Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.51 KB, 145 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỲNH HOA

PHÁP LUẬT VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Am Hiểu

Hà nội - 2005


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đƣợc xây dựng trong thời gian qua
đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể, tạo lập đƣợc các cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cần
nhận thấy rằng so với các yêu cầu, đòi hỏi và thách thức về phƣơng diện lập pháp trong
bối cảnh quốc tế hiện nay với các không gian pháp lý mới đang đƣợc xác lập thì hệ
thống pháp luật sở hữu trí tuệ nƣớc ta trong đó có các quy định pháp luật về nhãn hiệu
hàng hoá hiện tại vẫn còn khá bất cập, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra những điểm chƣa phù hợp trong các quy
định pháp luật hiện hành về nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam để sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp là một yêu cầu cấp thiết để Việt Nam có thể sớm đáp ứng các yêu cầu ra nhập
WTO.
Bên cạnh đó, thời gian qua, tình trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đặc
biệt là đối với Nhãn hiệu hàng hoá (NHHH) diễn ra ngày càng phức tạp, đã và đang trở


thành một vấn đề mang tính thời sự. Việt Nam đang trên đà hội nhập vào hệ thống
thƣơng mại đa phƣơng, khi Việt Nam trở thành thành viên của AFTA và tổ chức
thƣơng mại thế giới (WTO) vào năm 2006. Cạnh tranh sẽ trở nên sống còn trên tất cả
các thị trƣờng, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu đối với NHHH và nguy cơ bị mất
các NHHH có uy tín trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế sẽ ngày càng lớn.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của NHHH đối với sự phát triển và hội nhập
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tƣơng lai. Là một học viên lớp
cao học, với mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về NHHH của
Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: " Pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sở hữu trí tuệ nói chung và NHHH nói riêng là một lĩnh vực phức tạp và mới
mẻ ở Việt Nam, mặc dù đã tham gia Công ƣớc quốc tế trong lĩnh vực này từ rất sớm
1


nhƣng mãi đến đầu những năm 80 chúng ta mới thực sự xây dựng những văn bản pháp
lý đầu tiên quy định về quyền SHCN. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, các văn bản pháp quy về về lĩnh vực SHCN lần lƣợt ra đời: đầu tiên là pháp
lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và sau đó đƣợc thay thế bằng văn bản có hiệu
lực pháp lý cao hơn là Bộ luật Dân sự năm 1995. Từ khi có BLDS vấn đề bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đã thu hút đƣợc sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan, ban
nghành, các nhà khoa học cũng nhƣ các cơ sở đào tạo Luật. Đã có nhiều hội thảo liên
quan đến Quyền sở hữu trí tuệ đƣợc tổ chức nhƣ Hội thảo về Hiệp định TRIPs (tháng
8/1998), Hội thảo về thực thi quyền SHTT trong Hiệp định thƣơng mại Việt Nam- Hoa
Kỳ (11/2001), Hội thảo sở hữu trí tuệ Châu á và định hƣớng cho tƣơng lai (tháng
5/2002), hội thảo “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng luật sở hữu trí tuệ ở Việt nam
hiện nay” (tháng 11/2004); Hội thảo "sở hữu trí tuệ với doanh nghiệp cơ hội và thách
thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế" của Hội sở hữu cơng nghiệp Việt Nam

(tháng 12/2004). Cơng trình nghiên cứu khoa cấp Bộ của Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý về “Sở hữu trí tuệ thực trạng và xu hướng phát triển trong những năm đầu của
thế kỷ XXI”; “Bình luận khoa học các quy định của Bộ luật dân sự” của Viện nghiên
cứu khoa học pháp lý- Bộ Tƣ pháp; tập bài giảng “Sở hữu trí tuệ” của khoa luật dân sự,
trƣờng Đại học Luật Hà nội. Đồng thời có nhiều bài viết của các tác giả trong nƣớc về
sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu khoa học này chỉ đề cập tới các
vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ nói chung chứ khơng đi sâu nghiên cứu riêng về vấn
đề bảo hộ NHHH. Trong lĩnh vực NHHH có cơng trình nghiên cứu đáng chú ý là luận
văn của tác giả Vũ Thị Hải Yến "Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với NHHH tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật Dân sự" thực hiện năm 2001Đây là cơng trình nghiên cứu chun biệt đầu tiên về NHHH, song những nghiên cứu
của cơng trình này chủ yếu tập trung vào vấn đề bảo hộ NHHH theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Cơng trình thứ hai là luận văn của tác giả Vũ Thị Phƣơng Lan "So sánh
pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam với các điều ước quốc tế và
pháp luật của một số nước phát triển" thực hiện năm 2002- Đây là cơng trình đầu tiên
nghiên cứu về vấn đề so sánh pháp luật bảo hộ NHHH, nhƣng phạm vi so sánh rộng
2


nên chỉ đi vào các vấn đề chung có tính chất khái quát. Vì vậy, việc chọn và n ghiên
cứu đề tài "Pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế" là một đề tài độc lập, khơng có sự lặp lại. Tuy nhiên, để hoàn thành đề tài này,
ngƣời viết phải tham khảo, sƣu tầm, học hỏi các kiến thức cũng nhƣ kinh nghiệm trong
các cơng trình khoa học có liên quan đến vấn đề sở hữu trí tuệ đã đƣợc cơng bố và các
tạp chí nghiên cứu khoa học khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu những quy định của pháp l uật về
nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trong quá trình Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích và chỉ ra những bất cập, đồng thời nêu một số
kiến nghị với hy vọng các quy định pháp luật Việt Nam về nhãn hiệu hàng hố sẽ ngày
càng hồn thiện hơn, đặc biệt sẽ đƣợc hồn thiện trong Luật sở hữu trí tuệ (dự kiến

thông qua tại kỳ họp Quốc Hội tháng 11/2005), tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của đất nƣớc trong thời kỳ hội nhập.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ giới hạn của một luận án Thạc sỹ luật học, ngƣời viết không có
tham vọng nghiên cứu tồn bộ các quy định của pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá mà
chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung sau:
- Phân tích khái niệm NHHH theo quy định hiện hành, các tiêu chí để một NHHH
đƣợc đăng ký bảo hộ tại Việt Nam và vai trò của NHHH trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về NHHH và việc bảo hộ quyền này trên thực
tế của Việt Nam.
- Quan điểm của tác giả về một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung qua việc nghiên
cứu pháp luật về NHHH ở Việt Nam trong sự so sánh với các điều ƣớc quốc tế và pháp
luật về NHHH của một số nƣớc công nghiệp phát triển.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của đề tài dựa trên phé p duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tƣợng
nhằm đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học.
3


Bên cạnh đó, tác giả cũng vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành nhƣ: phân tích chứng minh, phân tích tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy
diễn lơgích...để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài cần có sự đánh giá của các nhà nghiên cứu quan tâm tới
vấn đề này. Tuy nhiên, tác giả cũng mạnh dạn đánh giá đây sẽ là công trình nghiên
cứu, phân tích một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về nhãn hiệu hàng
hoá, đồng thời phân tích thực trạng pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá hiện nay ở Việt
Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật quốc tế tìm ra những

điểm chƣa tƣơng thích trong bối cảnh hội nhập từ đó đƣa ra kiến nghị đối với việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài đã đƣa ra một số kiến nghị ban đầu cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có bố cục nhƣ sau: Lời mở đầu, ba chƣơng, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.

4


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
1.1 Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá
1.1.1 Khái niệm về NHHH trong Hiệp định TRIPs và pháp luật Việt Nam
* Khái niệm về NHHH trong Hiệp định TRIPs
Hiện nay, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đều rất quan tâm đến bảo hộ
NHHH. Trên thế giới đã có rất nhiều Điều ƣớc quốc tế đa phƣơng và song phƣơng điều
chỉnh các lĩnh vực liên quan đến nhãn hiệu hàng hố nhƣ Cơng ƣớc Paris (1883), Thoả
ƣớc Madrid (1891), Hiệp định về các khía cạnh liên quan liên quan đến thƣơng mại của
SHTT (TRIPs), Hiệp định về luật NHHH ký giữa các nƣớc thành viên trong khn khổ
WIPO…trong đó điển hình hơn cả là Hiệp định TRIPs đã đƣa khái niệm nhãn hiệu
hàng hoá nhƣ sau:
“Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau đều có thể làm NHHH. Các dấu
hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và
tổ hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được
đăng ký là NHHH”.(Điều 15 – Hiệp định TRIPs).
Có thể thấy khái niệm NHHH trong Hiệp định TRIPs đƣợc quy định rất khái

qt, và do đó mang tính quy chuẩn. Việc xác định một đối tƣợng bất kỳ có phải là
NHHH hay khơng sẽ căn cứ vào tính phân biệt của hàng hoá dịch vụ. Điều n ày thể hiện
rõ nhất trong các quy định tƣơng ứng của TRIPs là bất kỳ một dấu hiệu nào, cho dù là
hình ảnh, màu sắc, âm thanh hay mùi vị có khả năng phân biệt đƣợc hàng hoá, dịch vụ
của doanh nghiệp này với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác đều đƣợc
coi là NHHH. Đây cũng là cách tiếp cận chung của các nƣớc khi định nghĩa NHHH
trong pháp luật của mình. Tuy nhiên, các nƣớc cũng có những quan điểm khác nhau
liên quan đến những yếu tố có thể phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các doanh
nghiệp. Sự khác biệt này đôi khi bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế hay mức độ đa dạng
của nền kinh tế. Vì thế, có trƣờng hợp chúng ta thấy ở một số nƣớc phát triển thì các
5


dấu hiệu đƣợc coi là NHHH có thể bao gồm cả hình ảnh ba chiều, âm thanh hay mùi,
trong khi đó ở một số nƣớc khác thì chỉ các yếu tố cấu thành truyền thống nhƣ tên gọi,
hình ảnh, màu sắc là đƣợc công nhận.
* Khái niệm về NHHH theo pháp luật Việt Nam
Tại Việt Nam, Điều 785, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 quy định “NHHH
là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh khác nhau. NHHH có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu
tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.
Trên cơ sở Khoản 1 Điều 785 chúng ta nhận thấy rằng quy định về nhãn hiệu
hàng hoá trong BLDS Việt Nam là phù hợp với quy định của TRIPs khi đƣa ra tiêu
chuẩn “có khả năng phân biệt” là cơ sở để một dấu hiệu có thể đƣợc dùng làm NHHH
hay không. Tuy nhiên, so với quy định tại Điều 15 Hiệp định TRIPs thì quy định này
hạn chế hơn, không thể hiện sự “mạnh mẽ” nhƣ quy phạm tƣơng ứng của Hiệp định
TRIPs là: bất kỳ dấu hiệu, tổ hợp dấu hiệu có khả năng phân biệt đều có thể làm
NHHH. BLDS Việt Nam quy định có phần cụ thể hơn khi liệt kê các dấu hiệu này,
theo đó các dấu hiệu có thể làm nhãn hiệu hàng hố bao gồm từ ngữ, hình ảnh hoặc sự
kết hợp giữa từ ngữ và hình ảnh đƣợc thể hiện bằng một hay nhiều mầu sắc. Quy định

này đã giới hạn các dấu hiệu có thể lựa chọn làm nhãn hiệu trong ba loại dấu hiệu.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có ít sự lựa chọn hơn khi xây dựng nhãn hiệu
hàng hố, họ khơng thể chọn các dấu hiệu nằm ngoài các dấu hiệu đã đƣợc liệt kê tại
điều 785 BLDS. Trong tình hình hiện nay của Việt Nam thì 3 loại dấu hiệu này có lẽ là
phù hợp, tuy nhiên, trong tƣơng lai với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, khi mà
các loại hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng, các nhà sản xuất ln mong
muốn tìm kiếm những nhãn hiệu mới lạ, độc đáo, hấp dẫn cho các sản phẩm của mình
để thu hút cơng chúng và cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì Việt Nam sẽ
chƣa thể bắt nhịp đƣợc với thế giới nếu nhƣ chúng ta bỏ qua những dấu hiệu đã đƣợc
các nƣớc trên thế giới công nhận nhƣ âm thanh, mùi vị…
Quy định liên quan đến bảo hộ NHHH tại khoản 1 Điều 6 Hiệp định thƣơng m ại
Việt Nam - Hoa Kỳ đã thể hiện một khái niệm bao quát và gần với chuẩn mực quốc tế
6


hơn: “NHHH được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu
hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc
dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp
mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì
hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và
nhãn hiệu chứng nhận”. Nhƣ vậy, theo nội dung của HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ thì
các dấu hiệu có thể cấu tạo nên NHHH đƣợc mở rộng hơn, không chỉ là từ ngữ, hình
ảnh hoặc sự kết hợp giữa các từ ngữ, hình ảnh nhƣ quy định của BLDS Việt Nam mà
cịn có thể là từ ngữ, tên ngƣời, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc…ngồi ra
Hiệp định cịn phân loại NHHH thành nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn
hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Tuy nhiên, các nhãn hiệu nhƣ âm thanh, mùi vị
vẫn chƣa đƣợc đề cập đến trong nội dung Hiệp định này.
Xuất phát từ nhu cầu cần thiết là phải hoàn thiện pháp luật để hội nhập, Quốc
hội Việt Nam đã thơng qua Bộ luật Dân sự sửa đổi, trong đó phần Sở hữu trí tuệ trong
Bộ luật chỉ cịn lại những quy định mang tính chất nguyên tắc, các quy định cụ thể về

sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đƣợc quy định trong Luật sở
hữu trí tuệ dự kiến đƣợc thơng qua vào cuối năm 2005 và đƣơng nhiên, khái niệm nhãn
hiệu hàng hố cũng khơng cịn quy định trong BLDS mà sẽ đƣợc quy định trong luật
SHTT. Dự thảo 4 của Luật SHTT định nghĩa nhãn hiệu nhƣ sau:
1. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các cá nhân,
tổ chức kinh doanh khác nhau.
2. NHTT là …
3. NHCN là …
4. Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy đƣợc, có thể là chữ cái, từ, ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ảnh 3 chiều hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố đó, đƣợc thể hiện bằng một
hoặc nhiều mà sắc [30].
Nhƣ vậy, khái niệm tại Dự thảo Luật SHTT đƣợc định nghĩa theo tiêu chí chức
năng của nhãn hiệu. Chức năng của nhãn hiệu là dùng để (cho ngƣời tiêu dùng và nhà
7


sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ) phân biệt hàng hố, dịch vụ, vì vậy dấu hiệu sử
dụng làm nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy đƣợc. Định nghĩa này thực ra cũng
tƣơng tự nhƣ định nghĩa tại Điều 785 Bộ luật Dân sự 1995. Tuy nhiên, so với pháp luật
hiện hành, điều này đã làm rõ nghĩa một loại dấu hiệu có khả năng đƣợc bảo hộ dƣới
danh nghĩa là nhãn hiệu, đó là hình ảnh ba chiều. Dấu hiệu này đƣợc pháp luật các
nƣớc trên thế giới thừa nhận bảo hộ dƣới dạng nhãn hiệu và thực tế Việt Nam đã đăng
ký bảo hộ. Ví dụ nhƣ hình dáng của chai Coca cola. Bên cạnh đó, điểm mới tiếp theo
của định nghĩa này so với pháp luật hiện hành là bổ sung điều kiện "nhìn thấy đƣợc"
đối với nhãn hiệu.
Tóm lại, trên cơ sở những phân tích ở trên, để phù hợp với sự phát triển vừa tạo
đƣợc một sự linh hoạt cần thiết trong quá trình áp dụng, có thể đƣa ra khái niệm về
nhãn hiệu hàng hoá nhƣ sau:
Tất cả những dấu hiệu, đặc biệt là từ ngữ, tên người, chữ cái, chữ số, chữ viết
tắt, các yếu tố hình, tổ hợp màu sắc hoặc các yếu tố khác đều có thể được bảo hộ là

nhãn hiệu hàng hố nếu chúng có khả năng dùng để phân biệt được hàng hoặc dịch vụ
của cơ sở sản xuất kinh doanh này với cơ sở sản xuất kinh doanh khác.
1.1.2 Các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu hàng hố
Theo xu hƣớng quốc tế hiện nay thì các dấu hiệu có thể đƣợc đăng ký làm
NHHH rất phong phú, nó có thể cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc là sự kết hợp bất
kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hố, dịch vụ của cơ sở sản xuất kinh
doanh này với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của cơ sở sản xuất kinh doanh khác. Trên
tinh thần của các Điều ƣớc quốc tế thì có thể phân loại một số dấu hiệu hiện nay đƣợc
sử dụng làm NHHH nhƣ sau:
* Dấu hiệu từ ngữ
Từ ngữ là dấu hiệu đƣợc dùng phổ biến nhất, có thể là một từ hoặc mộ t tập hợp
từ. Dấu hiệu “từ ngữ” đƣợc hiểu là các dấu hiệu chữ bao gồm các chữ cái hoặc chữ số.
Một hay nhiều chữ cái, một hay nhiều số hoặc sự kết hợp giữa chúng là loại NHHH
phổ biến . Ví dụ nhƣ :7 up, Trung nguyên, NIKE...
8


Thông thƣờng các chuyên gia thƣờng áp dụng 04 cách đặt tên nhãn hiệu: 1) sử
dụng từ tự tạo- đó là từ đƣợc tổ hợp từ những ký tự, tạo thành một từ mới phát âm
đƣợc và khơng có trong từ điển, ví dụ nhƣ Elead, Yahoo…2) sử dụng từ thơng dụng- là
những từ hiện dùng và thực sự có ý nghĩa trong một ngơn ngữ nào đó, ví dụ nhƣ: Rạng
Đông, Trung Thành…3) Sử dụng từ ghép- là sự kết hợp các từ hiện dùng và các âm tiết
dễ nhận biết, ví dụ nhƣ: Vinamilk, Thinkpad…4) sử dụng các từ viết tắt- là những từ
thông thƣờng đƣợc tạo thành từ những chữ cái đầu tiên của tên công ty, từ viết tắt cũng
có thể phát âm đƣợc và mang một thơng điệp nào đó nhƣ: AIA, IBM, LG, FPT...
Theo quy định tại điều 6.2a Nghị định 63/CP thì khơng phải bất kỳ chữ cái và
chữ số nào cũng đều đƣợc đăng ký làm NHHH, nhất là đối với chữ c ái đứng đơn lẻ,
khơng đƣợc cách điệu thì sẽ đƣợc xem là khơng có tính phân biệt nên khơng có khả
năng đăng ký NHHH, các chữ cái, chữ số, các chữ khơng có khả năng phát âm nhƣ một
số từ ngữ, chữ nƣớc ngồi thuộc các ngơn ngữ khơng thông dụng trừ trƣờng hợp các

dấu hiệu này đã đƣợc sử dụng và đƣợc thừa nhận một cách rộng rãi. Ngoài ra, nếu chỉ
bao gồm một từ chữ cái hoặc một chữ số thì sẽ bị xem là quá đơn giản, ngƣợc lại nếu
có quá nhiều chữ cái hoặc có q nhiều chữ số, dài q thì cũng có thể khơng đƣợc bảo
hộ, nhƣng nếu có thể đọc đƣợc và viết theo một ký tự riêng lại có thể đƣợc bảo hộ.
Tuy nhiên, tính chất "khả năng tự phân biệt" khơng mang một ý nghĩa tuyệt đối.
Tính chất này có thể thay đổi, tuỳ thuộc vào việc sử dụng thực tế của nhãn hiệu trên thị
trƣờng. Chẳng hạn nhƣ một nhãn hiệu là dấu hiệu đơn giản (chữ cái, tập hợp các chữ
cái, hình học đơn giản…) sau một thời gian dài đƣợc sử dụng liên tục với số lƣợng lớn
và rộng rãi, có thể trở thành dấu hiệu có khả năng tự phân biệt do ngƣời tiêu dùng vì
qua việc sử dụng rộng rãi này, nhãn hiệu đã trở nên nhận biết đƣợc, phân biệt đƣợc cho
ngƣời tiêu dùng. Ví dụ: "333" là một dấu hiệu đã trở thành một nhãn hiệu thông dụng.
"PN" là một nhãn hiệu đƣợc sử dụng rộng rãi cho các sản phẩm mỹ phẩm của Shiseido.
Về vấn đề này, pháp luật Nhật Bản cũng không quy định việc kết hợp các chữ
cái hoặc chữ số phải theo một thứ tự có thể phát âm đƣợc. Nếu NHHH chỉ bao gồm có
một chữ cái hoặc chữ số thì sẽ bị coi là quá đơn giản và khơng đƣợc bảo hộ, ít nhất
phải từ hai chữ cái trở lên. Tuy nhiên, nếu sự kết hợp đó lại tạo thành một thứ tự mà
9


chính bản thân hàng hố hoặc dịch vụ mang nhãn nhãn hiệu đó lại lấy đó làm dấu hiệu
hay mã hàng theo quy định của Nhật Bản thì sự kết hợp đó lại đƣợc xem nhƣ là quá
đơn giản và khơng đƣợc đăng ký. Ngồi ra, có một quy định khá đặc biệt là nếu hai
chữ cái anphabet đƣợc nối với nhau bằng dấu “&” thì lại đƣợc coi là có tính phân biệt
và có khả năng đăng ký [41; tr. 8].
- Tên địa danh cũng là một dấu hiệu thƣờng đƣợc đăng ký làm NHHH ở Việt
Nam, tuy nhiên nó có nguy cơ trở nên khó phân biệt với việc bảo vệ tên gọi xuất xứ
hàng hoá hay chỉ dẫn địa lý vì nó ám chỉ đến những khu vực địa lý mà ngƣời tiêu dùng
thƣờng nghĩ rằng đó là nơi xuất xứ gốc của sản phẩm nhƣ nƣớc mắm Phú Quốc, chè
Mộc Châu, kẹo dừa Bến Tre, Vang Đà Lạt…
- Tên ngƣời, xét về bản chất, chính là sự chứa đựng các chữ cái đƣợc ghép lại

với nhau tạo thành một nghĩa hoàn chỉnh. Nhƣng tên ngƣời ở đây đƣợc sử dụng làm
nhãn hiệu hàng hố khi nó có tính phân biệt giữa tên ngƣời này với tên ngƣời khác gắn
trên sản phẩm, dịch vụ. Bộ luật Dân sự Việt Nam chƣa quy định tên ngƣời đƣợc làm
nhãn hiệu hàng hố vì trên thực tế “Tên ngƣời” làm nhãn hiệu hàng hoá rất dễ gây
nhầm lẫn cho khách hàng, bởi có rất nhiều ngƣời tên giống nhau, vì vậy khơng p hải
chủ hàng hố, dịch vụ nào sử dụng tên ngƣời để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ
cũng đƣợc chấp nhận. Tuy nhiên BTA đã thể hiện sự tiến bộ của mình khi quy định về
dấu hiệu này.
Ở một số nƣớc phát triển trên thế giới, tên họ là một dấu hiệu thƣờng đƣợc đăng
ký làm NHHH, họ gia đình thƣờng đƣợc dùng rất phổ biến làm tên cơng ty hay nhãn
hiệu gắn lên hàng hố dịch vụ nhƣ: mỹ phẩm Estee Lauder, xe hơi FORD và
HONDA... nhƣng, đa số các nƣớc, kể cả Mỹ và Châu Âu thƣờng không cho phép đăng
ký các họ gia đình phổ thơng làm NHHH vì nó thiếu tính phân biệt, đồng thời nhƣ trên
đã phân tích nó rất dễ gây nhầm lẫn cho khách hàng.
* Dấu hiệu hình ảnh
Dấu hiệu hình ảnh bao gồm cả hình ảnh hai chiều và hình ảnh 3 chiều. Dấu hiệu
hình ảnh có tác dụng thu hút sự chú ý của ngƣời tiêu dùng thơng qua thị giác, bao gồm
các hình vẽ, các nét vẽ, biểu tƣợng hai chiều bằng một màu hay nhiều màu của hàng
10


hố hay bao bì. Hiện nay, dấu hiệu hình ảnh, đặc biệt là dấu hiệu hình ảnh ba chiều
dành đƣợc rất nhiều sự quan tâm từ phía doanh nghiệp vì dấu hiệu này đƣợc xem là có
khả năng tạo nên ấn tƣợng mạnh mẽ, sức lôi cuốn và dễ in sâu vào trong tâm lý ngƣời
tiêu dùng, do đó có khả năng phân biệt rất cao. Ví dụ: hình con ngựa bay đúc nguyên
khối của xe Rolls-Royce, hai chữ C đan vào nhau của Chanel, chữ M cách điệu
Motorola, con mắt của CBS, 3 hình elíp lồng vào nhau của Toyota và thật ấn tƣợng với
hình ảnh của chiếc vơ lăng đƣợc cách điệu thành ngôi sao ba cánh nằm trong vịng trịn
của xe Mercedes. Có thể nói, hình ảnh này đã thể hiện việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình
hết sức khái quát, tiếp cận khách hàng một cách nhanh, mạnh, sâu nhất, làm cho khách

hàng liên tƣởng đến những gì tích cực nhất của sản phẩm và sự uy tín của doanh
nghiệp.
Pháp luật Việt Nam, tại điều 785 BLDS 1995 có đề cập đến dấu hiệu hình ảnh
nhƣng khơng quy định cụ thể là dấu hiệu hình ảnh ba chiều. Tuy nhiên, nếu chúng ta
hiểu rộng ra thì thuật ngữ “hình ảnh” mà điều này đã đề cập đến bao gồm cả hình ảnh
hai chiều, hình ảnh ba chiều và trên thực tế Việt Nam đã thừa nhận và bảo hộ các dấu
hiệu thuộc loại này.
* Dấu hiệu tổ hợp màu sắc
Dấu hiệu này bao gồm các từ ngữ, hình ảnh và bất kỳ sự kết hợp nào giữa chúng
có màu sắc hoặc sự kết hợp màu sắc với các yếu tố khác hoặc chỉ riêng màu sắc. Việc
sử dụng các chữ cái, hình hoạ với màu sắc hoặc kết hợp màu sắc nói chung thƣờng làm
tăng thêm tính phân biệt của chúng và thƣờng dễ dàng đƣợc chấp nhận đăng ký hơn.
Theo quy định của TRIPs, không những các dấu hiệu thơng thƣờng có thể đƣợc
đăng ký làm NHHH mà ngay chính bản thân sự kết hợp các màu sắc với nhau cũng có
thể đƣợc đăng ký nhƣ một NHHH. Pháp luật Mỹ và EU cũng không phản đối điều này.
Luật mẫu về NHHH của tổ chức SHTT thế giới (WIPO) cũng dành hẳn phần 1 (2) quy
định về những sự kết hợp màu sắc nào có thể đƣợc đăng ký làm NHHH.
Hiện nay BLDS Việt Nam 1995 chƣa quy định rõ về dấu hiệu này mà nó mới
chỉ đƣợc quy định trong Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam Hoa Kỳ, vì vậy trong thời

11


gian tới pháp luật Việt Nam cần có sự bổ sung, sửa đổi hoàn thiện hơn đối với việc cho
phép tổ hợp màu sắc đƣợc đăng ký bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hoá.
Thực tế, nƣớc ta cũng nhƣ tại các nƣớc trên thế giới cho thấy ba loại dấu hiệu
trên đây đƣợc sử dụng rộng rãi nhất trong các NHHH. Tuy nhiên, hiện nay tại nhiều
quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển, những dấu hiệu mà con ngƣời có khả năng “tri
giác” đƣợc đều có thể sử dụng nhƣ là một NHHH. Vì vậy, bên cạnh những dấu hiệu
nhìn thấy đƣợc nhƣ từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, sự kết hợp của các yếu tố này, thì những

dấu hiệu nghe thấy đƣợc nhƣ âm thanh, mùi vị cũng đã đƣợc một số quốc gia bảo hộ
nhƣ là NHHH.
Hiện nay, các nhà sản xuất ln ln tìm kiếm những nhãn hiệu mới lạ, độc đáo
và hấp dẫn cho sản phẩm hàng hố, dịch vụ của mình để tạo ấn tƣợng đến cơng chúng
và q trình tồn cầu hố đang diễn ra thì việc cơng nhận, bảo hộ NHHH tại các quốc
gia khác là một xu thế tất yếu của thời đại. Do đó, chúng ta cũng nên bảo hộ cho những
nhãn hiệu hàng hoá đặc biệt này nếu nhƣ việc bảo hộ đó khơng trái với quy định của
pháp luật và ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời khác.
1.1.3. Các điều kiện để bảo hộ nhãn hiệu hàng hố
Nhãn hiệu hàng hố có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay. Việc lựa chọn sản phẩm thích hợp của ngƣời tiêu dùng chịu ảnh
hƣởng rất nhiều bởi uy tín của NHHH đồng thời là uy tín của doanh nghiệp đó. Do vậy,
hầu hết tất cả các doanh nghiệp đều có nhu cầu sử dụng nhãn hiệu để phân biệt hàng
hoá, dịch vụ của mình với hàng hố, dịch vụ của ngƣời khác. Đây là quyền lợi và cũng
là trách nhiệm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi dấu hiệu mà nhà sản
xuất, kinh doanh đƣa ra để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đều đƣợc Cục sở hữu SHTT cơ quan có thẩm quyền xét và cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hoá. Nghị
định 63/CP quy định để đăng ký và bảo hộ nhƣ một NHHH thì dấu hiệu đó phải đáp
ứng một số điều kiện sau:

12


1.1.3.1 Điều kiện về tính phân biệt
Tính phân biệt là một chức năng quan trọng và cũng là yêu cầu trƣớc tiên cần
phải có nếu một NHHH muốn đƣợc đăng ký bảo hộ. Điều 15.1. TRIPs quy định bất kỳ
một dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hố, dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác đều có thể làm NHHH.
Trên thực tế, việc đánh giá tính phân biệt của một NHHH là một vấn đề phức
tạp, nhất là trong việc pháp điển hoá bằng pháp luật. Trong các quy định thành văn của
TRIPs, pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nƣớc nhƣ Nhật, Mỹ đều không định

nghĩa thế nào là tính phân biệt của NHHH mà chỉ quy định các dấu hiệu khơng có khả
năng phân biệt. Tuy vậy, khái niệm về tính phân biệt lại đƣợc hiểu một cách nhất quán
trong giới luật gia các nƣớc. Có thể hiểu một cách chung nhất về tính phân biệt của
NHHH là khả năng của NHHH giúp cho ngƣời tiêu dùng xác định đƣợc nguồn gốc
thƣơng mại của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn. Để thực hiện đƣợc chức năng phân biệt
hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác thì bản thân
NHHH phải có khả năng tự phân biệt, cụ thể là nhãn hiệu đó phải có đủ khả năng tác
động vào nhận thức của ngƣời tiêu dùng, để ngƣời tiêu dùng có thể nhận biết, ghi nhớ
và so sánh nhằm xác định mục đích xác định, lựa chọn hàng hố, dịch vụ của các
doanh nghiệp.
Điều 6.1 Nghị định 63/CP quy định một dấu hiệu dùng làm NHHH đƣợc cơng
nhận là có tính phân biệt khi nó đáp ứng đầy đủ 8 điều kiện đƣợc liệt kê trong đó. Tuy
nhiên, trong thực tế thì các điều kiện này cũng đƣợc đề cập một cách đầy đủ trong pháp
luật của Mỹ hay EU, Nhật Bản. Chúng đƣợc coi là những trƣờng hợp rõ ràng cần phải
từ chối đơn đăng ký chứ không đƣợc dùng để xây dựng định nghĩa về tính phân biệt.
Do vậy mà về mặt bản chất thì cách hiểu của Việt Nam về tính phân biệt của NHHH là
khơng có gì khác so với cách hiểu chung của pháp luật quốc tế và các nƣớc nói trên.
Tính phân biệt cần phải được đánh giá trong mối liên hệ với những hàng hố
mà nhãn hiệu đó được áp dụng. Dấu hiệu khơng có tính phân biệt thì khơng thể giúp
ngƣời tiêu dùng xác định đúng đƣợc hàng hoá mà họ mong muốn lựa chọn. Ví dụ nhƣ
từ apple, nghĩa là quả táo, về mặt văn học nó khơng liên quan gì đến máy tính cá nhân,
13


vì thế khi đƣợc chọn làm nhãn hiệu cho máy tính thì ngay lập tức nó có tính phân biệt
cao mà ngƣời tiêu dùng khi nhìn thấy nhãn hiệu đó gắn trên máy tính đã biết máy tính
đó do hãng nào sản xuất và chất lƣợng có thoả mãn nhu cầu của mình hay khơng.
Một vấn đề nữa cần lƣu ý là tính phân biệt của NHHH cần phải được đánh giá
trong sự so sánh, đối chiếu với các hàng hố, dịch vụ cạnh tranh cùng loại, khơng phải
là với tất cả các loại hàng hố, dịch vụ có trên thị trường. Vì mục đích của các nhà sản

xuất cũng chỉ nhằm cho ngƣời tiêu dùng lựa chọn và phân biệt hàng hố, dịch vụ của
mình với các hàng hố và dịch vụ của các doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, chúng ta c ần phải xác định về mức độ phân biệt của NHHH, có
nghĩa là sự phân biệt đƣợc thể hiện ở mức độ nào thì NHHH đó sẽ đƣợc bảo hộ. Liên
quan tới vấn đề này cần phải có sự phân biệt hai loại nhãn hiệu hàng hoá tiêu biểu - các
NHHH tự đặt, tự nghĩ ra mà không hàm chứa một ý nghĩa nào cả và NHHH đƣợc đặt
trên cơ sở những dấu hiệu sẵn trong tự nhiên và thƣờng nó đều mang một ý nghĩa nào
đó.
Với loại thứ nhất, một số ví dụ chúng ta có thể biết đến, Đó là KODAK dành
cho phim chụp ảnh, nhãn hiệu ô tô nổi tiếng BMW hay nhãn hiệu CAMEL dùng cho
thuốc lá và nhãn hiệu APPLE đã đề cập trên đây (bao gồm cả phần từ ngữ và hình ảnh)
dành cho máy tính. Nhãn hiệu này đƣợc các doanh nghiệp ƣa chuộng vì ngồi những
tiêu chí đơn giản, dễ đọc, thân thiện và có ý nghĩa, NHHH cần phải ấn tƣợng và khác
biệt. Đây là một yếu tố quan trọng nhằm tăng sự nhận biết về nhãn hiệu. Sự khác biệt
của một NHHH là yêu cầu để nhà nƣớc bảo hộ song nó cịn đƣợc xem nhƣ là một lợi
thế đối với các NHHH cạnh tranh. Để có đƣợc một cái tên khác biệt và nổi trội nhƣ
những NHHH trên, các công ty đã lựa chọn các chữ cái và kết hợp tạo thành một cái
tên chƣa từng đƣợc biết đến, kể cả trong từ điển và chúng cũng chẳng có liên quan gì
đến sản phẩm mang nhãn. Ví dụ nhƣ nhãn hiệu nổi tiếng KODAK. Hay nhƣ logo c ủa
BMW đƣợc thiết kế là biểu tƣợng của phần dẹt cánh quạt máy bay màu trắng, tƣơng
phản với bầu trời màu xanh. Nó phản ánh nguồn gốc của BMW là một nhà sản xuất
động cơ máy bay quân sự trong thế chiến thứ nhất. Đây là một ví dụ điển hình cho một
cơng ty có nhãn hiệu hàng đầu vẫn cịn giữ lại, thể hiện đƣợc những gì tiêu biểu nhất
14


trong truyền thống của mình qua hình thức bên ngồi logo c ủa công ty mà không kém
phần đơn giản, xúc tích và có ý nghĩa, mặc dù theo cách hiểu trên thì nó cùng chẳng có
gì liên quan đến ô tô. Tuy nhiên, vì thƣờng là nhãn hiệu độc đáo, có tính chất nhƣ là
một vật đặc định và mang tính phân biệt rõ nét, nên những nhãn hiệu hàng hố này khi

đã đi vào lịng cơng chúng thì ngƣời tiêu dùng sẽ dễ dàng nhận ra hàng hoá, dịch vụ
mang nhãn lập tức khi nhìn thấy chúng và những nhãn hiệu mang những dấu hiệu này
cũng thƣờng đƣợc sự bảo hộ rất mạnh mẽ của pháp luật và khả năng đƣợc chấp nhận
và đăng ký rất cao.
Loại thứ hai thƣờng đƣợc các nhà doanh nghiệp ƣa sử dụng hơn vì thƣờng là
những thuật ngữ ít nhiều mang tính mơ tả (descriptive), nghĩa là nó chứa đựng những
thơng tin làm cho ngƣời tiêu dùng liên tƣởng tới các đặc điểm hay chất lƣợng của sản
phẩm mang nhãn. Nhìn chung pháp luật của các nƣớc thƣờng công nhận một nguyên
tắc là các thuật ngữ mơ tả có thuộc tính phân biệt đối với hàng hố liên quan nếu nó
mang một ý nghĩa thứ cấp (secondary meaning), nghĩa l à nếu những ngƣời tiêu dùng
khi nhìn thấy nó có thể nhận biết đƣợc hàng hoá từ một nguồn thƣơng mại xác định.
Đáp ứng đƣợc điều kiện này thì NHHH sẽ đƣợc đăng ký. Có thể thấy rất nhiều ví dụ
trong thực tiễn về loại NHHH này. "Điện quang" đƣợc dùng làm NHHH cho một loại
bóng đèn do cơng ty Điện quang sản xuất và nó cũng mang nghĩa là thắp sáng bằng
điện và làm cho ngƣời dùng ngay cả khi chƣa dùng bóng Điện quang cũng có thể liên
tƣởng tới bóng đèn. Hay nhãn hiệu BP với logo hình hoa hƣớng dƣơng với 18 cánh vừa
tƣợng trƣng cho sự may mắn, vừa là hình ảnh của mặt trời, một nguồn năng lƣợng sạch
và gần nhƣ vô tận. Phát triển nguồn năng lƣợng sạch nhƣ năng lƣợng mặt trời, năng
lƣợng gió là hƣớng đi mới của BP và logo này do vậy cũng biểu trƣng cho chiến lƣợc
phát triển bền vững và thân thiện với môi trƣờng. Hoặc nhƣ Walkman là nhãn hiệu
head phone của Sonny. Chữ Walkman ít nhiều giúp ta liên tƣởng đến loại máy nhỏ bỏ
túi mà "ngƣời đi bộ" có thể cầm nghe theo. Những NHHH ít nhiều nói lên chất lƣợng
sản phẩm nhƣ Angel (thiên thần) hay Dream (giấc mơ) là những cái tên mà các hãng xe
máy muốn nói lên phần nào chất lƣợng, giá trị sản phẩm của cơng ty.
Có thể thấy giá trị của một NHHH chính là tính phân biệt của nó. Các doanh
nghiệp bao giờ cũng nỗ lực hết sức nâng cao c hất lƣợng và quảng bá sản phẩm nhằm
15


làm cho NHHH của mình có tính phân biệt cao trong tâm trí ngƣời tiêu dùng. Trên

phƣơng diện quản lý nhà nƣớc cũng thƣờng căn cứ trên sự xác định tính phân biệt của
một nhãn hiệu để cho phép hay khơng cho phép đăng ký NHHH. Để xác định tính phân
biệt của một nhãn hiệu đƣợc dễ dàng, pháp luật của Việt Nam cũng nhƣ pháp luật của
một số nƣớc trên thế giới đều quy định một số trƣờng hợp các dấu hiệu tạo thành nhãn
hiệu khơng có tính phân biệt, có thể gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng và do đó sẽ bị
từ chối đăng ký NHHH.
1.1.3.2. Các trường hợp khơng được bảo hộ do thiếu tính phân biệt
Pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nƣớc đều quy định nếu dấu hiệu tạo
thành nhãn hiệu không có tính phân biệt sẽ bị từ chối vì khơng thể thực hiện chức năng
phân biệt của một NHHH. Về những trƣờng hợp khơng đƣợc đăng ký do thiếu tính
phân biệt, pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nƣớc đều có sự giống nhau
trong việc chia những trƣờng hợp khơng đƣợc đăng ký do thiếu tính phân biệt thành 3
loại sau:

16


* Loại thứ nhất: thiếu tính phân biệt do trùng hay tương tự gây nhầm lẫn với
một nhãn hiệu khác.
Dấu hiệu xin đăng ký phải không đƣợc trùng hoặc tƣơng tự ở mức có thể gây
nhầm lẫn với một NHHH nào đó đã tồn tại trƣớc đó (nhãn hiệu đối chứng). Điều kiện
này nhằm bảo vệ quyền lợi của nhãn hiệu đối chứng, đồng thời tránh cho ngƣời tiêu
dùng có thể hiểu nhầm là những sản phẩm mang dấu hiệu xin đăng ký là s ản phẩm
mang nhãn hiệu đối chứng hoặc ngƣợc lại. Tuy nhiên, trên thực tế có thể thấy các
trƣờng hợp trùng hoặc tƣơng tự dẫn tới gây nhầm lẫn đƣợc quy định trong pháp luật
Việt Nam và các nƣớc đều là những trƣờng hợp mà cơ sở để ra quyết định từ chối cho
đăng ký là hết sức tƣơng đối. Chủ yếu nó phụ thuộc vào sự cân nhắc, xem xét của cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các trƣờng hợp quy định tại điểm b, c,
d, e, khoản 1, Điều 6 Nghị định 63/CP là những trƣờng hợp có thể bị coi là thiếu tính

phân biệt do trùng hay tƣơng tự tới mức gây nhầm lẫn dẫn đến thiếu tính phân biệt.
Hiện nay, Việt Nam chƣa có các quy định cụ thể về các tiêu chí làm thế nào có
thể xác định đƣợc sự tƣơng tự đến mức gây nhầm lẫn giữa 2 nhãn hiệu. Việc quyết
định một nhãn xin đăng ký có tƣơng tự tới mức gây nhầm lẫn đối với một nhãn đối
chứng hay khơng hồn toàn tuỳ thuộc vào sự xem xét chủ quan của Cục SHTT, tuy
nhiên Cục SHTT cũng chƣa có văn bản hƣớng dẫn chính thức về phƣơng pháp xác
định mức độ có thể gây nhầm lẫn. Pháp luật Mỹ, EU và Nhật Bản cũng khơng có quy
định chính thức thành văn bản đối với cách thức xác định vấn đề này, tuy nhiên các cơ
quan có thẩm quyền đăng ký tại các nƣớc đó thƣờng có các tài liệu hƣớng dẫn chi tiết
về đăng ký NHHH và trong đó đƣa ra một số nguyên tắc xác định mức độ tƣơng tự có
thể gây nhầm lẫn. Ngồi ra, ở những nƣớc có truyền thống án lệ nhƣ Mỹ, các bản án
của Toà án, đặc biệt là Toà án tối cao Mỹ là những nguồn luật quan trọng của pháp luật
và trong đó phân tích chi tiết về vấn đề pháp lý liên quan đến NHHH. Cục SHTT Việt
Nam, trong thực tế thẩm định tƣơng tự có thể gây nhầm lẫn, cũng áp dụng một số
nguyên tắc sau:

17


- Dấu hiệu có tƣơng tự về mặt cấu trúc, ý nghĩa và hình thức thể hiện với nhãn
hiệu đối chứng khơng?
- Bản chất của hàng hố, dịch vụ mang dấu hiệu có tƣơng tự với hàng hố, dịch
vụ mang nhãn hiệu đối chứng không?
- Phƣơng thức lƣu thông hàng hoá trên thị trƣờng (kênh thƣơng mại) của hàng
hoá mang dấu hiệu và hàng hoá mang nhãn hiệu đối chứng có tƣơng tự khơng?
- Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu đối chứng;
- Thời gian và điều kiện mà trong đó dấu hiệu và nhãn hiệu đối chứng đã cùng
đƣợc sử dụng song song mà không gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng.
- Tất cả các yếu tố có liên quan khác.
Một dấu hiệu bị coi là tƣơng tự về cấu trúc so với nhãn hiệu đối chứng nếu cấu

trúc của dấu hiệu đó đƣợc tạo thành thêm những thành phần mới thứ yếu vào nhãn hiệu
đối chứng, hoặc bằng cách loại bỏ hay thay đổi phần thứ yếu của nhãn hiệu đối chứng.
Trƣờng hợp này thƣờng xảy ra đối với những nhãn hiệu dạng chữ. Trong tiếng Việt, có
những NHHH dạng chữ tuy khác nhau về dấu nhƣng vẫn có thể bị coi là tƣơng tự nhau
về mặt cấu trúc. Ví dụ: các nhãn hiệu PHOTONICA, PHOTOKINA. Phần đầu của hai
dấu hiệu này trùng lặp, phần sau của các dấu hiệu đƣợc tạo thành từ các ký tự giống
nhau (C/K+I+N+A). Điểm khác biệt duy nhất là các ký tự trong mỗi dấu hiệu đƣợc sắp
xếp theo trật tự khác nhau. Nhƣ vậy, nếu hàng hoá, dịch vụ mang các dấu hiệu trên
đƣợc mô tả hay đặt hàng bằng miệng thì khả năng gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng là
rất lớn.
Một dấu hiệu bị coi là tƣơng tự về mặt ý nghĩa so với nhãn hiệu đối chứng nếu
dấu hiệu và nhãn hiệu đối chứng, hoặc phần chủ yếu của chúng có cùng một nội dung
diễn đạt cùng một đối tƣợng (sự vật, hiện vật hay khái niệm...), hoặc hai đối tƣợng
tƣơng tự nhau. Ví dụ: nhãn hiệu SUNSET và SUNRISE, cả hai dấu hiệu này đều có
mối liên quan đến "mặt trời" cho dù là chúng chỉ các trạng thái khác nhau của mặt trời:
"mặt trời mọc" và "mặt trời lặn". Hình ảnh lƣu giữ trong trí nhớ ngƣời tiêu dùng sẽ là
hình ảnh "một nửa mặt trời".
18


Một dấu hiệu bị coi là tƣơng tự về mặt hình thức thể hiện so với nhãn hiệu đối
chứng nếu toàn bộ hoặc phần chủ yếu của dấu hiệu và nhãn hiệu đối chứng đƣợc trình
bày theo một phong cách, trong đó màu sắc của nhãn hiệu đƣợc coi là một yếu tố của
phong cách trình bày.
Tính tƣơng tự của hàng hoá đƣợc đánh giá trên cơ sở xem xét về bản chất (cấu
tạo, thành phần, hình dáng...), chức năng (cơng dụng hay mục đích sử dụng) và phƣơng
thức thực hiện chức năng. Nếu hai hàng hố có cùng bản chất, có cùng chức năng và
cùng phƣơng thức thực hiện chức năng đó thì chúng đƣợc coi là hai hàng hố cùng
loại.
Nhƣ vậy, để kết luận một dấu hiệu có tƣơng tự gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu

khác hay khơng (nhãn hiệu đối chứng), thì phải xem xét một cách tổng thể đến mọi yếu
tố liên quan.
* Loại thứ hai: thiếu tính phân biệt do sử dụng các thuật ngữ chung hoặc thông
dụng (generic terms) hoặc sử dụng các dấu hiệu mang tính mơ tả đơn thuần
(Descriptive signs)
Pháp luật về NHHH Việt Nam đã liệt kê khá cụ thể các dấu hiệu chỉ rõ tính
thơng dụng, chỉ rõ sự cần thiết, tính chất của sản phẩm hoặc dịch vụ là những dấu hiệu
thiếu tính phân biệt. Pháp luật NHHH của Việt Nam xác định đó là những dấu hiệu
đƣợc sử dụng chung trong thƣơng mại và đƣợc định nghĩa là những dấu hiệu mà một
ngƣời khơng thể dùng nó để làm cho hàng hố, dịch vụ của mình phân biệt với hàng
hoá, dịch vụ của ngƣời khác đƣợc bởi vì chúng quá chung chung và chỉ đƣợc sử dụng
để chỉ ra chủng loại của hàng hoá, dịch vụ. Do đó khơng cho phép những nhãn hiệu
này thuộc quyền sử dụng riêng của một chủ thể. Ví dụ nhƣ "Tin tức" dùng để chỉ các
loại báo, tạp chí, "Xà phịng" dùng để chỉ các loại sản phẩm tẩy rửa, "Đồ gia dụng”
dùng để chỉ các sản phẩm gia dụng, bàn, ghế nói chung, “đồ uống”, “cà phê”, và “cà
phê hồ tan” (instant coffee) vv…
Điều 6.2.b Nghị định 63/CP của Việt Nam quy định các dấu hiệu thuộc loại
thuật ngữ chung và không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa NHHH bao gồm: "Dấu hiệu,

19


biểu tƣợng quy ƣớc, hình vẽ hoặc tên gọi thơng thƣờng của hàng hố thuộc bất kỳ ngơn
ngữ nào đã đƣợc sử dụng rộng rãi, thƣờng xuyên đƣợc nhiều ngƣời biết đến".
Những dấu hiệu, biểu tƣợng, quy ƣớc, hình vẽ của hàng hố, tên gọi thơng
thƣờng của hàng hố thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã đƣợc sử dụng rộng rãi, thƣờng
xuyên nhiều ngƣời biết đến sẽ không đƣợc sử dụng làm NHHH. Hiện nay có nhiều dấu
hiệu, biểu tƣợng, quy ƣớc đã đƣợc thừa nhận chính thức nhƣ các ký hiệu giao thơng,
năm vịng trịn lồng vào nhau là biểu tƣợng cho các thế vận hội thể thao, hình chữ thập
đỏ biểu tƣợng ngành y tế vv… Các biểu tƣợng quy ƣớc này không thể đƣợc bảo hộ với

danh nghĩa NHHH.
Các dấu hiệu mang tính mơ tả đƣợc quy định tại điểm c khoản 2 điều 6
NĐ63/CP là những dấu hiệu sử dụng trong thƣơng mại để đơn thuần chỉ ra những
chủng loại, chất lƣợng, mục đích sử dụng, giá trị, xuất xứ, thời gian sản xuất hoặc bất
kỳ đặc tính nào khác của hàng hố. Ví dụ: sử dụng các chữ "Super Tonic" cho dƣợc
phẩm; "Durable" cho s ản phẩm là vật liệu xây dựng... Có nghĩa là nó có thể dùng cho
mọi hàng hố, dịch vụ và khơng một loại hàng hố, dịch vụ nào đƣợc phép độc quyền
sử dụng để tránh nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng.
1.1.3.3. Các dấu hiệu khơng được bảo hộ vì lý do khác
Ngoài những dấu hiệu bị từ chối do thiếu hoặc khơng có tính phân biệt có những
dấu hiệu có tính phân biệt hoặc có thể hình thành tính phân biệt qua quá trình sử dụng
nhƣng vẫn bị từ chối đăng ký bảo hộ NHHH.
* Các dấu hiệu có tính chất lừa dối
Những dấu hiệu có xu hƣớng làm cho ngƣời tiêu dùng nhầm lẫn về bản chất,
chất lƣợng, nguồn gốc địa lý của sản phẩm hoặc dịch vụ mà bản thân nó khơng có thì
sẽ khơng đƣợc đăng ký làm NHHH.
Pháp luật Việt Nam quy định các dấu hiệu chứa đựng các thơng tin có chủ ý gây
nhầm lẫn sẽ không đƣợc bảo hộ. Điểm d khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/CP của Việt
Nam quy định các dấu hiệu làm ngƣời tiêu dùng hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có

20


tính chất lừa đảo ngƣời tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, cơng dụng, chất lƣợng, giá trị
của hàng hố, dịch vụ thì khơng đƣợc bảo hộ với danh nghĩa NHHH.
Trƣờng hợp nhãn hiệu bị coi là có khả năng gây nên sự nhầm lẫn hoặc hiểu sai
lệch về bản chất, giá trị của hàng hoá/dịch vụ mang nhãn hiệu là nhãn hiệu từ ngữ
hoặc/và hình ảnh gây nên ấn tƣợng sai lạc về tính năng, cơng dụng của hàng hố/dịch
vụ. Ví dụ: nhãn hiệu trùng lặp hoặc tƣơng tự với nhãn hiệu hoặc với một nhãn hiệu
khác đƣợc sử dụng rộng rãi đến mức đƣợc coi là gắn liền với một chức năng, công

dụng của một loại sản phẩm/dịch vụ nhất định khiến cho ngƣời tiêu dùng lầm tƣởng
rằng hàng hố/dịch vụ mang nhãn hiệu cũng có tính năng/cơng dụng đó. Nhãn hiệu từ
ngữ, hình ảnh gây ấn tƣợng sai lạc về thành phần, cấu tạo của sản phẩm/dịch vụ: hình
ảnh, từ ngữ mơ tả sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu gây nên ấn tƣợng sai lạc rằng sản
phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu đƣợc tạo thành ho ặc có bản chất nhƣ sản phẩm/dịch vụ
đƣợc mô tả.
Điều 7.1g Quy định số 40/94 của Hội đồng Châu Âu quy định những NHHH
thuộc loại gây ra tác dụng lừa dối đối với cơng chúng, ví dụ về bản chất, chất lƣợng
hay nguồn gốc địa lý của hàng hố đó thì sẽ không đƣợc bảo hộ.
Pháp luật Nhật Bản cũng quy định tƣơng tự, song chỉ đề cập đến việc NHHH có tính
đánh lừa ngƣời tiêu dùng về chất lƣợng của hàng hố, dịch vụ thì sẽ bị cấm [41; tr. 17].
* Các dấu hiệu được bảo hộ theo thông lệ quốc tế
Công ƣớc Paris quy định các nƣớc thành viên công ƣớc phải từ chối đăng ký hoặc
cấm sử dụng các nhãn hiệu chứa các biểu tƣợng quốc gia và các dấu hiệu chính thức mà
khơng đƣợc phép, quy định tƣơng tự cũng áp dụng cho huy hiệu, cờ các biểu tƣợng khác,
các chữ viết tắt và tên của các tổ chức quốc tế. Trong quan hệ quốc tế, các dấu hiệu mà các
thiết chế này sử dụng mang tính độc quyền. Điều 6.2. Nghị định 63/CP quy định những
dấu hiệu, biểu trƣng thể hiện sự hiện diện của các Nhà nƣớc hay các tổ chức quốc tế không
đƣợc chấp nhận là nhãn hiệu hoặc yếu tố tạo thành nhãn hiệu bao gồm:
- Dấu hiệu giống hoặc tƣơng tự với dấu chất lƣợng, dấu kiểm tra, dấu bảo
hành… của Việt Nam , nƣớc ngoài cũng nhƣ các tổ chức quốc tế;
21


- Dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ, biểu
tƣợng giống hoặc tƣơng tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy, lãnh tụ,
anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của quốc gia cũng nhƣ của nƣớc
ngồi nếu khơng đƣợc các cơ quan có thẩm quyền cho phép.

* Các dấu hiệu xâm phạm các quyền được xác lập trước

Pháp luật Việt Nam quy định rất chi tiết về các dấu hiệu không đƣợc đăng ký
bảo hộ NHHH nếu xâm phạm các quyền đã đƣợc xác lập trƣớc tại Điều 6 Nghị định
63/CP , đặc biệt là trong các trƣờng hợp:
- Xâm phạm nhãn hiệu đƣợc đăng ký trƣớc hoặc NHNT theo quy định tại điều
6bis công ƣớc Paris về bảo hộ SHCN;
- Xâm phạm tên thƣơng mại đƣợc bảo hộ;
- Xâm phạm tên gọi xuất xứ hàng hoá đã đƣợc bảo hộ;
- Xâm phạm quyền tác giả;
- Xâm phạm quyền phát sinh từ kiểu dáng công nghiệp đƣợc bảo hộ;
Đối với các dấu hiệu đi ngược lại giá trị đạo đức hoặc chính sách cơng cộng,
pháp luật các nƣớc nhƣ Mỹ, Nhật Bản hay EU về cơ bản là giống nhau khi quy định
việc từ chối đăng ký với các nhãn hiệu đi ngƣợc lại các giá trị đạo đức hay chính sách
cơng cộng, mặc dù mức độ đề cập cụ thể của từng nƣớc có sự khác nhau. Mỹ và Nhật
Bản chú trọng cấm các nhãn hiệu tạo ra ấn tƣợng khiêu dâm, phân biệt chủng tộc hay
xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của mọi ngƣời, các dấu hiệu vi phạm đạo đức và lợi
ích cơng cộng, các nhãn hiệu nhằm lăng nhục con ngƣời hoặc quốc gia nào đó [41; tr.
12], trong khi pháp luật EU chú trọng nhiều hơn tới các nhãn hiệu đi ngƣợc lại với
chính sách cơng cộng hay các nguyên tắc đã đƣợc công nhận về đạo đức. (Điều 1.f Quy
định 40/1994 của Hội đồng Châu Âu).
Khác với các hệ thống pháp luật trên, pháp luật hiện hành của Việt Nam khơng
có các quy định cụ thể về trƣờng hợp không đƣợc bảo hộ thuộc loại này. Tuy nhiên, để
khắc phục hạn chế trên, Dự thảo Luật SHTT đã quy định không bảo hộ những dấu hiệu
thuộc loại này.
22


1.2. Các loại nhãn hiệu hàng hoá
Trong thực tiễn bảo hộ NHHH của các nƣớc trên thế giới, NHHH thƣờng đƣợc
chia thành các loại khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất
của từng loại, tuy nhiên khơng có bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ

thể về các tiêu chí để phân loại NHHH. Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của các quy
phạm pháp luật, có thể chia thành 2 loại NHHH cơ bản (1.2.1) và NHHH đặc thù
(1.2.2). NHHH cơ bản là những loại nhãn hiệu tồn tại trên thị trƣờng nhiều nhất, phổ
biến nhất và làm cơ sở cho những cái khác; NHHH đặc thù là những loại nhãn hiệu có
những đặc điểm khác biệt về tính chất sở hữu, phƣơng thức sử dụng… đòi hỏi phải có
sự điều chỉnh thích hợp trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
1.2.1 Nhãn hiệu hàng hoá cơ bản
Căn cứ vào đối tƣợng mà NHHH chỉ dẫn đến có hai loại NHHH cơ bản đó là
NHHH và NHDV.
Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá cùng loại của
các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Hàng hoá đƣợc hiểu là những vật phẩm có
nguồn gốc tự nhiên hay đƣợc sản xuất, chế tạo để bán, nó có hai thuộc tính là giá trị
trao đổi và giá trị sử dụng, khi hàng hố đƣợc gắn với một nhãn hiệu cụ thể thì sẽ giúp
cho ngƣời tiêu dùng nhận biết đƣợc nguồn gốc, chất lƣợng, cơng dụng của hàng hố.
Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá ở đây để chỉ những hàng hoá là những tài sản
hữu hình mà bằng các giác quan thơng thƣờng, chúng ta có thể nhận biết đƣợc nó.
NHHH có thể gắn ngay trên hàng hoá ho ặc thể hiện trên bao bì của hàng hố đó giúp
cho ngƣời tiêu dùng có thể dễ dàng nhận biết để phân biệt hàng hố này với hàng hóa
khác của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Vì vậy, "nhãn hiệu hàng hố thực
chất khơng phải là một hoạt động sáng tạo trí tuệ. Nó chỉ là biểu tƣợng...đƣợc cá nhân
hoặc pháp nhân đánh dấu hàng hoá hoặc dịch vụ riêng của mình" [35; tr. 274].
Nhãn hiệu dịch vụ là những dấu hiệu dùng để phân biệt dịch vụ cùng loại của
các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Sản phẩm của nhãn hiệu dịch vụ là những
sản phẩm vô hình do một ngƣời hay một tổ chức doanh nghiệp đứng ra thực hiện nhằm
23


phục vụ nhu cầu của mọi ngƣời trong xã hội. Bởi dịch vụ là một dạng hàng hóa đ ặc
biệt mà khi ngƣời có nhu cầu sử dụng dịch vụ trả tiền thì ngƣời đó sẽ đƣợc hƣởng một
lợi ích nhất định tƣơng ứng với số tiền bỏ ra. Nhãn hiệu dịch vụ thông thƣờng đƣợc

gắn trên bảng hiệu của các dịch vụ để ngƣời có nhu cầu hƣởng dịch vụ đó có thể nhận
thấy một cách dễ dàng (Ví dụ: Vietnam- Airlines, Vietnamtourism...). Khái niệm dịch
vụ ở đây phải đƣợc hiểu là những dịch vụ độc lập. Các hoạt động cụ thể nhằm thực
hiện một cơng việc nào đó của ngƣời làm dịch vụ nhiều khi không đƣợc coi là một dịch
vụ độc lập mà nó chỉ đựơc xem là một lần hoạt động góp phần hình thành nên dịch vụ
đó. Ví dụ hoạt động của một cửa hàng bán quà sinh nhật là một dịch vụ, nhƣng việc gói
q cho khách hàng trong trƣờng hợp này khơng phải là một dịch vụ độc lập, nó chỉ là
một phần hoạt động tạo nên dịch vụ của cửa hàng. Hay hoạt động kinh doanh đồ điện
tử là hoạt động dịch vụ độc lập nhƣng hoạt động bảo hành đối với đồ điện tử nay lại là
một hoạt động phụ thuộc không thể tách rời.
Các văn bản pháp luật Việt Nam cùng với TRIPs, Công ƣớc Paris và Hiệp định
thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ khi đề cập tới NHHH đều có sự phân biệt nhất định
giữa NHHH và NHDV. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai loại nhãn hiệu này chỉ ở chỗ
NHHH là những dấu hiệu phân biệt đƣợc gắn lên các sản phẩm hữu hình cịn các
NHDV là những dấu hiệu phân biệt dành cho các sản phẩm vơ hình. Nhƣng về mặt bản
chất hai loại nhãn hiệu này cơ bản giống nhau. Vì NHDV cũng mang đầy đủ chức năng
biểu hiện nguồn gốc và phân biệt đối với dịch vụ khác giống nhƣ các chức năng tƣơng
tự của NHHH đối với hàng hoá. Đồng thời, trong hầu hết các hệ thống pháp luật
NHHH quốc gia hay quốc tế, NHDV đƣợc đăng ký, gia hạn và huỷ bỏ theo cùng một
cách nhƣ NHHH và đƣợc chuyển giao hoặc cấp phép sử dụng theo cùng những điều
kiện nhƣ NHHH. Vì thế, các quy định điều chỉnh NHHH ở các nƣớc cũng đƣợc áp
dụng, về nguyên tắc, giống hệt cho NHDV.
1.2.2 Các nhãn hiệu hàng hoá đặc thù
1.2.2.1 Nhãn hiệu tập thể (NHTT)
NHTT là một khái niệm mới trong pháp luật của Việt Nam. Bộ luật Dân sự
không quy định về loại nhãn hiệu này. Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ chỉ
24



×