Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng lượng đạm bón ở thời kỳ trước trỗ 10 ngày đến sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô lai trong điều kiện vụ đông năm 2011 tại trường đại học nông lâm thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.6 KB, 93 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASI

: Anthesis Silking Interval (khoảng cách tung phấn - phun râu)

CIMMYT : Trung tâm cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc Tế
CS

: Cộng sự

CT

: Công thức

CV%

: Sai số đồng ruộng

BNNPTNT : Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
Đ/C

: Đối chứng

FAO

: Food and Agriculture Organization of the United Nations

LAI



: Chỉ số diện tích lá

LSD0.05

: Sự sai khác ý nghĩa nhỏ nhất ở mức 0.05

M1000

: Khối lượng 1000 hạt

N

: Đạm

P

: Lân

K

: Kaliclorua

NSLT

: Năng suất lý thuyết

NSTT

: Năng suất thực thu


TCN
TGST

: Tiêu chuẩn ngành
: Thời gian sinh trưởng


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu thị phần giống ngô lai ở Việt Nam
Biểu đồ 4.1. Ảnh hưởng của lượng đạm bón trước trỗ 10 ngày đến tốc độ
tăng trưởng chiều cao cây của một số giống ngô lai, vụ Đông
năm 2011


4

4

Phần 1

MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây ngô (Zea mays L.) là một trong những cây ngũ cốc chính, cổ nhất,
phổ biến rộng, có năng suất cao và giá trị kinh tế lớn của lồi người. Ngơ là
cây lương thực ni sống gần 1/3 số dân trên toàn thế giới. Ở các nước thuộc
Trung Mỹ, Nam Á, Châu Phi sử dụng ngơ làm lương thực chính. Một số khu
vực đã sử dụng ngô như Tây Phi 80%, Bắc Phi 42%, Tây Á 27%, Nam Á
75%, Đơng Nam Á và Thái Bình Dương 39%, Đông Á 30%, một số nước Ấn
Độ 90%, ở Philippin 60%. Bên cạnh giá trị làm lương thực, cây ngơ cịn là

cây thức ăn gia súc quan trọng, 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp là từ
ngô. Cây ngơ cịn là thức ăn xanh và ủ chua rất tốt cho chăn nuôi gia súc lớn,
đặc biệt là bị sữa. Những năm gần đây ngơ cịn là loại cây thực phẩm được
ưa chuộng. Ngồi ra, ngơ cịn là nguyên liệu của công nghiệp chế biến thực
phẩm, công nghệ y dược và công nghiệp nhẹ. (Trần Văn Minh, 2004) [12]
Với ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, cùng với tính thích ứng rộng
và tiềm năng năng suất cao, cây ngô được hầu hết các quốc gia trên thế giới
gieo trồng (166 nước) và diện tích ngày càng mở rộng. Năm 2007, sản xuất
ngô trên thế giới đạt kỉ lục cả 3 chỉ tiêu: Diện tích 158,0 triệu ha (chỉ sau lúa
mì - 214,2 triệu ha, vượt qua lúa nước - 155,8 triệu ha), năng suất 50,1 tạ/ha
(lúa nước 42,3 ta/ha, lúa mì 28,3 tạ/ha) và sản lượng 791,8 triệu tấn - chiếm
gần 40% trong tổng sản lượng 3 cây lương thực hàng đầu trên thế giới (lúa
nước: 659,6 triệu tấn, lúa mì: 606 triệu tấn) (FAOSTAT, 2010)[30]
Hiện nay nhu cầu sử dụng ngô ở Việt Nam là rất lớn, diện tích hàng
năm trồng trên 1 triệu ha nhưng vẫn nhập khẩu với số lượng lớn, năm 2010
nhập 1,6 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do năng suất ngơ của nước ta cịng
thấp, năng suất ngơ trung bình 48,8 tạ/ha, đạt thấp hơn so với năng suất ngô
của thế giới (51,9 tạ/ha) và của nhiều nước trên thế giới như Mỹ (103 tạ/ha),
Trung Quốc (54 tạ/ha) (Tổng cục thống kê; FAOSTAT, 2011) [20], [31].
Trong tương lai, nhu cầu sử dụng ngô ở nước ta ngày càng tăng. Theo dự báo
của cục chăn nuôi, đến năm 2020 nhu cầu về thức ăn chăn nuôi sẽ cần khoảng
15 triệu tấn và sẽ phải nhập khoảng 50% nguyên liệu để sản xuất (Bộ Nông
nghiệp, 2010) [2].
4


5

1.2.


5

Trong những năm gần đây, Việt Nam cũng đã lai tạo và chọn được
nhiều giống ngô đáp ứng về năng suất, chất lượng được thế giới cũng như
trong nước chấp nhận. Nếu đánh giá khách quan thì giống ngơ của Việt Nam
so với các giống ngô của các nước trên thế giới khơng có sự chênh lệch lớn về
năng suất. Vì vậy, việc chọn các biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm tăng năng
suất ngô phù hợp với điều kiện của Việt Nam; từ đó xây dựng quy trình kỹ
thuật tiên tiến nhằm tăng năng suất và hiệu quả sản xuất ngơ, góp phần tăng
thu nhập cho người nơng dân là nhiệm vụ chính của các nhà khoa học,
khuyến nơng.
Ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngơ là cây lương thực chính chỉ
đứng sau cây lúa. Năm 2009, diện tích lúa là 669,9 nghìn ha, diện tích ngơ là
443,4 nghìn ha (Tổng cục Thống kê, 2011)[20]. Mặc dù diện tích trồng ngơ
lai của vùng đạt từ 80 - 90% nhưng năng suất ngô rất thấp, chỉ đạt 34,5 tạ/ha
(bằng 84,6% so với trung bình cả nước). Sở dĩ năng suất ngơ ở vùng này thấp
là vì ngơ chủ yếu được trồng trên đất dốc, không chủ động nước, điều kiện
khí hậu khắc nghiệt cùng với tập quán canh tác lạc hậu nên ngô không phát
huy được tiềm năng của giống. Như vậy, giải pháp nâng cao năng suất và hiệu
quả sản xuất ngô ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc là tập trung vào
nâng cao các biện pháp kỹ thuật canh tác, trong đó có kỹ thuật bón phân cho
ngơ, đặc biệt là phân đạm.
Xuất phát từ cơ sở khoa học và nhu cầu thực tế, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng lượng đạm bón ở thời kỳ trước
trỗ 10 ngày đến sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô lai trong
điều kiện vụ Đông năm 2011 tại trường Đại Học Nơng Lâm Thái Ngun”.
Mục đích và u cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích của đề tài
Xác định lượng đạm thích hợp bón vào thời kỳ trước trỗ 10 ngày cho hai
giống ngô LVN99 và LVN14 nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.

1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón ở thời kỳ trước trỗ 10 ngày
đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN99 và LVN14.
- Đề xuất lượng đạm thích hợp bón ở thời kỳ trước trỗ 10 ngày cho 2
giống ngô LVN99 và LVN14.
5


6

6

1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp dẫn liệu khoa học về ảnh hưởng của
mức phân N bón vào thời kì trước trỗ 10 ngày đến sinh trưởng, phát triển,
năng suất giống ngô LVN14 và LVN99.
- Qua kết quả nghiên cứu sẽ đưa ra các luận cứ về ảnh hưởng của mức
phân bón đến các chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống
ngô lai đơn LVN14 và LVN99.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Từ kết quả nghiên cứu đề xuất mức phân N bón thích hợp nhằm tăng
năng suất giống ngơ LVN14 và LVN99 trên 1 đơn vị diện tích.
- Kết quả nghiên cứu góp phần hồn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh
giống ngô lai đơn LVN14 và LVN99 tại trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên.

6


7


7

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.

Cơ sở khoa học của đề tài
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế tồn cầu. Mặc dù
đứng thứ ba về diện tích (sau lúa nước và lúa mỳ), ngơ đã có năng suất và sản
lượng cao nhất trong các cây cốc (Ngô Hữu Tình, 2009) [19]. Cịn ở Việt Nam
ngơ chỉ chiếm hơn 8% diện tích cây lương thực, nhưng có ý nghĩa thứ 2 sau
lúa nước (Phan Xuân Hào, 2002) [6].
Theo Trần Trung Kiên, 2009 [10] thì một số giống ngơ lai đạt năng suất
5 - 7 tấn/ha là khơng khó khăn nếu áp dụng đúng quy trình kỹ thuật
Cải tạo giống đi đôi với chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ làm tăng năng
suất ngơ vì đạm là một trong những ngun tố dinh dưỡng ảnh hưởng có tính
chất quyết định đến năng suất ngô. Ngô cần đạm trong suốt thời kì sinh
trưởng đặc biệt vào các thời kỳ 3 - 5 lá, 7 - 9 lá và trước trỗ 10 ngày. Đạm là
thành phần cơ bản của protein, ADN, diệp lục… Vì vậy thiếu N chồi lá mầm
khơng phát triển đầy đủ, sự phân chia tế bào ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm,
giảm diện tích lá, tăng khả năng quang hợp của cây. Bón N đầy đủ làm tăng
diện tích và tuổi thọ của lá, tăng khả năng quang hợp, đây là cơ sở của việc
nâng cao khả năng tích lũy chất khơ và năng suất ngơ.
Ngơ là cây trồng quang hợp theo chu trình C4, có tiềm năng năng suất
cao mà khơng có một cây cốc nào có thể sánh kịp. Để nâng cao hiệu quả trong
sản xuất nơng nghiệp nói chung và khai thác triệt để vị trí, vai trị của cây ngơ
nói riêng thì việc xác định được một chế độ dinh dưỡng thích hợp cho từng
thời kỳ của mỗi giống ngô ở các điều kiện sinh thái nhất định là một yêu cầu
cấp thiết.

Xuất phát từ thực tế trên và để đưa ra lượng phân bón hợp lý góp phần
làm tăng năng suất và sản lượng ngô của tỉnh Thái Nguyên chúng tôi tiến
hành làm đề tài này.
2.2. Tình hình sản xuất ngơ trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất ngơ trên thế giới
Ngơ là cây ngũ cốc có vị trí quan trọng đứng thứ ba sau lúa mỳ và lúa
nước. Giữa những năm 90 của thế kỷ XX, ngô cịn xếp thứ ba về diện tích và
sản lượng, song trong những năm gần đây ngô vượt lên đứng đầu về diện tích,
7


8

8

năng suất và sản lượng, là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao
nhất trong các cây lương thực chủ yếu.
Ngô được sử dụng rất nhiều trong lĩnh vực như: làm lương thực, thực
phẩm, thức ăn gia súc, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến…
Hiện nay ngơ cịn là nguồn ngun liệu quan trọng trong sản xuất năng lượng
sinh học (ethanol), đây được coi là giải pháp cho sự thiếu hụt năng lượng tong
tương lai. Ở Mỹ, trên 90% ethanol được sản xuất từ ngô với hơn 2680 nhà
máy. Trung Quốc cũng đang tập trung đầu tư xây dựng nhiều cơ sở nghiên
cứu về nguồn năng lượng sinh học này với mục tiêu ethanol nhiên liệu sẽ tăng
lên 2 tỷ lít vào năm 2020 (Ngơ Sơn, 2007) [16]. Nhờ những tiến bộ trong
nghiên cứu và sản xuất mà diện tích, năng suất và sản lượng và trên thế giới
tăng lên liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Kết quả được thể hiện qua bảng 2.1
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng ngơ thế giới giai đoạn 2004 - 2010
Năm
2004

2005
2006
2007
2008
2009
2010

Diện tích
Năng suất
Sản lượng
(triệu ha)
(tạ/ha)
(triệu tấn)
147,47
49,41
728,96
147,47
48,39
713,61
148,41
47,62
706,81
158,23
49,91
789,75
161,19
51,33
827,48
158,84
51,60

819,70
161,82
52,17
844,35
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO, năm 2011) [31]

Số liệu bảng 2.1 cho thấy sản xuất ngô trên thế giới tăng nhanh cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2004 diện tích trồng ngơ là 147,47
triệu ha đến năm 2010 là 161,82 triệu ha, tăng 14,35 triệu ha so với năm 2004.
Năng suất ngô của thế giới có xu hướng tăng nhưng khơng thực sự ổn
định. Năm 2004 năng suất ngô đạt 49,41 tạ/ha. Năm 2006 chỉ cịn 47,62 tạ/ha
giảm 1,79 tạ/ha.
Tình hình sản xuất ngơ của một số nước trên thế giới được trình bày ở
bảng 2.2
8


9

9

Bảng 2.2. Tình hình sản xuất ngơ của một số nước trên thế giới năm 2010
Nước
Mỹ
Trung Quốc
Brazil
Mexico
Ấn Độ
Italia
Đức

Hy Lạp
Israel

Diện tích
Năng suất
Sản lượng
(triệu ha)
(tạ/ha)
(triệu tấn)
32,96
95,92
316,16
32,51
54,59
177,54
12,81
43,74
56,06
7,14
32,59
23,3
7,18
19,58
14,06
0,92
95,33
8,82
0,46
87,85
4,07

0,18
117,26
2,19
0,0029
283,91
0,084
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO, năm 2011) [31]

Mỹ là một nước sản xuất ngô lớn nhất thế giới, chiếm hơn 40% tổng
sản lượng ngô thế giới. Việc sử dụng các giống ngô lai ở Mỹ bắt đầu từ năm
1930. Hiện nay 100% diện tích ngơ của Mỹ là trồng các giống ngơ lai trong
đó hơn 90% là giống ngơ lai đơn (Ngơ Hữu Tình, 2009) [19]. Nhiều thí
nghiệm ở Mỹ về các giống ngơ lai đơn đã cho năng suất đạt 25 tấn/ha/vụ.
Người ta tính được mức độ tăng năng suất ngô ở Mỹ trong giai đoạn 1930 1986 là 103kg/ha/năm, trong đó sự đóng góp cho cải tiến di truyền là
63kg/ha/năm. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã có 770 giống ngơ cải lương (Duvick
D.N, 1990) [28]. Trong thời gian gần đây, nếu như phần lớn các nước phát
triển năng suất ngô tăng không đáng kể thì năng suất ngơ ở Mỹ lại có sự tăng
đột biến.
Trung Quốc là nước đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích trồng ngơ với
sản lượng năm 2010 là 177,54 triệu tấn tăng hơn 7% so với năm 2009. Do có
trình độ kỹ thuật và thâm canh cao nên Israel là nước đứng đầu về năng suất
với 283,91 tạ/ha, năng suất ngô thấp nhất là Ấn Độ (19,58 tạ/ha). Trong sản
xuất hiện nay có sự rõ ràng về năng suất giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển. Năng suất ngơ trung bình của các nước phát triển là 7,8
tấn/ha, các nước đang phát triển là 2,7 tấn/ha. Hai nguyên nhân chính dẫn đến
sự chênh lệch này là:
9


10


10

- Tỷ lệ sử dụng giống ngô lai khác nhau trong sản xuất. Ở các nước
phát triển 90 - 100% diện tích ngơ được trồng bằng các giống ngơ lai cố ưu
thế lai cao, trong khi đó các nước đang phát triển diện tích trồng ngơ lai rất
thấp (37% diện tích) chủ yếu là trồng các giống thụ phấn tự do (63% diện
tích) (CIMMYT, 1991 - 1992) [26].
- Khả năng đầu tư và trình độ thâm canh của người sản xuất.
Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình Lương thực thế giới
(IPRI, 2003)[32], vào năm 2020 tổng nhu cầu ngơ thế giới là 852 triệu tấn,
trong đó 15% dùng làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16%
dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5%
ngô làm lương thực nhưng ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 22%, dự
báo nhu cầu ngô trên thế giới năm 2020 được trình bày ở bảng 2.3.
Bảng 2.3. Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Năm 1997
Năm 2020
% thay đổi
(triệu tấn)
(triệu tấn)
Thế giới
568
852
45
Các nước đang phát triển
295
508
72
Đông Á

136
252
85
Nam Á
14
19
36
Cận Sahara-Châu Phi
29
52
79
Mỹ Latinh
75
118
57
Tây và Bắc Phi
18
28
56
(Nguồn: Số liệu thống kê của IPRI, năm 2003) [32]
Vùng

Dự báo đến năm 2020, nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầu
năm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), trong đó các
nước khu vực Đơng Á được dự báo có nhu cầu tăng mạnh nhất vào năm 2020
(85%). Sở dĩ nhu cầu ngô tăng mạnh ở các nước này là do dân số tăng, thu
nhập bình quân đầu người tăng, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm
tăng mạnh, từ đó địi hỏi khối lượng ngơ rất lớn để phát triển chăn nuôi.
Như vậy trong những năm qua và thời kì sắp tới, diện tích và thị trường
ngô trên thế giới sẽ biến động không lớn, chỉ có năng suất ngơ là tăng đáng

kể. Đó cũng là giải pháp tốt nhất cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát
triển muốn giải quyết vấn đề cung - cầu lương thực hiện nay. Vì thế nhiệm vụ
của các nhà khoa học là phải chọn tạo ra những giống ngô mới cho năng suất
10


11

11

cao, phẩm chất tốt đáp ứng nhu cầu của thị trường… Bên cạnh đó cũng phải
xây dựng biện pháp bón phân hợp lý đặc biệt là phân đạm.
2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ngô là cây trồng nhập nội được đưa vào Việt Nam khoảng 300 năm và
đã nhanh chóng trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ
thống cây lương thực quốc gia (Ngô Hữu Tình và CS, 1995) [17]. Cây ngơ đã
khẳng định vị trí trong sản xuất nơng nghiệp và trở thành cây lương thực quan
trọng đứng thứ hai sau cây lúa đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể
trong việc giải quyết lương thực tại chỗ cho người dân. Trong hơn mười năm
trở lại đây, những thành công trong công tác nghiên cứu và sử dụng các giống
ngô lai được coi là cuộc cách mạng thực sự trong ngành sản xuất ngô ở Việt
Nam. Thành công này đã thay đổi một cách sâu sắc diện mạo nghề trồng ngô
vốn tồn tại nhiều yếu kém trong nhiều năm ở nước ta. Năng suất ngô ở Việt
Nam trong những năm 1960 chỉ đạt trên 1 tấn/ha, với diện tích trồng ngơ là
hơn 200 nghìn ha. Đến đầu những năm 1980, năng suất chỉ đạt có 1,1 tấn/ha,
sản lượng chỉ có hơn 400 nghìn tấn do nơng dân vẫn trồng các giống ngô địa
phương với tốc độ canh tác lạc hậu. Từ giữa những năm 1980, nhờ hợp tác
với trung tâm cải tạo ngô và lúa mỳ quốc tế (CIMMYT), nhiều giống ngơ cải
tiến đã được đưa vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất lên gần 1,5
tấn/ha vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên, ngành sản xuất ngô ở nước ta

thực sự có bước tiến nhảy vọt trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến nay do
mở rộng diện tích trồng ngô lai đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ thuật
canh tác, đáp ứng yêu cầu của giống mới.
Bảng 2.4. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010
Năm
1961
1980
1990
2000
2005
2007
2009
2010

11

Diện tích
Năng suất
Sản lượng
(nghìn ha)
(tạ/ha)
(nghìn tấn)
229,2
11,4
260,1
389,6
11,0
428,8
432,0
15,5

671,0
730,2
25,1
2005,9
1052,6
36,0
3787,1
1072,8
39,6
4250,9
1086,8
40,3
4381,8
1126,9
40,9
4606,8
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ NN&PTNT 2011) [20]


12

12

Số liệu bảng 2.4 cho thấy, sản xuất ngô ở nước ta phát triển mạnh cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 1990 cả nước trồng được 389,6 nghìn
ha, tăng 202,8 nghìn ha so với năm 1961, và 42,4 nghìn ha so với năm 1980.
Mười năm sau diện tích trồng ngơ đạt 432,0 nghìn ha, tăng 42,4 nghìn ha so
với năm 1990. Năm 2010 diện tích trồng ngơ của nước ta là 1126,9 nghìn ha,
tăng 396,7 nghìn ha so với năm 2000. Trung bình 1 năm tăng 39,67 nghìn ha.
Năng suất ngơ cũng tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình

thế giới trong suốt 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nước ta chỉ bằng
34% so với trung bình thế giới, năm 2000 bằng 59,8%, năm 2005 bằng 74,4%
và năm 2010 đạt 78,39%. Năm 1990, sản lượng ngô vượt ngưỡng 1 triệu tấn,
năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn, và đến năm 2010 Việt Nam đạt năng suất,
diện tích, sản lượng ngơ cao nhất từ trước cho tới nay (diện tích đạt 1126,9
nghìn ha, năng suất đạt 40,9 tạ/ha và sản lượng 4608,8 nghìn tấn).
Có được thành tựu trên nhờ ứng dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, đặc
biệt là việc sử dụng giống ngơ lai. Có thể nói tốc độ phát triển ngô lai ở Việt
Nam rất nhanh so với lịch sử phát triển ngô lai trên thế giới. Đây là bước tiến
vượt bậc so với một số nước trong vùng, kết quả này đã được CIMMYT và
nhiều nước đánh giá cao. Hiện nay nhiều tỉnh có diện tích trồng ngơ lai đạt
gần 100% như Đồng Nai, An Giang, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La,
Hà Tây (Hà Nội mở rộng ngày nay), Vĩnh Phúc…
Sự phát triển ngô lai ở Việt Nam đã được Trung tâm cải tạo giống ngô
và lúa mỹ quốc tế (CIMMYT) và tổ chức Nông lương (FAO) của Liên Hợp
Quốc cũng như các nước trong khu vực đánh giá cao. Việt Nam đã đuổi kịp
các nước trong khu vực về trình độ nghiên cứu tạo giống ngô lai và đang ở
giai đoạn đầu đi vào công nghệ cao (cơng nghệ gen, ni cấy bao phấn và
nỗn) (Ngơ Hữu Tình, 2003) [18].
Một thực trạng đặt ra hiện nay mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng
ngơ của nước ta đều tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới
năng suất ngô của nước ta cịn rất thấp, mặt khác nhu cầu sử dụng ngơ của
Việt Nam ngày càng lớn. Vấn đề này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp
thiết cho các cơ quan nghiên cứu chọn tạo giống là tạo ra các giống ngơ có
năng suất cao, chống chịu tốt cùng các biện pháp kỹ thuật phù hợp.
12


13


-

-

13

* Khó khăn trong sản xuất ngơ của Việt Nam
- Năng suất ngơ của nước ta cịn thấp so với năng suất ngơ trung bình thế
giới (năm 2010 năng suất ngô của Việt Nam đạt 40,9 tạ/ha, bằng 78,39% năng
suất thế giới), năng suất thực tế thấp hơn nhiều so với tiềm năng, giá thành sản
xuất ngơ cịn cao, cạnh tranh gay gắt giữa ngô và các cây trồng khác.
- Khí hậu tồn cầu đang biến đổi phức tạp, đặc biệt là hạn hán, lũ lụt
ngày càng nặng nề hơn, nhiều sâu bệnh hại mới xuất hiện, sản xuất ngô ở
nhiều nơi đang gây nên tình trạng xói mịn, rửa trôi đất.
- Các giống ngô thực sự chịu hạn và các điều kiện bất thuận khác như
đất xấu, chua phèn, kháng sâu bệnh, có thời gian sinh trưởng ngắn đồng thời
cho năng suất cao và ổn định… nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả canh tác
cho người sản xuất vẫn chưa nhiều.
- Các biện pháp kỹ thuật canh tác mặc dù đã được cải thiện nhiều song
vẫn chưa đáp ứng được địi hỏi của giống mới. Trong đó một số vấn đề đáng
chú ý như khoảng cách, mật độ, phân bón, thời vụ, phịng trừ sâu bệnh và cỏ
dại, bảo quản sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức như với công tác
chọn tạo giống.
* Định hướng phát triển ngơ ở Việt Nam
- Nhanh chóng tạo ra được những giống ngơ lai có năng suất cao, chất
lượng tốt và quan trọng là phù hợp với điều kiện sinh thái. Đây là vấn đề khó
địi hỏi đầu tư nhiều công sức, tiền của, thời gian và muốn thành công phải có
được những yếu tố cơng nghệ cao, hệ thống sản xuất hạt giống chất lượng tốt
như làm khô, chế biến, đóng gói cơng nghiệp để đảm bảo chất lượng ngang
tầm hạt giống của các cơng ty nước ngồi. Ngồi ra phải có chiến lược để

giành lại thị trường dựa vào tiêu chí chất lượng cao, giá thành hạ.
Định hướng tăng diện tích: Tăng diện tích vụ Xuân trên đất bỏ hóa ở
các tỉnh miền núi phía Bắc. Tăng diện tích vụ 2 (Thu - Đơng) ở các tỉnh Tây
Bắc, Tây Ngun, Đơng Nam Bộ. Tăng diện tích vụ Đơng ở các tỉnh Đồng
Bằng Sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Chuyển một số diện tích cây trồng khác
kém hiệu quả sang trồng ngô (lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên).
Định hướng tăng năng suất: Mở rộng diện tích trồng ngơ lai, tăng tỷ
lệ giống ngơ lai trong sản xuất lên 85 - 90%. Tạo ra những giống lai mới ưu
13


14

2.2.3.

14

việt hơn (ngắn ngày, có khả năng chống chịu tốt, năng suất cao, chất lượng
tốt). Đầu tư cho một số khâu trong biện pháp kỹ thuật trồng trọt như phân
bón, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh… để tăng năng suất ngô.
- Kết hợp các phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học trong
tạo dòng, đánh giá dòng và xác định cặp lai (tạo dịng bằng ni cấy bao
phấn, nỗn chưa thụ tinh, chọn dòng bằng maker phân tử…) bước đầu nghiên
cứu công tác chuyển gen trong tạo giống.
- Nghiên cứu chọn tạo các giống ngô thụ phấn tự do cho những vùng
khó khăn, chú ý phát triển các giống có đặc điểm tốt tại địa phương (ngơ đá
địa phương, nếp lù,…) để làm lương thực và tiêu thụ tươi.
- Nghiên cứu tạo vật liệu khởi đầu theo định hướng tạo giống: Tạo quần
thể theo nhóm ưu thế lai, tạo dịng thế hệ mới,…
- Cập nhật thơng tin, trao đổi vật liệu, tài liệu và kinh nghiệm thông qua

hợp tác quốc tế.
- Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ khoa học tiên tiến, ứng dụng
nhanh và hiệu quả những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ
sinh học và công nghệ thông tin trong nghiên cứu, đánh giá sản phẩm một
cách nhanh chóng, chính xác. Tăng cường trang thiết bị phục vụ trong cơng
tác nghiên cứu.
Tình hình sản xuất ngơ ở tỉnh Thái Ngun
Thái Ngun là một tỉnh miền núi Trung du Bắc Bộ, có diện tích tự
nhiên 3.562.82 km2, dân số hiện nay khoảng 1.046.000 người, chiếm 1,13%
diện tích và 1,41% dân số so với cả nước. Với địa hình đồi núi phức tạp, diện
tích canh tác nhỏ hẹp, đất bạc màu, điều kiện tưới tiêu cịn nhiều khó khăn,
diện tích trồng ngơ chủ yếu trên đất hai lúa ở vụ Đông và trên đất đồi dốc ở
vụ Xuân Hè.
Từ 1995 trở về trước, sản xuất ngô ở Thái Nguyên chủ yếu dùng các
giống cũ, giống địa phương có thời gian sinh trưởng dài, năng suất thấp. Sau
một thời gian với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa
phương có sự tham gia tích cực của đội ngũ các nhà khoa học, diện tích trồng
ngơ lai ngày càng tăng thay thế dần các giống ngơ địa phương. Đến nay, diện
tích trồng ngơ lai tăng mạnh, chiếm trên 90% diện tích mang lại năng suất,
sản lượng vượt trội trong sản xuất.
14


15

15

Bảng 2.5. Diện tích, năng suất và sản lượng ngơ của tỉnh Thái Ngun
giai đoạn 2001 - 2010
Năm

2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

Diện tích
(nghìn ha)
9,7
11,6
13,4
15,9
15,9
15,3
17,8
20,6
17,4
17,9

Năng suất
(tạ/ha)
30,6
32,8
32,6
34,3

34,7
35,2
42,0
41,1
38,6
42,1

Sản lượng
(nghìn tấn)
29,7
38
43,7
54,6
55,1
53,9
74,8
84,6
67,2
75,4

(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011) [20]
Qua bảng 2.5 cho thấy diện tích, năng suất, sản lượng ngơ đều tăng
đáng kể. Từ năm 2001 - 2008 diện tích trồng ngơ tăng liên tục từ 9,7 nghìn ha
lên 20,6 nghìn ha (tăng trung bình 1,55 nghìn ha/năm). Tuy nhiên năm 2009
diện tích lại giảm xuống chỉ cịn 17,4 nghìn ha, năm 2010 là 17,9 nghìn ha.
Về năng suất cũng tăng từ 30,6 tạ/ha năm 2001 đến 42,0 tạ/ha năm
2007 (tăng trung bình 2 tạ/ha/năm). Tuy nhiên năm 2008, 2009 năng suất ngô
bị giảm đáng kể, năm 2009 chỉ đạt 38,6 tạ/ha, giảm 3,4 tạ/ha so với năm
2007. Nhưng chỉ một năm sau năng suất ngô lại tăng lên tương đương năm
2007.

Do diện tích và năng suất đều tăng nên sản lượng ngô đạt cao nhất vào
năm 2008 là 84,6 nghìn tấn tăng 54,9 nghìn tấn so với năm 2001. Tuy nhiên
đến năm 2009 sản lượng chỉ cịn 67,2 nghìn tấn, năm 2010 là 75,4 nghìn tấn,
giảm tương ứng là 17,4 nghìn tấn và 9,2 nghìn tấn so với năm 2008.
2.3. Tình hình nghiên cứu ngơ trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu ngơ trên thế giới
2.3.1.1. Tình hình nghiên cứu ngơ lai trên thế giới
Có thể nói ngơ lai đã thành cơng rực rỡ ở Mỹ. Các nhà di truyền, cải
lương giống ngô Mỹ đã sớm thành công trong việc chọn và lai tạo giống cây
15


16

16

trồng này. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã có 770 giống ngô chọn lọc cải lương.
Theo E.Rinke (1979) việc sử dụng giống ngô lai ở Mỹ bắt đầu từ năm 1930,
giống lai ba và lai kép được sử dụng đến năm 1957, sau đó giống lai đơn cải
tiến và lai đơn đã được tạo ra và sử dụng, chiếm 80 - 85% tổng số giống lai
(Trần Hồng Uy, 1985) [22]. Hiện nay, Mỹ là nước có diện tích trồng ngơ lớn
nhất thế giới và 100% diện tích được trồng bằng ngơ lai, trong đó hơn 90% là
giống lai đơn.
Việc nghiên cứu tạo giống ngô lai ở Châu Âu bắt đầu muộn hơn ở Mỹ
20 năm và đã đạt được thành công rực rỡ. Tỷ lệ sử dụng giống ngô lai ở Châu
Âu rất lớn và nó đã góp phần tạo nên năng suất cao ở nhiều nước (S.K.Vasal
và Me leans,… 1990) [39]. Cơng tác tạo dịng thuần và giống lai ở Bungari
được bắt đầu từ năm 1951. Năm 1956 - 1958 những giống lai kép đầu tiên là
VIR-42, Wiscosin - 641 và Ohio-92 đã được thử nghiệm và khu vực hóa.
Giống lai đơn đầu tiên được đưa vào sản xuất năm 1956 là SK-4, và sau đó

một số lượng lớn giống lai giữa các dòng thuần được tạo ra và đưa thử
nghiệm. Việc nghiên cứu tạo giống ngô lai ở một số nước đang phát triển bắt
đầu từ những năm đầu thập kỷ 60 như Achentina, Braxin, Colombia, Chile,
Mehico, Ấn Độ, Pakistan, Hylap, Zimbabwe, Kenya, Tanzania và một vài
nước ở Trung Mỹ. Trong thời kỳ 1966 - 1990 có xấp xỉ 852 giống ngơ được
tạo ra, trong đó 59% là giống thụ phấn tự do, 27% là giống lai quy ước, 10%
là giống ngô lai không quy ước và 4% là các giống khác.
Trung Quốc là một cường quốc ngơ lai Châu Á, với diện tích 25 triệu
ha, năng suất 4,9 tấn/ha, sản lượng ngô hàng năm trên 120 triệu tấn, đứng
thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Giống ngô lai được đưa vào Trung Quốc từ
những năm 60, giống lai đơn đưa vào từ những năm cuối của thập kỷ này
(S.K. Vasala, Me leans,… 1999) [44]. Năm 1992, có 27 giống ngơ lai được
gieo trồng trên diện tích 100.000 ha (CIMMYT, 1992) [26].
2.3.1.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngơ trên thế giới
Cây ngơ là một cây ngũ cốc quang hợp theo chu trình C 4, là cây ưa
nhiệt, có hệ thống rễ chùm phát triển (FAO, 1995) [29]. Cây ngơ là cây có
tiềm năng năng suất lớn. Theo De. Geus, (1973) [27], năng suất trung bình
của các giống ngơ lai là 6,838 kg/ha cần bón: 95N - 67P 2O5 - 20K2O kg/ha.

16


17

17

Mức bón phân được khuyến cáo cho ngơ ở Đài Loan là 175 kg N + 95 kg
P2O5 + 70 kg K2O/ha (Shan, 1994) [37].
Sinclair và Muchow (1995) [38] cho rằng hàng thập kỷ gần đây năng
suất ngô tăng lên có liên quan chặt chẽ với mức cung cấp N cho ngô. Đạm

được cây hút với một lượng lớn và đạm có ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự
cân bằng cation và anion ở trong cây. Khi cây hút N - NH 4+ sự hút các cation
khác chẳng hạn như K+, Ca2+, Mg2+ sẽ giảm trong khi sự hút anion đặc biệt là
Phospho sẽ thuận lợi. Xảy ra chiều hướng ngược lại, khi cây hút N nitrat. Tùy
thuộc vào tuổi của cây, với cây ngô non sự hút amonium-N nhanh hơn sự hút
đạm nitrat, trái lại các cây ngô già hút chủ yếu là đạm nitrat và có thể chiếm
tới hơn 90% tổng số lượng đạm cây hút.
Trong các ngun tố dinh dưỡng, đạm có vai trị hết sức quan trọng
trong việc nâng cao năng suất ngô. Đạm cũng là thành phần cấu trúc của vách
tế bào. Đạm là yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây và là thành phần
của tất cả các protein. Khi thiếu N chồi lá mầm sẽ không phát triển đầy đủ, sự
phân chia tế bào ở đỉnh sinh trưởng bị kìm hãm và kết quả là giảm diện tích
lá, kích thước của cây và năng suất giảm. Phân đạm có thể tạo ra sự tăng diện
tích lá hiệu quả ngay từ đầu và duy trì lá xanh vào cuối vụ để q trình đồng
hóa quang hợp đạt cực đại (Patrick, 2001) [36]; Mức đạm thấp làm giảm số
hạt và năng suất hạt (Barbieri và CS, 2000) [25].
Năng suất ngô cao chỉ có thể đạt được khi thời gian diện tích lá xanh
kéo dài và tỷ lệ đồng hóa đạm cao sau thời kỳ ra hoa (Mitsuru, 1995)[35].
Khả năng hấp thu đạm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng phát triển. Một số
báo cáo về khả năng hút N chỉ ra rằng, tốc độ đồng hóa cực đại xảy ra gần
giai đoạn phun râu và kết thúc vào cuối giai đoạn tung phấn, thiếu đạm làm
chậm sinh trưởng của hai giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng
sinh thực, giảm tốc độ ra lá, hạn chế mạnh đến sự phát triển diện tích lá.
Thiếu đạm hạn chế đến hiệu quả sử dụng bức xạ, nhất là thời kỳ ra hoa, ảnh
hưởng đến năng suất bắp tổng số. Cũng theo hai tác giả trên việc cung cấp và
tích lũy đạm ở thời kỳ ra hoa có tính quyết định số lượng hạt ngô, thiếu N
trong thời kỳ này làm giảm khả năng đồng hóa C của cây, nhất là giai đoạn ra
hoa sẽ giảm năng suất hạt. Dự trữ đạm ở cây ngơ có ảnh hưởng rất lớn đối với
17



18

18

sự sinh trưởng và phát triển lá, sự tích lũy khối và sự tăng trưởng của hạt, ảnh
hưởng của N là quan trọng khi đánh giá phản ứng của cây trồng đối với phân
N. Rhoads (1984) làm thí nghiệm tưới nước theo rãnh cho thấy: Năng suất
ngô 1.200 kg/ha khi khơng bón đạm và khi bón 224 kg/ha N trên đất chưa bao
giờ trồng ngô đạt 6.300 kg/ha và năm trước đó khơng bón đạm.
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng vai trò của đạm và S đến sự sinh
trưởng, năng suất và chất lượng của giống ngô lai (Cargill 707), tác giả Hussain
và CS, 1999) [33], cho rằng sự cung cấp phân bón ở các mức 150N + 30S và
150N + 20S (kg/ha). Theo De. Geus, (1973) [27], khi bón cho ngô với liều
lượng: 40kg N/ha năng suất thu được 12,11 tạ/ha; 80kg tạ/ha; 160 kg N/ha
năng suất thu được 41,47 tạ/ha; 200kg N/ha năng suất thu được 52,18 tạ/ha.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngơ tại Việt Nam
2.3.2.1. Tình hình nghiên cứu về giống ngô lai ở Việt Nam
Việt Nam đã chuẩn bị cho chương trình tạo giống ngơ lai những
nghiên cứu về chọn tạo và sử dụng ngô lai từ lâu. Song do vật liệu khởi đầu
của chúng ta cịn nghèo và khơng phù hợp, vì vậy ngơ lai đã khơng phát huy
được vai trị của nó. Phải đến những năm đầu của thập kỷ 90 công tác chọn
tạo giống ngô lai được các nhà khoa học coi là nhiệm vụ chiến lược chủ yếu.
Trong những năm 1992 - 1994, Viện nghiên cứu ngô đã lai tạo ra các giống
ngô lai không quy ước là: LS-5, LS-6, LS-7, LS-8. Bộ giống ngơ lai này gồm
những giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn, có năng suất từ 3-7
tấn/ha và đã được mở rộng trên phạm vi toàn quốc, mỗi năm diện tích gieo
trồng trên 80.000 ha (Trần Hồng Uy, 1997) [23].
Trong giai đoạn từ 1996 đến 2002 các nhà chọn tạo giống ngô Việt
Nam đã chú trọng đến việc tạo dịng thuần để tạo giống ngơ lai. Kết quả là

nhiều giống ngô lai năng suất cao được khảo nghiệm ở các vùng sinh thái
khác nhau như: LVN4, LVN10, LVN17, LVN20, LVN25,… Viện khoa học
Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam trong giai đoạn này cũng đã nghiên cứu và
lai tạo ra giống ngô lai đơn V98 - 1. Đây là giống ngơ lai đơn ngắn ngày có
tiềm năng năng suất cao chống chịu đổ ngã, nhiễm khô vằn nhẹ (ở mức độ
điểm 1 - 2), trồng được nhiều vụ trong năm, thích hợp với điều kiện sinh thái
ở Miền Nam Việt Nam (Phạm Thị Rịnh và CS, 2002) [14].
18


19

19

Bên cạnh việc tạo ra các giống ngơ lai có năng suất chất lượng cao thì
cơng tác lai tạo các giống ngơ thích hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau
với nhiều đặc tính nơng học q được các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Trong
giai đoạn 1995 - 2002 nhóm nghiên cứu ngơ thuộc Trung tâm khảo nghiệm
giống cây trồng Trung ương đã lai tạo giống ngô lai đơn T9 và giống ngô lai
ba T7 triển vọng cho sản xuất tại các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ, trong đó
giống T9 đã được Bộ Nơng Nghiệp và Phát triển nơng thơn cơng nhận là
giống khu vực hóa tại Miền Trung tháng 9 - 2002. Năm 2000, Viện nghiên
cứu Ngô tiếp tục đưa ra thử nghiệm giống ngô lai HQ2000 Có chất lượng cao,
hàm lượng Protein cao hơn hẳn ngơ thông thường, đặc biệt là hai loại axit
amin thường thiếu ở ngô là Lyzin và Triptophan, nhờ vậy mà nâng cao được
giá trị dinh dưỡng của ngô.
Thông qua dự án “Phát triển giống ngô chịu hạn nhằm cải thiện thu
nhập cho nông dân vùng Đông Nam Á”(AMNET), đã thu thập được một số
nguồn nguyên liệu mới từ CIMMYT và các nước trong khu vực, bước đầu tạo
ra một số tổ hợp lai có triển vọng. Nhờ nguồn nguyên liệu tạo dòng khá

phong phú và được thử nghiệm trong điều kiện sinh thái và mùa vụ nên các
giống ngô lai mới tạo ra đã tỏ ra có nhiều ưu thế như: Chịu hạn, chống đổ, ít
sâu bệnh, chất lượng và màu dạng hạt tốt hơn. Điển hình là các giống dài
ngày, tỷ lệ 2 bắp/cây cao như: LVN98, LVN145; một số giống ngơ chịu hạn
tốt, thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau như: VN8960, LCH9,
LVN61, LVN14. Những giống lai này có tiềm năng năng suất từ 5 - 12 tấn/ha,
không thua kém các giống ngô lai của các công ty nước ngoài. Đặc biệt, giống
lai LVN10 đã được trồng hàng trăm nghìn hecta mỗi năm trên khắp cả nước.
Như vậy chương trình tạo giống ngơ lai của Việt Nam đã từng bước từ giống
lai không quy ước đến lai kép, lai ba, lai đơn cải tiến và lai đơn. Những thành
tích đó đã đưa chương trình ngơ lai của Việt Nam đứng trong hàng ngũ các
nước tiên tiến ở Châu Á.
Nhờ những nỗ lực không ngừng trong việc nghiên cứu và ứng dụng
ngô lai trong sản xuất, đến năm 2007 giống ngô lai chọn tạo của Việt Nam
chiếm 32,5% diện tích, giống nước ngồi chiếm 52,3%. Số giống ngơ có mặt
trong sản xuất là 114 giống trong đó 10 giống được ưa chuộng nhất là LVN10,
19


20

20

CP888, B9698, CP999, CP919, G49, B9681, P11, LVN4, CP989 với diện tích
chiếm gần 73% diện tích gien trồng, riêng giống LVN10 chiếm 25%. Khác
với lúa lai, các giống ngô lai chủ yếu sản xuất trong nước, đơn vị chính tham
gia sản xuất và cung ứng giống ngô lai là CP Group, Bioseed, ĐC, NSC,
Syngenta, Monsanto và Viện nghiên cứu ngô với thị phần được thể hiện ở
biểu đồ 2.1.


Biểu đồ 2.1. Cơ cấu thị phần giống ngô lai ở Việt Nam
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng ngành giống cây trồng Việt Nam,2007)[1]
2.3.2.2. Tình hình nghiên cứu về lượng đạm bón cho ngô tại Việt Nam
Trong phạm vi nghiên cứu thuộc chương trình phát triển lương thực, Tạ
Văn Sơn (1995) [15] đã nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cây ngô ở vùng Đồng
bằng sông Hồng, thu được kết quả như sau: để tạo ra 1 tấn hạt, ngô lấy đi từ
đất trung bình một lượng đạm, lân, kali là: N = 22,3 kg; P 2O5 = 8,2 kg; K2O =
12,2 kg. Tỉ lệ nhu cầu dinh dưỡng NPK là: 0,35: 0,45.
Tỉ lệ N:P:K thay đổi trong quá trình sinh trưởng phát triển như sau:
Bảng 2.6: Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%)
Nguyên tố

Trổ cờ

Thu hoạch

N

51,7

47,4

52,2

P2O5

8,3

9,8


19,1

K2O
20

6 - 7 lá

40,0

42,7

28,7


21

21

(Nguồn: Tạ Văn Sơn, 1995)[15]
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của nước ngoài và thể hiện rõ
là hút kali được hồn thành sớm trước phun râu, cịn các chất dinh dưỡng
khác như đạm và lân còn tiếp tục đến lúc ngơ chín.
Để ngơ năng suất trung bình 60 tạ/ha ngô hạt, cây ngô lấy từ đất 155 kg
N, 60 kg P2O5, 115 kg K2O (tương đương 337 kg ure, 360 kg supe lân, 192 kg
clorua kali) (Đường Hồng Dật, 2003) [5].
Tuy nhiên lượng phân bón cho ngơ phụ thuộc vào điều kiện đất đai.
Ngơ Hữu Tình (1995) [17], trên đất phù sa sông Hồng tỷ lệ nhu cầu dinh
dưỡng của N, P, K cho cây ngô đạt năng suất cao là 1 : 0,35 : 0,45 và liều
lượng bón phân cho năng suất cao là: 180N - 60P 2O5 - 120K2O; ở Duyên Hải
Miền Trung: 120N - 90P2O5 - 60K2O; miền Đông Nam Bộ: 90N - 90P 2O5 30K2O; Đồng bằng sông Cửu Long: 150N - 50P 2O5 - 60K2O. Với ngô Đông

trên đất phù sa sông Hồng liều lượng phân bón thích hợp là: 150 - 180 kg N;
90kg P2O5; 50 - 60 K2O/ha. (Phạm Kim Môn, 1991) [13].
Trên đất phù sa sông Hồng lượng phân bón phù hợp là: 120N - 90P 2O5
- 60K2O cho năng suất 40 - 50 tạ/ha; 150 - 90P2O5 - 100K2O cho năng suất 50
- 55 tạ/ha; 180N - 90P2O5 - 100K2O cho năng suất 65 - 75 tạ/ha. (Trần Hữu
Miện, 1987) [11].
Trên đất bạc màu vùng Đông Anh - Hà Nội, giống ngơ LVN10 có phản
ứng rất rõ với phân bón ở cơng thức bón 120N - 120P2O5 - 120K2O/ha và cho
năng suất hạt gấp 2 lần so với cơng thức đối chứng khơng bón phân. Cũng theo
tác giả thì trên đất bạc màu, hiệu suất của 1 kg NPK là 8,7 kg; 1 kg N là 11,3 kg;
1 kg P2O5 là 4,9 kg; 1 kg K2O là 8,5 kg (Nguyễn Thế Hùng, 1996) [7].
Tác giả Vũ Cao Thái cũng cho rằng liều lượng và tỷ lệ phân bón cho
ngô khác nhau trên các loại đất khác nhau. Theo ông, trên đất phù sa nên bón
120 kg N - 60 kg P2O5 - 90 kg K2O /ha, tỷ lệ N:P:K là 1:0,5:0,75. Trên đất
xám bạc màu bón 100 kg N - 100 kg P2O5 - 150 kg K2O/ha với tỷ lệ là 1:1:1,5
(dẫn theo Ngơ Hữu Tình, 2003) [18].
21


22

22

Nghiên cứu Nguyễn Văn Bộ (2007) [4] khẳng định rằng lượng phân
bón khuyến cáo cho ngơ khơng những phụ thuộc vào đất mà cịn giống ngơ và
thời vụ. Giống có thời gian sinh trưởng dài hơn, có năng suất cao hơn cần
phải bón lượng phân cao hơn . Đất chua phải bón nhiều lân hơn, đất nhẹ và vụ
gieo trồng có nhiệt độ thấp cần bón nhiều kali hơn. Liều lượng khuyến cáo
chung cho ngơ là:
+ Đối với giống chín sớm:

- Trên đất phù sa: 8 - 10 tấn phân chuồng; 120 - 150 kg N; 70 - 90 kg
P2O5 ; 60 - 90 kgK2O /ha.
- Trên đất bạc màu: 8 - 10 tấn phân chuồng; 120 - 150 kg N; 70 - 90
kg P2O5; 100 - 120 kg K2O /ha.
+ Đối với giống chín trung bình và chín muộn:
- Trên đất phù sa: 8 - 10 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 70 - 90 kg
P2O5; 80 - 100 kg K2O /ha.
- Trên đất bạc màu: 8 - 10 tấn phân chuồng; 150 - 180 kg N; 70 - 90
kg P2O5; 120 - 150 kg K2O /ha.
Tác giả Nguyễn Văn Bào (1996) [3] cho rằng lượng phân bón cho ngơ
cịn phụ thuộc vào điều kiện sinh thái. Liều lượng phân bón thích hợp cho ngơ
ở các tỉnh miền núi phía Bắc (Hà Giang) là 120 kg N - 60 kg P2O5 - 50 kg
K2O/ha cho các giống thụ phấn tự do và 150 kg N - 60 kg P2O5 - 50 kg
K2O/ha cho các giống lai. Vùng Đơng Nam bộ và Tây Ngun lượng phân
bón thích hợp là: 120 kg N - 90 kg P2O5 - 60 kg K2O cho vụ Hè Thu, cịn vụ
Thu Đơng (vụ 2) có thể tăng lượng K2O lên 90 kg (dẫn theo Ngơ Hữu Tình,
2003) [18]. Trên đất xám của vùng Đông Nam bộ, theo kết quả nghiên cứu
của Trần Thị Dạ Thảo và Nguyễn Thị Sâm (2002), liều lượng phân bón cho
ngơ có hiệu quả kinh tế cao nhất là 180 kg N - 80 kg P2O5 - 100 kg K2O /ha
(giống LVN99) (dẫn theo Ngơ Hữu Tình, 2003) [18].
Theo Lê Quý Tường và Trần Văn Minh, lượng phân bón thích hợp cho
ngơ lai trên đất phù sa cổ ở duyên hải Trung bộ trong vụ Đông Xuân là 10 tấn
phân chuồng + 150-180 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O /ha (tỷ lệ NPK là
1,7:1:0,7 hoặc 2:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 22,6 - 28,8 kgN/1 tấn ngô hạt;
22


23

23


vụ Hè Thu bón 10 tấn phân chuồng + 150 kg N + 90 kg P2O5+ 60 kg K2O /ha
(tỷ lệ NPK là 1,7:1:0,7), tiêu tốn lượng đạm từ 27,9 - 28,4 kgN/1 tấn ngô hạt
(dẫn theo Trần Văn Minh, 2004) [12].
Bón phân vơ cơ kết hợp phân hữu cơ cho ngô đã làm tăng năng suất
ngô và giúp cải thiện độ phì trong đất, theo Bùi Đình Dinh (1988, 1994) để
đảm bảo cho cây trồng có năng suất cao, ổn định, bón phân hữu cơ chiếm
25% tổng số dinh dưỡng, cịn 75% phân hố học (dẫn theo Trần Văn Minh,
2004) [12].
Hiệu quả của phân bón chỉ có thể phát huy đầy đủ khi có chế độ phân
bón hợp lý, bón cân đối giữa các nguyên tố. Bón phân cho ngô để đạt hiệu
quả kinh tế cao phải căn cứ vào đặc tính của loại giống ngơ, u cầu sinh lý
của cây ngơ qua các thời kỳ sinh trưởng, tình trạng của cây trên đồng ruộng,
tính chất đất, đặc điểm loại phân bón, kỹ thuật trồng trọt và điều kiện khí hậu
thời tiết.
Bón cân đối đạm - kali có hiệu lực cao hơn nhiều so với lúa. Bội thu do
bón cân đối (trung bình của nhiều liều lượng đạm) có thể đạt 33 tạ/ha trên đất
phù sa sông Hồng; 37,7 tạ/ha trên đất bạc màu; 11,7 tạ/ha trên đất xám và 3,9
tạ/ha trên đất đỏ vàng. Xét về hiệu quả kinh tế thì bón phân cân đối cho ngơ
trên đất bạc màu, đất xám có lãi hơn nhiều so với đất phù sa và đất đỏ vàng
(Nguyễn Văn Bộ, 2007) [4].
Theo tác giả Bùi Huy Hiền (2002) [8], từ năm 1985 đến nay tình hình
sử dụng phân đạm ở nước ta tăng trung bình là 7,2%/năm, phân lân là
13,9%/năm, phân kali là 23,9%/năm. Tổng lượng N + P2O5 + K2O trong 15
năm qua tăng trung bình 9,0%/năm. Tỷ lệ N: P2O5: K2O trong 10 năm qua đã
cân đối hơn với tỷ lệ tương ứng qua các năm 1990, 1995 và 2000 là 1: 0,12:
0,05; 1: 0,46: 0,12 và 1: 0,44: 0,37. Lượng phân bón/ha cũng đã tăng lên qua
các năm 1990, 1995, 2000 với tổng lượng N: P2O5: K2O tương ứng là 58,7;
117,7 và 170,8 kg/ha, tỷ lệ này còn thấp so với các nước phát triển như Mỹ,
Hàn Quốc, Pháp, Nhật với tổng lượng N: P2O5 : K2O khoảng 240 - 400 kg/ha.

Theo Vũ Hữu Yêm (1995) [24], ảnh hưởng của bón đạm như sau: Khơng bón
23


24

24

năng suất đạt 40 tạ/ha; bón 40 kg N năng suất đạt 56,5 tạ/ha; bón 80 kg N
năng suất đạt 70,8 tạ/ha; bón 120 kg N năng suất đạt 76,2 tạ/ha; bón 160 kg N
năng suất đạt 79,9 tạ/ha.
Kết quả nghiên cứu bón đạm cho ngơ của Đào Thế Tuấn cho thấy ở
Đồng bằng sơng Hồng với mức bón đạm 90 kgN/ha, hiệu suất bón đạm đối
với ngơ địa phương là 13 kg ngô hạt/1 kg N và ngô lai là 18 kg ngơ hạt/1
kgN. Bón đến mức 180 kg N/ha đã đạt 9 - 14 kg ngô hạt/1 kg N (dẫn theo
Trần Văn Minh, 2004) [12].
Kết quả nghiên cứu của Lê Quý Kha (2001) [9] đã chỉ ra rằng mặc dù
trong điều kiện ít có khả năng đầu tư đạm và thiếu nước, ví dụ như nhờ nước
trời, tốt hơn hết vẫn phải chia nhỏ lượng đạm làm nhiều lần để bón thì hiệu
quả sử dụng đạm của cây ngô mới cao.

24


25

25

Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Liều lượng đạm bón cho ngơ.
- Giống ngô lai LVN99 và LVN14.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Thí nghiệm được tiến hành tại khu cây trồng cạn Viện Khoa
Học Sự Sống - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ tháng 9 - 2011 đến tháng 2 - 2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ trước trỗ 10
ngày đến tình hình sinh trưởng của một số giống ngô lai trong điều kiện vụ
Đông 2011.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón ở thời kỳ trước trỗ 10 ngày
đến tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ của một số giống ngô lai, vụ
đông 2011.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón ở thời kỳ trước trỗ 10 ngày
đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của một số giống ngô lai vụ
Đông 2011.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.4.1.1 Cơng thức thí nghiệm
Bảng 3.1. Các cơng thức và thời kỳ bón đạm
(ĐVT: kgN/ha)

Cơng thức
1(đ/c)
2
3
4

Lượng đạm bón ở các thời kỳ (kgN/ha)

Trước trỗ 10
3 - 5 lá
7 - 9 lá
ngày
50
50
0
50
50
25
50
50
50
50
50
75

(Các công thức đều được trồng 2 giống LVN99 và LVN14, nền 3 tấn phân vi sinh +
90 P2O5 + 90 K2O5)

25


×