Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

VÕ THỊ MỸ HƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU TƯCHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội 2009


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Danh mục các thuật ngữ viết tắt
Mục lục
Mở đầu
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG
KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHỐN
1.1

Những vấn đề chung về quỹ đầu tƣ chứng khốn

1

1.1.1 Khái niệm và phân loại quỹ đầu tư chứng khoán



1

1.1.2

Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khốn

8

1.1.3

Vai trị của quỹ đầu tư chứng khoán

12

1.1.4

Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của

15

Quỹ đầu tư chứng khốn
1.2

Những vấn đề cơ bản về pháp luật quỹ đầu tƣ chứng

18

khoán
1.2.1


Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với tổ chức và

19

hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán
1.2.2
1.3

Yêu cầu của pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán

22

Pháp luật về quỹ đầu tƣ chứng khoán của một số nƣớc và

28

bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Kết luận Chương 1

37

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM


2.1

Pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán trƣớc khi Luật chứng


39

khốn có hiệu lực (1998 – 2006)
2.1.1

Một số đặc điểm về nội dung của pháp luật quỹ đầu tư chứng

39

khoán giai đoạn 1998 – 2006
2.1.2

Những hạn chế pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán giai đoạn

52

1998 – 2006
2.2

Luật chứng khoán 2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi

56

hành – Bảo đảm pháp lý mới cho hoạt động của quỹ đầu
tƣ chứng khoán trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.2.1

Tác động của sự ra đời Luật chứng khoán 2006 và các văn

56


bản hướng dẫn thi hành đối với sự phát triển quỹ đầu tư
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.2

Hoạt động xây dựng và một số nội dung cơ bản của pháp luật

60

về Quỹ đầu tư chứng khoán từ 2006 đến nay
2.2.3

Tình hình thực thi pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán Việt

68

Nam từ 2006 đến nay
Kết luận Chương 3

80

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Ý KIẾN GÓP PHẦN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG
KHOÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

81


quỹ đầu tƣ chứng khốn
3.1.1

Thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển

82

nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán
3.1.2

Xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
với tính chất ngày càng phức tạp, chủ thể tham gia thị trường

84


tham gia ngày càng đơng
3.1.3

Xây dựng và hồn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán

87

Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế và thực thi các cam
kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán bảo
đảm khuyến khích nhà đầu tư tổ chức tham gia thị trường
3.1.4

Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức để thị trường chứng


90

khoán Việt Nam trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu, an
toàn, ổn định cho các doanh nghiệp và là “hàn thử biểu” cho
nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu
3.1.5

Nâng cao hơn nữa vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán trong

92

việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong việc nâng cao tính
minh bạch, khắc phục tình trạng đầu tư “bầy đàn” trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
3.1.6

Chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để cùng với các nước thành

94

viên ASEAN tiến tới thành lập một thị trường vốn ASEAN
3.1.7

Tạo đà cho thị trường phục hồi sau khủng hoảng tài chính

96

tồn cầu hiện nay
3.2


Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực thi

97

pháp luật quỹ đầu tƣ chứng khoán ở Việt
3.2.1

Về phương diện lập pháp

3.2.1.1 Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn các quy định về

97
98

cơng ty đầu tư chứng khốn
3.2.1.2 Tiếp tục hồn thiện khung pháp lý cho hoạt động của khối 102
công ty quản lý quỹ
3.2.1.3 Cần có những nghiên cứu để bảo đảm hài hoà trong việc thực 104


thi chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động kinh
doanh chứng khoán
3.2.1.4 Bổ sung thêm những chi tiết cần thiết, đảm bảo cho hoạt động 105
của quỹ đầu tư được an toàn và hiệu quả
3.2.2

Một số giải pháp khác

107


3.2.2.1 Nâng cao nhận thức của nhà đầu tư cá nhân về QĐTCK và 107
phương thức đầu tư qua quỹ, đây là giải pháp cần tiến hành
ngay
3.2.2.2 Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các QĐTCK

110

3.2.2.3 Thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán thuộc sở hữu nhà nước, 110
sau khi quỹ hoạt động ổn định, bán lại quỹ cho các nhà đầu tư
công chúng
3.2.2.4 Cho phép thành lập Quỹ đầu tư trước, sau đó chuyển sang cho 112
Công ty quản lý quỹ quản lý
3.2.2.5 Tăng cường đội ngũ chuyên gia kinh tế tài chính, tính chuyên 114
nghiệp trong hoạt động của các QĐTCK
3.2.2.6 Tăng cường công tác phổ biến về quỹ đầu tư chứng khoán cho 114
nhà đầu tư trên thị trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo

115


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế đã chứng minh là, khi TTCK phát triển đến một giai đoạn nhất định,
các hoạt động đầu tư cần phải được tiến hành thơng qua các nhà đầu tư có tổ chức,
có kinh nghiệm để nhà đầu tư nhỏ có thể đạt được lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro
và chi phí thấp nhất. Người thực hiện hoạt động đầu tư thay cho các nhà đầu tư
nhỏ, năng lực tài chính thấp, thiếu kỹ năng phân tích, đánh giá để đưa ra các quyết

định đầu tư, đó là các QĐTCK. Các QĐTCK chỉ có thể phát huy được vai trị của
mình trong việc ổn định, phát triển thị trường theo hướng minh bạch, an toàn khi
TTCK hoạt động theo những quy luật vốn có của nó.
Khi TTCK mới xây dựng, nhà đầu tư nước ta còn khá e dè khi đầu tư vào thị
trường, nhưng khi cảnh kiếm tiền trên TTCK quá dễ đã thôi thúc nhà đầu tư, bất kể
họ là ai lao vào kinh doanh chứng khoán. Chứng khoán vượt quá giá trị thật. Nhà
đầu tư biết nhưng họ vẫn mua. Họ chấp nhận mạo hiểm vì tin rằng trên thị trường
sẽ cịn có người mua lại nó với giá cao hơn nữa. Lòng tham của con người khiến
họ hành động, bởi khi cịn nhìn thấy cơ hội kiếm lợi, họ còn nhảy vào. Sự phát
triển theo kiểu “bong bóng” của TTCK Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng
trưởng cao nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với 145% và đầu năm 2007
tăng thêm 46% - cao nhất trên thế giới [24] buộc các nhà hoạch định chính sách
phải suy nghĩ bảo đảm sự phát triển bền vững của thị trường, đến mức Ngân hàng
Nhà nước ban hành Quyết định 03/QĐ-NHNN về hạn chế cho vay kinh doanh
chứng khoán của các ngân hàng thương mại để tránh một cuộc khủng hoảng tài
chính như đã xảy ra ở các nước Đông Nam á những năm 1997.
Thực trạng trên kết hợp với tình trạng từ đầu năm 2008 tới nay, TTCK Việt
Nam sụt giảm tới mức đáng lo ngại, nhiều nhà đầu tư đã mất hết nguồn vốn đầu tư,
tài sản riêng do chứng khoán mất giá, hoặc có nhà đầu tư chuyển hướng sang kinh
doanh vàng hoặc đơ la Mỹ càng làm cho tình trạng rối ren trên thị trường tài chính


nước ta.
Để thị trường phát triển ổn định, an toàn, nhà nước cần có các biện pháp để
khuyến khách nhà đầu tư chuyên nghiệp và các QĐTCK. Muốn làm được điều
này, cần nâng cao nhận thức của nhà đầu tư về những lợi ích thoong qua việc đầu
tư thơng qua QĐTCK, các quy định pháp luật về mơ hình QĐTCK, nhất là các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của nhà đầu tư để nhà đầu tư nhận thức được nếu đầu tư
qua QĐTCK học sẽ được bảo đảm rằng nguồn vốn đầu tư sẽ mang lại lợi nhuận tối
đa và sự bảo vệ của các quy định pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về QĐTCK hiện nay phần lớn mới chỉ tập trung vào các biện
pháp nhằm khuyến khích, phát triển QĐTCK trong điều kiện TTCK Việt Nam
ngày càng phát triển, như Nguyễn Lê Cường (2007) Quỹ đầu tư chứng khốn – mơ
hình tổ chức và giải pháp thúc đẩy phát triển trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Tài chính; Phương Hồng Lan Hương
(2001), Hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khốn và Cơng ty quản lý quỹ ở
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ; Viện Hàn lâm khoa học Quốc gia
Ucraine, TS. Nguyễn Minh Đức (2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế
chuyển đổi, Nxb Tài chính, Hà Nội; Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2008),
“Quỹ đầu tư chứng khốn mơ hình thích hợp để nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường
chứng khốn”, Tạp chí Ngân hàng số 19, tháng 9/2008; Viên Thế Giang, Võ Thị
Mỹ Hương (2009), “Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 82, tháng 3/2009;
Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2009), Thực trạng pháp luật quỹ đầu tư
chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Cơng nghệ Ngân hàng số tháng 7/2009; Võ Thị
Mỹ Hương (2009), Vài nét về pháp luật quỹ đầu tư chứng khốn ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 84, tháng 5/2009…
Như vậy, các nghiên cứu này phần lớn tập trung chỉ rõ mơ hình tổ chức, cách


thức vận hành QĐTCK hoặc khai thác những lợi ích từ việc đầu tư thông qua
QĐTCK hoặc nghiên cứu QĐTCK song song với công ty quản lý quỹ. Trong tác
tài liệu giảng dạy tại các trường đại học hiện nay, QĐTCK được đề cập rất ít, chỉ là
những nét khái quát hay được đề cập như một chủ thể kinh doanh trên TTCK, như
Học viện Tài chính (2008), Giáo trình thị trường chứng khốn, Nxb Tài chính, Hà
Nội; TS. Đào Lê Minh (Chủ biên, 2004) Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS NGƯT
Đinh Xn Trình, PTS Nguyễn Thị Quy (1998), Giáo trình thị trường chứng
khốn, Nxb Giáo dục, Hà Nội... Các nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống các

quy định pháp luật về QĐTCK hiện nay hầu như chưa được đề cập nhiều.
Với những suy nghĩ trên, việc lựa chọn nội dung “Pháp luật về Quỹ đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật là có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về QĐTCK, luận văn tập trung làm rõ
hơn những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK, phân tích thực trạng và đề xuất các
nhóm giải pháp sửa đổi, bổ sung những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành
và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trên
thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là luận văn chuyên ngành luật học, Luận văn khơng phân tích dưới giác độ
kinh tế mà tập trung chủ yếu vào việc đánh giá, bình luận về các quy định pháp
luật hiện hành về QĐTCK. Để làm được điều này, Luận văn tập trung xây dựng hệ
thống các vấn đề lý luận về QĐTCK, trong đó nhấn mạnh đến đặc điểm đặc thù
của QĐTCK; những vấn đề lý luận pháp luật QĐTCK trên cơ sở phân tích, so sánh
với pháp luật một số nước trên thế giới. Đồng thời Luận văn phân tích thực trạng
của pháp luật QĐTCK qua các giai đoạn phát triển nhằm chỉ ra những bất cập, hạn


chế và đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung phù hợp với tiến trình cải cách TTCK
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích so sánh tổng
hợp để chỉ rõ mơ hình pháp lý của QĐTCK, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong
các quy định để chỉ ra biện pháp sửa đổi, bổ sung. Ngoài các phương pháp trên, tác
giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để chỉ rõ những khó khăn trong
việc vận hành mơ hình QĐTCK, đồng thời làm rõ nhu cầu, phương hướng xây
dựng, vận hành QĐTCK theo quy định của pháp luật hiện hành, nhất là thành lập
và vận hành mơ hình cơng ty đầu tư chứng khốn theo quy định của Luật chứng

khốn 2006.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
- Luận văn đã khái quát được hệ thống các vấn đề lý luận về QĐTCK, lý luận
pháp luật QĐTCK và nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước về
QĐTCK và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Luận văn khái quát quá trình phát triển pháp luật QĐTCK Việt Nam qua các
giai đoạn, chỉ rõ những nội dung, kết quả công tác lập pháp và những bất cập trong
thực tiễn thi hành pháp luật QĐTCK làm tiền đề lý luận và thực tiễn đề xuất các
nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QĐTCK trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế;
- Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, Luận văn đã xây dựng cơ sở
lý luận và thực tiễn cho việc hồn thiện pháp luật QĐTCK, đề xuất các nhóm giải
pháp pháp lập pháp và thực thi pháp luật QĐTCK trên thực tế.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về Quỹ đầu tư chứng khoán và pháp luật về


Quỹ đầu tư chứng khoán
Chương 2. Thực trạng pháp luật về Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Chương 3. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
Quỹ đầu tư chứng khoán trong giai đoạn hiện nay


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN VÀ
PHÁP LUẬT QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm và phân loại quỹ đầu tƣ chứng khoán

1.1.1.1 Khái niệm quỹ đầu tƣ chứng khoán
TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được xác định là nơi diễn ra
các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này
được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu
từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại
các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình
thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các
loại chứng khốn, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Để thực hiện việc đầu tư - kinh doanh chứng khoán trên thị trường tài chính,
địi hỏi cơng chúng và các nhà đầu tư khơng chỉ có kiến thức về chứng khốn và
TTCK mà cịn phải thường xuyên quan tâm, theo dõi, bám sát thực trạng, phân tích
xu hướng phát triển của thị trường vốn. Để làm được điều này đòi hỏi các nhà đầu
tư phải tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, tài liệu để tiến hành phân
tích từng chứng khốn cụ thể, lập và quản lý danh mục đầu tư… nhằm hạn chế rủi
ro, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Với lĩnh vực nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt
này, chỉ những chuyên gia và các nhà đầu tư chuyên nghiệp mới có thể thực hiện
được. Vì vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư với khả năng hạn chế về tri thức,
thông tin và công nghệ đã được giải quyết bởi q trình hợp tác và phân cơng lao
động xã hội trong hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán. Từ nhu cầu thực
tiễn đã dẫn đến sự hình thành từng bước những mối quan hệ kinh tế tất yếu trên cơ
sở của sự phân công và phối hợp những quan hệ về sở hữu vốn, quản trị và điều


hành việc sử dụng vốn đầu tư một cách có tổ chức... Cùng với nó, những người chủ
sở hữu vốn đầu tư thành lập những tổ chức tài chính dưới mơ hình như: “quỹ đầu
tư”, “cơng ty đầu tư”, “cơng ty quản lý quỹ đầu tư”...
Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của thị
trường tài chính và khi TTCK đã phát triển ở mức độ nhất định. Thực tiễn đã
chứng minh rằng, mặc dù TTCK đã xuất hiện từ giữa thế kỷ XV nhưng các Quỹ
đầu tư, Công ty quản lý quỹ mới chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX và

phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX đến nay. Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ
thường được hình thành một cách tuần tự, từ đơn giản đến phức tạp, quy mô từ nhỏ
đến lớn và mơ hình tổ chức - quản lý ngày càng hoàn thiện, phạm vi hoạt động từ
quốc gia đến quốc tế.
Lịch sử phát triển của các Quỹ đầu tư, Cơng ty quản lý quỹ cho thấy, mơ hình
khởi điểm là các Quỹ đầu tư tập thể, chưa phải là pháp nhân, sau đó là thời kỳ phát
triển của các Quỹ đầu tư dưới dạng công ty theo mô hình “đóng” rồi mới xuất hiện
và phát triển dưới mơ hình “mở”. Từ thực tiễn, sự phát triển khơng ngừng của các
Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ trên thị trường tài chính là một trong những kết
quả trực tiếp của sự phát triển của phân công lao động xã hội trong lĩnh vực tài
chính [28].
Dưới góc độ kinh tế, QĐTCK là một loại hình quỹ đầu tư trên TTCK, trong
đó lượng vốn đầu tư của quỹ được tập trung vào chứng khoán các loại như cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn
mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khốn hoặc chỉ số chứng
khốn.
Dưới góc độ xã hội, QĐTCK là một chủ thể tham gia đầu tư vàoTTCK thơng
qua việc tập hợp những nhà đầu tư nhỏ, ít kinh nghiệm lại với nhau để cùng chung
vốn đầu tư thơng qua các nhà đầu tư có kinh nghiệm, am hiểu thị trường nhằm đạt
lợi nhuận cao nhất với chi phí và độ rủi ro thấp nhất tạo nên sự ổn định và phát


triển bền vững của TTCK. Trong trường hợp thị trường có những biến động xấu
ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển, QĐTCK là sự lựa chọn tối ưu của nhà đầu
tư, vì các QĐTCK ít chịu tác động của tâm lý đám đông, tâm lý bầy đàn, nhất là ở
các thị trường mới nổi.
Dưới góc độ pháp lý, do bản chất hoạt động của mình, QĐTCK đã trở thành
một phần quan trọng của mọi thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư nhỏ, ít
kinh nghiệm thường dựa vào các định chế này để tham gia đầu tư trên thị trường.
Vì vậy, định nghĩa về quỹ đầu tư thường được các cơ quan pháp luật lựa chọn để

thực hiện khả năng bảo hộ tối đa cho những người đầu tư, đảm bảo sự tin tưởng
hồn tồn của cơng chúng đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Các quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng
thu nhận tiền từ một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó vào
các tài sản tài chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các cơng cụ của thị
trường tài chính.
Các quỹ đầu tư tại Anh được coi là mọi hình thái về tài sản hoặc bất kỳ loại
nào với mục đích là cho phép những người tham gia vào các hình thái đó được
tham gia hoặc thu lợi nhuận phát sinh từ việc mua, giữ, quản lý hoặc xử lý tài sản
hoặc tiền được thanh tốn từ lợi nhuận hoặc thu nhập đó.
Các quỹ đầu tư tại Nhật Bản được coi là một sản phẩm được hình thành nhằm
đầu tư số tiền tập hợp được từ một số lớn các nhà đầu tư vào chứng khoán (cổ
phiếu và trái phiếu), tập trung dưới sự quản lý của những người không phải là
người đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư cho các nhà đầu
tư theo tỷ lệ vốn mà họ đóng góp vào quỹ.
Theo định nghĩa của Trung Quốc, quỹ đầu tư là một phương thức đầu tư tập
thể vào chứng khoán, chủ yếu bằng việc thu hút vốn của người đầu tư thông qua
phát hành các đơn vị quỹ. Vốn được uỷ thác cho các tổ chức giám sát quỹ và được
những người điều hành quản lý và đầu tư vào các cơng cụ tài chính như cổ phiếu


và trái phiếu.
Đối với Việt Nam, khái niệm QĐTCK lần đầu tiên được quy định tại Nghị
định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về chứng khốn và
thị trường chứng khoán. Theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP, QĐTCK
được hiểu là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được ủy thác cho công ty
quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng
khoán. Đây là các quy định có ý nghĩa mở đầu cho việc hình thành và phát triển
mơ hình QĐTCK tại Việt Nam.
Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về

chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành thay thế cho Nghị định
48/1998/NĐ-CP. Nghị định 144/2003/NĐ-CP đã có những quy định cụ thể rõ ràng
hơn về QĐTCK và mơ hình tổ chức của nó. Theo Nghị định này, QĐTCK vẫn
được tổ chức theo mơ hình quỹ tín thác đầu tư dạng hợp đồng với các chủ thể tham
gia chủ yếu là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. QĐTCK,
Công ty quản lý quỹ phải có vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam. QĐTCK
có thể là quỹ cơng chúng hoặc quỹ thành viên. Quỹ công chúng sau khi được thành
lập được thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ phải
có nghĩa vụ niêm yết chứng chỉ quỹ trên thị trường giao dịch tập trung.
Luật chứng khốn 2006 đã có những quy định cụ thể hơn và đầu đủ hơn về
QĐTCK. Luật chứng khốn quy định, QĐTCK được hiểu là quỹ hình thành từ vốn
góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán
hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư khơng
có quyền kiểm sốt hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
Với quy định này của Luật chứng khoán, QĐTCK khơng chỉ là QĐTCK dạng
hợp đồng dạng tín thác đầu tư mà cịn được thiết lập theo mơ hình cơng ty – cơng
ty đầu tư chứng khốn. Mơ hình QĐTCK dù được thiết lập dưới dạng hợp đồng
hay công ty đều có thể được thiết lập dưới dạng Quỹ đại chúng hay Quỹ thành


viên. Đây là cơ hội thuận lợi để phát triển mơ hình QĐTCK trong điều kiện TTCK
nước ta đang có những bước điều chỉnh theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên
nghiệp hơn.
1.1.1.2. Phân loại quỹ đầu tƣ chứng khoán
Cho đến nay, trên thế giới xuất hiện khá nhiều loại hình QĐTCK. Tùy thuộc
vào mức độ phát triển và tình hình của thị trường tài chính của mỗi quốc gia sẽ
xuất hiện các loại hình của Quỹ tương ứng cũng như tùy thuộc vào mục đích
nghiên cứu có thể sử dụng các tiêu chí (căn cứ) khác nhau trong phân loại QĐTCK
a) Căn cứ vào nguồn vốn huy động, QĐTCK gồm hai loại:
- Quỹ đầu tƣ tập thể (quỹ công chúng)

Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra cơng chúng. Nhà đầu tư
có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ
công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng
hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên
nghiệp của đầu tư mang lại.
- Quỹ đầu tƣ cá nhân (Quỹ thành viên)
Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm
nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các định chế tài
chính hoặc các tập đồn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp
hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn
lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ.
b) Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn, QĐTCK gồm
- Quỹ đóng
Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành
huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu
tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này,
sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được


niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu
hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thơng qua thị trường thứ cấp.
Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ
hoạt động. Hình thức quỹ đóng này mới được áp dụng tại Việt Nam, đó là Quỹ đầu
tư VF1 do cơng ty VFM huy động vốn và quản lý.
- Quỹ mở
Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch
do tính chất đặc thù của nó là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư
cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao
dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực
hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ khơng được niêm yết

trên thị trường chứng khốn. Do việc địi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ
mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát
triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam.
c) Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ, QĐTCK gồm
- Quỹ đầu tƣ dạng công ty
Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một cơng ty được
hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của
quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là
quản lý tồn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn cơng ty quản lý quỹ và giám sát hoạt
động đầu tư của cơng ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi cơng ty quản lý quỹ.
Trong mơ hình này, cơng ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu
trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các
cơng việc quản trị kinh doanh khác.
Mơ hình quỹ đầu tư dạng công ty hiện được áp dụng rộng rãi tại các nước có
thị trường chứng khốn hình thành và phát triển từ lâu đời mà điển hình là thị
trường chứng khoán Mỹ và Anh, chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của


UBCKNN, quỹ đầu tư khơng có tư cách pháp nhân.
Sơ đồ 1: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tƣ dạng công ty

- Quỹ đầu tƣ dạng hợp đồng
Quỹ đầu tư dạng hợp đồng cịn được gọi là mơ hình quỹ tín thác đầu tư. Bản
chất hoạt động của các quỹ tín thác đầu tư là dựa trên cơ sở quan hệ tín thác tài
sản và hợp đồng tín thác được coi là một chứng từ pháp lý cơ bản để điều chỉnh
hoạt động của các bên tham gia.
Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mơ hình cơng ty là quỹ đầu tư trong mơ
hình này khơng phải là một pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ,
tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra
trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trị bảo quản vốn và các

tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể
hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên
trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu
tư. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng khơng phải là cổ đơng như
mơ hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ
để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.


Sơ đồ 2: Cơ chế hoạt động của quỹ đầu tƣ dạng hợp đồng

1.1.2. Đặc điểm của quỹ đầu tƣ chứng khoán
So với các chủ thể tham gia TTCK, quỹ đầu tư chứng khốn có những đặc
điểm riêng sau đây:
Một là, QĐTCK hoạt động trên cơ sở quan hệ ủy thác tài sản, theo đó, nhà
đầu tư – những người có tiền tạm thời nhàn rỗi chuyển giao tiền vốn của mình cho
các nhà đầu tư chuyên nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư hộ mình. Những nhà đầu
tư chuyên nghiệp này là người có kiến thức, am hiểu thị trường giúp cho các nhà
đầu tư riêng lẻ yên tâm hơn trong hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư thực hiện việc đầu
tư thơng qua quỹ đầu tư chứng khốn bằng cách góp tiền vào quỹ thơng qua việc
mua chứng chỉ quỹ đầu tư.
Chứng chỉ quỹ đầu tư là cơ sở xác lập quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với tài
sản của quỹ cũng như để phân chia lợi nhuận. Đây là điểm khác biệt giữa việc huy
động vốn của QĐTCK với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Bởi
lẽ việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại là để thực hiện hoạt động kinh
doanh tìm kiếm lợi nhuận. Các ngân hàng thương mại phải trả cho người gửi tiền
một khoản phí/lãi suất khi sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay lại.


Hai là, hoạt động của QĐTCK được thực hiện thông qua các công ty quản lý
quỹ. Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp được tổ chức dưới mơ hình công ty trách

nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Công ty quản lý quỹ thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh là quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư. Công ty
quản lý quỹ thiết lập và điều hành mọi mặt hoạt động của QĐTCK, được giao quản
lý tài sản và không ngừng gia tăng tài sản của quỹ. Công ty quản lý quỹ được trả
phí từ sự gia tăng tài sản của QĐTCK.
Như vậy, có thể khẳng định QĐTCK và cơng ty quản lý quỹ tồn tại không thể
thiếu nhau, cùng nương tựa vào nhau, hoạt động và tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động
của QĐTCK được thực hiện trên cơ sở tập hợp các nguồn vốn đầu tư nhỏ thành
lượng vốn đầu tư có quy mô lớn, được thống nhất quản lý, điều hành và sử dụng
thông qua công ty quản lý quỹ. Công ty quản lý quỹ có vai trị quan trọng đối với
sự hình thành và phát triển của QĐTCK.
Ba là, QĐTCK là loại quỹ đầu tư mà tỷ trọng vốn của quỹ được sử dụng chủ
yếu vào để đầu tư kinh doanh chứng khốn. Nói một cách khác đi, vốn đầu tư của
QĐTCK được dùng để kinh doanh chứng khoán. QĐTCK được hình thành trên cơ
sở huy động tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư cá nhân có nhu cầu tham gia TTCK.
Như vậy, đối tượng phục vụ chủ yếu của các QĐTCK là những nhà đầu tư cá nhân,
những người có tiềm lực tài chính khơng mạnh, thiếu các kỹ năng đầu tư trên
TTCK.
Khi thực hiện ủy thác tài sản của mình cho những nhà đầu tư chuyên nghiệp
thực hiện việc đầu tư, Ban đại diện QĐTCK và công ty quản lý quỹ phải cam kết
sử dụng tài sản của nhà đầu tư vào chứng khoán. Việc sử dụng tài sản của nhà đầu
tư để kinh doanh lĩnh vực khác là trái pháp luật. Để bảo đảm tính khách quan, công
bằng trong hoạt động, hoạt động của QĐTCK thường dựa trên mối quan hệ giữa ba
chủ thể cơ bản là các nhà đầu tư, công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát.
Bốn là, mơ hình hoạt động của QĐTCK rất đa dạng, linh hoạt, giúp cho các


nhà đầu tư lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình như quỹ đại chúng, quỹ thành
viên, quỹ mở, quỹ đóng… Sự phát triển của các mơ hình QĐTCK phụ thuộc vào
sự phát triển của hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, trình độ phát triển của nền

kinh tế và các nhà đầu tư để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của họ. Hoạt động của
QĐTCK góp phần rất lớn cho sự phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững của hệ
thống thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng.
Năm là, QĐTCK là mơ hình đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của nhà
đầu tư. Ở mức độ khái quát, nhà đầu tư được hiểu là những người thực hiện việc bỏ
tiền đầu tư chứng khốn thơng qua việc trao đổi, giao dịch các công cụ của TTCK.
Nhà đầu tư bao gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nhà
đầu tư cá nhân là những người tự mình tham gia giao dịch chứng khốn trên thị
trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Khi TTCK chưa phát triển, nhà đầu tư
cá nhân thường sử dụng tiền nhàn rỗi của mình để đầu tư bất động sản hoặc cất trữ
những tài sản an tồn, ít mất giá như vàng hay đơla Mỹ. Khi TTCK phát triển thì
nhà đầu tư cá nhân thường chọn TTCK để đầu tư, vì TTCK phản ánh sự tăng
trưởng kinh tế, do đó nhà đầu tư dễ thu được các khoản lợi nhuận cao từ sự tăng
trưởng kinh tế thơng qua việc mua bán chứng khốn các loại. Tuy vậy, cũng giống
như đầu tư lĩnh vực khác lợi nhuận và kỳ vọng lợi nhuận luôn song hành với các
rủi ro. Các nhà đầu tư cá nhân thường là những người có tiềm lực tài chính khơng
mạnh, khơng có khả năng phân tích, dự báo xu hướng phát triển của thị trường mà
thường đầu tư theo đám đông nên độ rủi ro cao.
Nhà đầu tư chuyên nghiệp thường là các tổ chức đầu tư. Họ là những người
thường xuyên mua bán chứng khoán với khối lượng lớn trên thị trường. Hoạt động
đầu tư của các nhà đầu tư chuyên nghiệp thường được quản lý bởi một đội ngũ
chuyên gia lành nghề về phân tích và đầu tư trên cơ sở tiềm lực tài chính mạnh.
Các nhà đầu tư chuyên nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở một danh mục
đầu tư đã được xác định, quy mô vốn lớn hơn nhiều so với nhà đầu tư cá nhân.


QĐTCK là nhà đầu tư chuyên nghiệp. Thông qua QĐTCK các nhu cầu đầu tư
được thể hiện sinh động bằng việc QĐTCK lựa chọn được danh mục đầu tư hiệu
quả. QĐTCK mang lại cho hầu hết các nhà đầu tư cá nhân mức lợi nhuận tối đa
với độ rủi ro và chi phí thấp nhất so với việc nhà đầu tư nhỏ lẻ tự mình thực hiện

các hoạt động đầu tư. Trên cơ sở mục tiêu lợi nhuận cao với độ rủi ro thấp cộng
với việc quản lý chuyên nghiệp và thuận tiện là nền tản thành công của tất cả các
QĐTCK.
Như vậy, hoạt động của QĐTCK đáp ứng được nhu cầu đầu tư của các chủ
thể khi tham gia thị trường với mức độ an toàn nhất. Đây là điều kiện, là tiền đề tạo
nên sự ổn định trên thị trường thứ cấp, góp phần huy động vốn cho phát triển kinh
tế nói chung và cho sự phát triển của thị trường sơ cấp nói riêng, là kênh luân
chuyển nguồn vốn tiết kiệm đi vào hoạt động đầu tư. Khi tham gia đầu tư, nhà đầu
tư có cơ hội được lựa chọn những QĐTCK phù hợp nhất với khả năng chịu rủi ro
và thời gian đầu tư của mình.
1.1.3. Vai trị của quỹ đầu tƣ chứng khốn
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự phát triển của
TTCK nói riêng, QĐTCK ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế
của một quốc gia. Vai trò quan trọng này của QĐTCK bắt nguồn từ chính bản chất
hoạt động của QĐTCK là loại hình chun cung cấp dịch vụ tài chính với chất
lượng cao. Thông qua hoạt động của QĐTCK, nhà đầu tư riêng lẻ cũng như công
chúng đầu tư cơ hội đầu tư tốt hơn, góp phần quan trọng trong việc huy động vốn
đầu tư cho sự phát triển và thúc đẩy sự phát triển ổn định của TTCK. Mặc dù
QĐTCK vẫn còn là một khái niệm rất mới mẻ (QĐTCK lần đầu tiên VF1 được
giới thiệu tới công chúng vào cuối năm 2004) ở nước ta, việc đầu tư vào TTCK
thông qua QĐTCK chưa phổ biến, nhưng lĩnh vực này hứa hẹn nhiều tiềm năng
và cơ hội phát triển trong thời gian tới nhờ xu thế phát triển tất yếu của thị trường
tài chính cũng như những ưu điểm và lợi ích mà nó mang lại cho các nhà đầu tư.


Có thể kể đến một số lợi ích sau:
a) Có thể đa dạng hóa danh mục đầu tƣ mà khơng cần một lƣợng vốn
lớn. Để đầu tư vào một công ty địi hỏi nhà đầu tư phải có một quy mơ vốn nhất
định. Vì vậy, khơng phải nhà đầu tư cá nhân nào cũng có điều kiện đa dạng hóa
danh mục đầu tư của mình. Tập hợp được vốn của rất nhiều nhà đầu tư, QĐTCK

có quy mơ đủ lớn để có thể đầu tư vào nhiều ngành nghề, vào nhiều khu vực địa lý
và nhiều công ty khác nhau... Như vậy, với một số vốn khiêm tốn, tham gia vào
QĐTCK, nhà đầu tư có thể gián tiếp đa dạng hóa đầu tư của mình để giảm thiểu rủi
ro và tăng hiệu quả đầu tư.
b) Có cơ hội sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của các nhà quản lý đầu
tƣ chuyên nghiệp. Tham gia vào QĐTCK nhà đầu tư khơng phải mất thời gian,
cơng sức để tìm hiểu, cập nhật và phân tích thơng tin. Các nhà quản lý đầu tư
chuyên nghiệp sẽ thay mặt nhà đầu tư hoạch định và thực hiện một cách có kỷ luật
những chiến lược đầu tư năng động cho những đồng vốn được giao phó. Điều này
có ý nghĩa quan trọng, bởi khi đó nhà đầu tư khơng phải đối diện với những rủi ro
thông tin, rủi ro do sự hạn chế hiểu biết về TTCK.
c) Có thể theo dõi tình trạng khoản đầu tƣ của mình nhờ tính minh bạch
cao. Nói khác đi, nhà đầu tư ln an tâm vì quyền lợi của mình ln được bảo vệ.
Ngồi việc được cung cấp thông tin một cách rõ ràng, minh bạch thông qua các tài
liệu của quỹ (như Bản cáo bạch, Điều lệ quỹ), các báo cáo định kỳ..., để bảo vệ
quyền lợi nhà đầu tư, mỗi quỹ công chúng đều được giám sát bởi một ngân hàng
độc lập với công ty quản lý quỹ. Ngoài việc lưu giữ toàn bộ tài sản của quỹ, ngân
hàng giám sát có trách nhiệm kiểm tra, giám sát thường xuyên để đảm bảo hoạt
động của công ty quản lý quỹ là phù hợp với quy định của pháp luật và Điều lệ
quỹ.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư có quyền tham gia Đại hội các nhà đầu tư và bầu Ban
đại diện quỹ để theo dõi, giám sát hoạt động của công ty quỹ, ngân hàng giám sát


và các tổ chức cung cấp dịch vụ cho công ty quản lý quỹ cũng như quy trình xác
định giá trị tài sản ròng của quỹ. Kết quả hoạt động đầu tư và chi phí của quỹ được
báo cáo đầy đủ và thường xun cho cơng chúng. Qua đó, nhà đầu tư ln biết
được tình hình hoạt động của quỹ và lợi ích mà quỹ đã mang lại cho mình.
d) Có nhiều lựa chọn đầu tƣ và thuận tiện trong giao dịch. QĐTCK sẽ giới
thiệu nhiều loại quỹ khác nhau để nhà đầu tư có thể lựa chọn phù hợp với mục tiêu

đầu tư và khả năng chấp nhận rủi ro của mình. Các QĐTCK cơng chúng được
niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán để các nhà đầu tư có thể dễ dàng
mua bán chứng chỉ QĐTCK.
Với những lợi thế và tiện ích trên, QĐTCK đặc biệt thích hợp với những nhà
đầu tư có vốn nhàn rỗi, có nhu cầu đầu tư, nhưng khơng có điều kiện, thời gian để
tìm hiểu, cập nhật và đánh giá thơng tin để có thể trực tiếp đầu tư một cách có hiệu
quả. Vai trò của QĐTCK được thể hiện qua những điểm chủ yếu sau đây [10]:
Thứ nhất, QĐTCK cung cấp cho các nhà đầu tư riêng lẻ, cho công chúng cơ
hội đầu tư tốt hơn để đạt được mục đích tối đa hóa lợi ích. Cũng giống như các
nước có TTCK phát triển như Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản… ở nước ta hiện nay đại bộ
phận công chúng đầu tư khó có điều kiện để thực hiện đầu tư trực tiếp vào TTCK,
bởi lẽ trong điều kiện vốn ít, thiếu kiến thức, kinh nghiệm cũng như thời gian…
dẫn đến nhà đầu tư luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thì việc lựa chọn đầu tư
thơng qua QĐTCK là kênh an tồn và hữu hiệu nhất nhất. Thơng qua QĐTCK, nhà
đầu tư dễ dàng thực hiện được đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro; giảm chi phí
giao dịch, bảo đảm hoạt động đầu tư được quản lý chun nghiệp và có tính thanh
khoản cao.
Khi tham gia vào thị trường khơng phải nhà đầu tư nào cũng có am hiểu về cơ
chế hoạt động của thị trường nên hiện tượng đầu tư theo đám đông, tâm lý bầy đàn
diễn ra rất phổ biến, nhất là ở những nước có thị trường mới nổi như Việt Nam.
Hiệu ứng đám đông không hiểu biết đã làm cho xu hướng vận động, phát triển của


thị trường bị “méo mó”, khơng tn theo quy luật vốn có của nó. Thực tế này
khơng chỉ ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ mà cịn ảnh hưởng tới
tồn bộ nền kinh tế, bởi TTCK chính là “hàn biểu thử” của nền kinh tế.
Thơng qua việc đầu tư kinh doanh qua QĐTCK, nhà đầu tư khơng cịn chịu sự
tác động của tâm lý đám đơng. Với đội ngũ chuyên gia giỏi, am hiểu kinh nghiệm
thì những rủi ro do tiếu hiểu biết sẽ được hạn chế ở mức độ tối đa.
Thứ hai, QĐTCK góp phần quan trọng vào việc huy động vốn cho đầu tư

phát triển kinh tế. QĐTCK là cầu nối lý tưởng giữa nguồn vốn ngắn hạn của người
đầu tư và nhu cầu dài hạn trên thị trường tài chính, cung cấp nguồn vốn cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án đầu tư mạo hiểm. QĐTCK dễ dàng thực hiện
đa dạng hóa đầu tư theo danh mục, từ đó sẽ hạn chế được phần lớn những rủi ro
khơng hệ thống. Chính vì vậy, ở nhiều nước QĐTCK là người sẵn sàng trong việc
mua các chứng khoán mới phát hành của các công ty vừa và nhỏ, các công ty lần
đầu tiên phát hành chứng khốn… Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc tài trợ
cho sự phát triển của các cơng ty, bởi lẽ, phần lớn các cơng ty nói trên chưa đủ
mạnh, chưa đủ uy tín để lơi cuốn các nhà đầu tư riêng lẻ thực hiện bỏ vốn đầu tư.
Thứ ba, QĐTCK góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định của TTCK.
Thực tế đã chứng minh rằng, QĐTCK xuất hiện khi TTCK phát triển đến một giai
đoạn nhất định, nhưng trong giai đoạn đầu hình thành TTCK, sự xuất hiện các
QĐTCK sẽ dần hình thành thói quen đầu tư. Mặt khác, là nhà đầu tư chuyên
nghiệp, QĐTCK có đóng góp quan trọng cho sự phát triển TTCK bằng việc đưa ra
những phương án đầu tư khoa học và thực hiện đầu tư trên cơ sở phân tích đánh
giá kỹ lưỡng cơ hội đầu tư. Chính hoạt động này của QĐTCK đã góp phần vào
viện ổn định thị trường.
1.1.4. Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của Quỹ đầu
tƣ chứng khoán
Ở TTCK nước nào cũng vậy, việc hình thành và phát triển các QĐTCK chịu


sự tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau. Việc nhìn nhận chính xác các
nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của QĐTCK sẽ giúp cho nhà đầu
tư, cơ quan quản lý thị trường có được định hướng để lựa chọn các phương án đầu
tư có hiệu quả nhất. Theo quan điểm của tác giả, những nhân tố sau đây tác động
đến sự hình thành và phát triển của QĐTCK:
Một là, Mức độ phát triển và hoàn thiện của TTCK cho phép nhà quản lý, nhà
đầu tư dễ dàng tiếp cận nhiều cơ hội đầu tư, song giống như những hoạt động kinh
doanh khác, đầu tư chứng khốn tiềm ẩn khơng ít rủi ro. TTCK hoạt động với tất

cả các quy luật vốn có của nó: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá
trị thì những bước hiệu chỉnh của thị trường sẽ giúp cho thị trường đi theo đúng
quy luật và địi hỏi cơng chúng đầu tư. Điều này dẫn đến yêu cầu đối với công
chúng đầu tư là cần có kinh nghiệm, am hiểu quy luật hoạt động của thị trường.
Nhưng trên thực tế không phải nhà đầu tư nào cũng làm được điều này. Thị trường
càng phát triển, quy mơ càng mở rộng thì những biến động của thị trường, nhất là
biến động về giá, biến động về khối lượng giao dịch hàng ngày thì việc lựa chọn
loại chứng khốn phù hợp khơng phải là dễ dàng nhất là đối với nhà đầu tư nhỏ, ít
kinh nghiệm.
Khi TTCK chưa thật sự phát triển, cách mà nhiều người có tiền nhàn rỗi trong
dân cư lựa chọn là gửi tiền vào các ngân hàng thương mại để hưởng lãi suất tiền
gửi. Đây là hướng đầu tư an toàn. Song sự phát triển của TTCK đã cạnh tranh trực
tiếp với các ngân hàng thương mại trong việc thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân
cư để thực hiện việc đầu tư trên thị trường. Nhưng TTCK chỉ trở thành kênh đầu tư
có hiệu quả đối với những nhà đầu tư chuyên nghiệp, còn đối với các nhà đầu tư cá
nhân, đầu tư nhỏ, vốn ít thì gặp khơng ít khó khăn.
Sự ra đời của QĐTCK là một kênh hữu hiệu để nhà đầu tư thực hiện việc đầu
tư có hiệu quả hơn. Cũng như những chủ thể khác tham gia thị trường, QĐTCK
được xác định là nhà đầu tư có nhiều kinh nghiệm với đội ngũ chuyên gia giỏi sẽ


×