý nhà nước
mà còn bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan dịch vụ có tính chất
cơng cộng.
Ở Việt Nam, khái niệm cơng chức được hình thành, phát triển và ngày càng
hoàn thiện gắn với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Luật Cán bộ, công
chức năm 2008 đã phân biệt đối tượng cán bộ, cơng chức, và do đó đã đưa ra khái
niệm cơng chức riêng tại khoản 2 Điều 4 Luật CBCC 2008, theo đó “Cơng chức là
cơng dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
10
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật.”
Theo Nghị định số 06/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định “Công
chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật,
làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này ”
Ở Lào, theo Nghị định số 82/2003/NĐ-TTg ngày 19/5/2003 của Thủ tướng
Chính phủ nước CHDCND Lào về quy chế cơng chức CHDCND Lào, Điều 2 đã
quy định: “Công chức của CHDCND Lào là công dân Lào được xếp vào biên chế
và được bổ nhiệm làm việc thường xuyên ở các tổ chức Đảng, Nhà nước, các tổ
chức đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến địa phương và ở các cơ quan đại
diện nước CHDCND Lào ở nước ngoài, được hưởng lương và tiền trợ cấp từ ngân
sách nhà nước”; Điều 3 quy định: “Những đối tượng như: cán bộ lãnh đạo cao cấp
(từ cấp thứ trưởng và tương đương trở lên); bộ đội; công an; cán bộ thuộc doanh
nghiệp nhà nước; cán bộ theo hợp đồng, thì Chính phủ có quy định điều chỉnh
riêng”. Như vậy, có thể thấy khái niệm công chức của Nghị định này rất rộng,
không chỉ là những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung
ương đến địa phương mà còn bao hàm cả những người làm việc ở các cơ quan
Đảng, Đoàn thể … (bao gồm tất cả những người làm việc trong hệ thống chính trị,
trừ trường hợp những đối tượng được quy định tại Điều 3 như nói trên).
1.1.1.3. Khái niệm cán bộ, cơng chức hành chính:
Cán bộ, cơng chức hành chính là những cán bộ, cơng chức làm việc trong
các cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện các cơng
việc quản lý nhà nước. Như vậy, đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính bao gồm:
- Những người làm việc trong cơ quan thuộc hệ thống hành pháp Trung
ương;
11
- Những người làm việc trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước địa
phương.
Cán bộ, cơng chức hành chính là một phần trong số cán bộ, cơng chức làm
việc trong cả hệ thống chính trị ở CHDCND Lào và là người đại diện cho nhân dân
hoạt động trong lĩnh vực hành chính cơng.
Cán bộ, cơng chức hành chính Thành phố Viêng Chăn là những người làm
việc trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước của Thành phố Viêng Chăn
(trong đó bao gồm cả các cơ quan hành chính nhà nước của 9 huyện thuộc Thành
phố) được xếp vào một ngạch hành chính, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm cán bộ, cơng chức hành chính.
Cán bộ, cơng chức hành chính nhà nước là lực lượng trực tiệp thực thi các
chức năng hành pháp của nhà nước, thực hiện quản lý và điều hành đất nước theo
pháp luật và làm cho đất nước phát triển trên cơ sở đảm bảo kỷ cương phép nước.
Các mệnh lệnh, quyết định quản lý trong mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội là
do cơng chức hành chính triển khai thực hiện. Do vậy, cán bộ cơng chức hành chính
nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau đây :
- Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính là chủ thể của nền cơng vụ, là
những người thực thi công vụ và được nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết,
quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ.
Chúng ta biết rằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước chủ yếu được vận
hành thơng qua nền công vụ và đội ngũ cán bộ công chức hành chính. Đội ngũ cán
bộ cơng chức hành chính là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước, có chức năng thực hiện pháp luật và thi hành cơng vụ nhằm phục
vụ lợi ích chung cho tồn xã hội. Những loại nhiệm vụ này do chính đội ngũ cán bộ
cơng chức hành chính các cấp thực hiện, không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức,
cá nhân nào bên ngồi. “Đội ngủ cán bộ cơng chức là hạt nhân cơ bản của nền công
12
vụ, là chủ thể thực sự tiến hành các công cụ cụ thể và cũng chính là yếu tố đảm bảo
cho nền cơng vụ hoạt động, vận hành có hiệu lực, hiệu quả”4
Đội ngũ cán bộ cơng chức hành chính là người thực thi công vụ, trực tiếp thi
hành quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân
danh quyền lực nhà nước, phục vụ nhân dân, thực hiện lý tưởng phụng sự Tổ quốc
là đặc điểm nổi bật và duy nhất của nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Để thực
hiện cơng vụ, người cán bộ công chức được Nhà nước cung cấp các điều kiện cần
thiết để tiến hành thực thi công vụ như: trụ sở, phương tiện, điều kiện làm việc
…Họ được đảm bảo các quyện lợi và tinh thần như : hưởng lương từ ngân sách nhà
nước tương xứng với chức trách và công việc, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp khác
cống hiến cho nền công vụ, được khen thưởng khi có cơng lao xứng đáng. Sự đảm
bảo quyền lợi cho nguồn nhân lực này có tính chất ổn định, lâu dài, thực tế là suốt
đời nếu như cán bộ công chực không vi phạm kỷ luật bị thải hồi hoặc bị truy tố
trước pháp luật.
- Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính là lực lượng lao động chun
nghiệp, có tính chun mơn hóa cao.
Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được tổ
chực và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện quyền hành
pháp vủa Nhà nước để điều hành, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo
pháp luật và bằng pháp luật, vì lời ích của Nhà nước và của toàn xã hội, nhằm đảm
bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Với chức năng đó, bộ máy nhà nước địi hỏi
phải có đội ngụ cán bộ cơng chức quản lý nang tính chất chuyên nghiệp, là những
người thực hiện công vụ thường xun, liên tục có trình độ chun mơn và được
đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nhiệp vụ quản lý hành chính nhà nước ở các độ khác
nhau.
Chính vì vậy, ngay khi tuyển dụng, cơ quan nhà nước đã yêu cầu phải người
dự tuyển phải có chun mơn, có đủ tiêu chuẩn về độ tuổi, phẩm chất chính trị, đạo
đức…Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán bộ công chức phải có trịnh độ chuyên
4
Bùi Đoàn Dũng (2007), Đào tạo, bồi dưỡng cơng chức hành chính theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền ở quận Cầu giấy, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. tr. 21.
13
mơn hóa cao, được đào tạo một cách chính quy và hệ thống, đồng thời phải có ln
ln được bồi dưỡng, cập nhật kịp thời các thông tin và tri thức mới của khoa học
công nghệ. Không thể xây dựng được nền cơng vụ và nền hành chính nhà nước nói
chung, chính quy hiện đại, phục vụ đắc lực nhân dân nếu đội ngũ cán bộ, công chức
chưa được quản lý và đào tạo cơ bản theo hướng chuyên nghiệp hóa, chun mơn
hóa cao.
- Đội ngủ cán bộ, cơng chức hành chính tương đối ổn định, mang tính kế
thừa, nhưng ln địi hỏi khơng ngừng nâng cao về chất lượng
Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính ở Lào cũng như ở Việt Nam hoạt
động ổn định, ít chịu biến động nhằm duy trì tính ổn định, liên tục của nền hành
chính; họ được bảo họ bằng quy định “biên chế nhà nước”. Tuy niên, cơ chế này
cũng tạo thành mơi trường ni dưỡng sự thụ động, dựa dẫm, trì trệ của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức. Bởi cán bộ, công chức đã thuộc diện biên chế
chỉ trừ khi vi phạm pháp luật, hoặc vi phạm đến mức bị kỷ luật buộc thơi việc cịn
thường thì họ làm việc từ khi được tuyển dụng cho đến khi nghỉ hưu.
- Hoạt động của đội ngủ cán bộ, công chức hành chính diễn ra thường
xuyên, liên tục trên phạm vi rộng và mang tính phức tạp.
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức thành hệ thống từ trung ương
đến địa phương cơ sở thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành toàn bộ cách lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, ngoại giao, an ninh, quốc phòng với các mặt hoạt
động hết sức phong phú và phức tạp gồm tài chính, ngân sách nhà nước, kế tốn,
kiểm tóa, thống kê, tín dụng, bảo hiểm, tài sản công, khoa học, công nghệ, môi
trường, kế hoạch, đầu tư, xây dựng, bưu chính viễn thơng, giao thơng vật tải, nơng
nghiệp, y tế, văn hóa, giáo dực… Tất cả các hoạt động đó điều liên quan hàng ngày
và trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc sống của tất cả mọi người dân, đòi hỏi hệ thống các
cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính phải
đủ năng lực, thẩm quyền để giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi quản lý, điều
hành một cách nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính phải am hiểu và tôn trọng pháp luật
và thông lệ quốc tế.
Trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, tất yếu Nhà nước phải
giải quyết các quan hệ pháp lý mang yếu tố quốc tế, đồng thời phải ký kết và thực
14
hiện các công ước quốc tế, các tập quán và thông lệ quốc tế trong tất cả các lĩnh
vực. Để thực hiện tốt nhiệm vụ nay, đội ngủ cán bộ, cơng chức hành chính phải có
trí thức, phải am hiểu và tôn trọng pháp luật và thôn lệ quốc tế. Muốn vậy, trước hết
họ phải có kiến thức pháp luật và trình độ ngồi ngữ nhất định, đủ để có thể giao
tiếp, đọc hiểu các văn bản pháp luật, hợp đồng mang tính quốc tế. Do vậy, nhà nước
cần phải quan tâm, chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cho đầy đủ phẩm chất và năng lực, am hiểu và có khả năng thực sự giải quyết
tốt các quan hệ có yếu tố nước ngồi.
- Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính trung thành với Đảng, với Nhà
nước, với Tổ quốc và nhân dân.
Đây là đặc trưng cơ bản của đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính Lào cũng
như Việt Nam nói chung, xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của nhân dân và từ đặc
điểm lịch sử, quá trình hình thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Lào và
Việt Nam.
Nhà nước Lào là sản phẩm của khối đại đoàn kết toàn dân, Về phương diện
pháp lý, Nhà nước là thiết chế quyền lực do nhân dân bẩu ra theo ngun tắc phổ
biến thơng đầu phiếu. Ngồi việc lập ra Nhà nước, nhân dân thơng qua các hình
thức khác tham gia hoạt động quản lý nhà nước, xã hội, tác động đến các quá trình
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thực hiện
việc giám sát đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công
chức nhà nước trong thực thi công vụ. Nhà nước Lào tồn tại là để phục vụ lợi ích
nhân dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân. Trong hoạt động các cơ
quan nhà nươc cán bộ, công chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe và chịu sự giám sát của nhân dân.
1.1.3.Vai trò của cán bộ, cơng chức hành chính
Cán bộ là nhân tố quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Cán bộ là bộ phận đặc biệt quan trọng, là trung tâm của nhân tố con
người. Hồ Chí Minh luôn khẳng định cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa
quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đối với công tác xây dựng
15
Đảng. Người viết, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “công việc thành công
hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” 5
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, đó là giai đoạn phát triển đất nước
theo hướng mở rộng, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhưng phải giữ vững độc
lập chủ quyền quốc gia, giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào và đưa đất nước đi theo hướng xã hội chủ nghĩa, thì vai trị cán bộ của Đảng và
Nhà nước càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Họ là đội quân quyết định nhất
sinh mệnh của Đảng, Nhà nước và chế độ.
Đối với Lào, hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước nói nói riêng và của
tồn bộ hệ thống chính trị nói chung, xét đến cùng được quyết định bời phẩm chất,
năng lực và hiệu quả công tác của đội ngủ cán bộ, cơng chức. Vai trị của cán bộ,
cơng chức hành chính thể hiện qua bốn mối quan hệ chủ yếu : Một là, quan hệ với
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hai là, với bộ máy tổ chức
lãnh đạo quản lý; ba là, với công việc; bốn là, với quần chúng nhân dân.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng nhân dân cách mạng Lào khởi xướng
và lãnh đạo, có sự tham gia của nhiều chủ thể xã hội, trong đó có nền cơng vụ nhà
nước. Nền cơng vụ đóng vai trị chủ yếu trong việc tổ chức thực hiện các Nghị
quyết của Đảng bằng việc thể chế hóa thành pháp luật và thực thi trong xã hội, qua
đó giúp Đảng đánh giá, điều chỉnh các chủ trường đường lối cho phù hợp với thực
tiễn. Ngoài ra, là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực trong nền công vụ,
những cán bộ công chức, đảng viên… đã trực tiếp tham gia đóng góp vào quá trình
xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước qua việc xây dựng dự
thảo, đề án, hoặc đóng góp ý kiến, chỉnh sửa dự thảo…
Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính là lực lượng là động nịng cốt có vai
trị cực kỳ quan trọng trong quản lý và tổ chức công việc của Nhà nước. Nhiệm vụ
của họ là thực thi công vụ, thực thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nước. Đồng
thời chính họ đóng vai trị sáng tạo pháp luật, tham mưu, để xuất, xây dựng hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh và tiến bộ của Nhà nước. Như Chủ tịch Kham tày Xi
Phăn Đon đã nói: “có cán bộ tốt mới có được tổ chức mạnh, đảm bảo sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng và sự tập hợp đoàn kết giữa các tầng lớp người và các bộ tộc,
5
Hồ Chí Minh (2000 ), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.269, 273].
16
phát huy được những tiềm năng của toàn dân trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” 6
Với chức năng cơ bản là thực thi công vụ, cán bộ, công chức hành chính nhà
nước là người đem chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời nắm tình hình triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lại cho Đảng và
Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Ở đây,
vai trò của người cán bộ, cơng chức hành chính như là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân.
Vì vậy, chỉ có cán bộ, cơng chức hành chính có phẩm chất và năng lực tốt
mới có thể để ra đường lối đúng, mới có thể cụ thể hóa, bổ sung hồn chỉnh đường
lối và thực hiện tốt đường lối. “Khơng có đội ngũ cán bộ, cơng chức vững mạnh thì
dù cho có đường lối chính sách đúng đắn cũng khó có thể biến thành hiện thực” [
Giang Thị Phương Hạnh (2009), Xây dựng đội ngủ cán bộ, cơng chức hành chính
Nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính cửa tỉnh Bình Phước hiện nay, Luận
văn thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.tr. 34]
Đội ngũ cán bộ, cơng chức hành chính là cơng bộc của nhân dân, có vai trị
quan trọng trong bảo đảm kỷ cương phép nước, bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ
các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
bảo đảm trật tự xã hội, chống lại các hành vi xâm hại pháp luật, tùy tiện và vô chính
phủ. Họ cũng là người đóng vai trị tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu thanh với
cách hiện tượng quan liêu, hành vi tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác làm
cho bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Trong điều kiện mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải
trao đổi và học tập, áp dụng kinh nghiệm tốt của các nước phát triển trên thế giới và
trong khu vực, phù hợp với điều kiện nước thực tế ở Lào, trong đó, vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ quan chức nhà nước của một số nước cần được quan tâm nghiên
cứu.
6
Khăm táy Sí Phăn Đón (1998), Khăm táy Sí Phăn Đón, trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, bảo vệ
và xây dựng đất nước, NXB Ban tuyên giáo Trung ương, thủ đô Viêng Chăn. tr. 126.
17
1.2. Khái niệm, đặc trưng, vai trò, chủ thể, nội dung, hình thức và
phương pháp của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức hành chính
Đào tạo bồi dưỡng là hai thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các lĩnh
vực cuộc sống của xã hội hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Hiện
nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã hoàn thành quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức hành chính. Hoạt động này ln gắn liền với sự phân công hợp lý và
được thực hiện trong suốt quá trình làm việc của cán bộ, cơng chức. Có thể nhận
thấy, công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước là hoạt động riêng
biệt được thực hiện trong hệ thống các cơ quan nhà nước và đối tượng được đào tạo
bồi dưỡng là đội ngũ cán bộ, công chức không phải là sự nghiệp giáo dục đào tạo
nói chung của tồn xã hội.
- Khái niệm đào tạo:
“Đào tạo” theo nghĩa chung nhất là quá trình tác động có hệ thống đến con
người nhằm làm cho con người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo… đạt được năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định, để chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân cơng lao động xã hội nhất định7
Theo khoản 1 điều 5 Nghị định số 18/CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ
Nước Cộng hịa xã hộichủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam thì: “Đào tạo là quá trình
truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kĩ năng theo quy định của từng cấp
học, bậc học.”
Như vậy đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người được đào tạo
có kiến thức chun mơn, nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ theo tiêu chuẩn nhất định
do yêu cầu, đòi hỏi của cơng việc. Đào tạo cơng chức hành chính cấp tỉnh giúp họ
đạt được những yêu cầu về kiến thức chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ
theo tiêu chuẩn chung đối với từng ngạch, bậc hành chính của từng cơng chức và
phù hợp với u cầu, địi hỏi của từng chức danh, công việc của công chức đảm
nhiệm trong cơ quan hành chính cấp tỉnh/thành phố.
Đào tạo cơng chức nói chung, trong đó có cơng chức hành chính cấp tỉnh, chỉ
giới hạn trong phạm vi điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức và một số văn bản
7
Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr.755
18
pháp luật có liên quan; được tiến hành chủ yếu ở các cơ sở đào tạo cán bộ, công
chức của Đảng và nhà nước: Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh; các Học viện, Trường, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các Trường Chính trị trong cả nước
nhằm thực hiện cơng cuộc cải cách hành chính nhà nước ta hiện nay.
Trước đây, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chúng ta
thường sử dụng khái niệm “đào tạo lại” để chỉ một quá trình đào tạo, bồi dưỡng
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cho cán bộ, cong chức có sự thay đổi nghề nghiệp
hay phương thưc hoạt động nghề , hoặc đáp ứng những thay đổi của môi trường làm
việc. Nay, khái niệm này hầu như khơng cịn được sử dụng bởi tính đa nghĩa của nó.
Xét trong cụm từ “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, khái niệm “đào
tạo” có những nghĩa khác biệt so với khái niệm “đào tạo” chung, được dùng phổ
biến trong xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là, “đào tạo” trong “đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức” gần nghĩa với “bồi dưỡng”. Nhưng đào tạo ở đây còn
được trang bị những kiến thức, kỹ năng mới - những kiến thức, kỹ năng mà trước
đó người cán bộ, cơng chức có thể chưa được học, chưa được đào tạo. Mặt khác,
“đào tạo” theo cách hiểu này cũng không phải là đào tạo thành nghề. Do vậy, khái
niệm “đào tạo” trong “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức” có một ngữ nghĩa
nằm giữa hai khái niệm “đào tạo” và “bồi dưỡng” với ý nghĩa thuần t của chúng.
Chính vì lẽ đó, khái niệm “đào tạo” trong “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức”
có nội hàm và ý nghĩa riêng, tồn tại và dần trở thành từ vựng của tiếng Việt, được
xác định trong một hoạt động tương đối đặc biệt: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức.
- Khái niệm “bồi dưỡng”
Bồi dưỡng là giai đoạn tiếp theo sau đào tạo, là hoạt động hướng vào mục
tiêu liên tục bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng nghề
nghiệp, nâng cao năng lực nói chung cho những người đã được đào tạo sau một thời
gian công tác nhất định.
Theo điều 5 Nghị định số 18/CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 xác định: “Bồi
dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc. Bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo chương
trình quy định cho từng ngạch công chức. Bồi dưỡng theo chức vụ lãnh đạo, quản
19
lý là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định
cho từng chức vụ lãnh đạo, quản lý. Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập
nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công tác được giao”.
Trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, bồi dưỡng cập nhật,
trang bị thêm, trang bị mới về kiến thức, kỹ năng, thái độ thực thi nhiệm vụ, công
vụ; giúp cho người cán bộ, công chức càng ngày càng hồn thành cơng việc được
giao có chất lượng, hiệu quả hơn.
Trong điều kiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ,
sự bùng nổ thông tin, chính sách pháp luật của nhà nước ln có sự điều chỉnh, bổ
sung, sửa đổi để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh một cách kịp
thời, đảm bảo cho sự nghiệp cải cách kinh tế, cải cách nền hành chính nhà nước, do
vậy bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính và nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ, kỹ năng thực thi cơng vụ cho cơng chức hành chính là vấn đề quan trọng
và mang tính cấp thiết.
Đối với cơng chức hành chính cấp tỉnh, việc bồi dưỡng kiến thức về quản lý
hành chính và nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, kỹ năng thực thi cơng vụ,
về các chính sách, pháp luật, về ngoại ngữ, tin học.v.v. là yêu cầu hết sức quan
trọng, đòi hỏi phải được tiến hành một cách thường xuyên với những nội dung
thích hợp.
Trước đây trong các cuộc họp, cuộc hội thảo khoa học về lĩnh vực đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà quản lý, nghiên cứu khoa học thường đề ra
yêu cầu khu biệt các thành tố “đào tạo” và “bồi dưỡng” khi sử dụng khái niệm “đào
tạo, bồi dưỡng”. Tuy nhiên cùng với q trình phát triển của cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức, nói chung, khái niệm này đã trở thành một bộ phận của
vốn từ vựng tiếng Việt, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp và trong văn bản quy
phạm pháp luật.
Khoản 1 Điều 48 Luật cán bộ, công chức năm 2008 viết: “Cơ quan, tổ chức,
đơn vị quản lý cơng chức có trách nhiệm xây dựng và công khai quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao năng lực, trình độ chun mơn,
nghiệp vụ của cơng chức”.
Như vậy, khái niệm “đào tạo, bồi dưỡng” (cán bộ, công chức) trên thực tế đã
trở thành một “thực thể” thống nhất, có nội hàm là hoạt động nhằm không ngừng