Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ phân bón đến sự sinh trưởng và năng suất của một số giống cây ngô nếp lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.1 KB, 49 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề.
Trong những năm gần đây, sản xuất ngô Việt Nam đã thu được những kết
quả quan trọng. Theo số liệu thống kê, năm 2008 diện tích trồng ngơ của
cả nước đạt khoảng 1096,1 nghìn ha, năng suất đạt 39,6 tạ/ha, sản lượng
đạt 4303,2 nghìn tấn (Tạp chí NN & PT NT, Số 1, 2008). Diện tích trồng
giống lai chiếm trên 90%, So với năm 1990, khi chưa trồng giống lai thì
diện tích tăng 3 lần, sản lượng tăng gần 8 lần. Điều này khẳng định, việc
chọn tạo các giống ngô lai chúng ta đã đi đúng hướng.
Đối với các loại ngô thực phẩm, đặc biệt là ngô nếp (Zea mays
.subsp. Ceratina Kulesh), tuy sản lượng chưa nhiều nhưng nhu cầu sử
dụng các giống ngô này trong thời gian gần đây đang tăng lên rất nhanh.
Ở nước ta, ngô nếp ước tính chiếm khoảng 10% diện tích ngơ cả nước.
Chủ yếu là các giống thụ phấn tự do (TPTD), các giống ngô nếp lai được
sản xuất chưa nhiều. Việc trồng và tiêu thụ ngô nếp chất lượng cao làm
lương thực, làm quà không chỉ rất phù hợp với tập quán của các dân tộc
ít người miền núi, đồng bằng mà còn là ở các vùng kinh tế phát triển
(thành thị). Các giống ngơ nếp giúp người sản xuất có thu nhập cao, tận
dụng thân lá cho chăn nuôi. Trong những năm gần đây thị trường phân
bón cũng tác động mạnh đến diện tích cũng như thu nhập của người nơng
dân, việc bón phân cho ngơ như thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao
là điều mà các nhà khoa học và nông dân đều rất quan tâm. Năng suất
ngơ của nước ta chưa cao có phải là do giá phân bón tăng nên nơng dân
khơng dám đầu tư cho nơng nghiệp, do đó ngơ thiếu phân nên năng suất
kém hay do bón khơng đúng lúc, đúng cách, tỷ lệ không phù hợp. Muốn
phát huy được hiệu quả phân bón cần phải biết được trên đất có thành
phần như thế nào, quan hệ giữa phân và nước, giữa phân và đất, phân và



1

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

giống, giữa phân và chế độ canh tác, mật độ gieo trồng. Trên cơ sở đó
Chúng tơi tiến hành đề tài “Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ
phân bón đến sự sinh trưởng và năn suất của một số giống ngô nếp lai”.
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài.
1.2.1. Mục đích.
- Đánh giá được ảnh hưởng của các mức phân bón đến sự sinh trưởng và
năng suất của một số giống ngô nếp lai mới.
- Xác định được mức phân bón phù hợp với đặc điểm đất đai và điều kiện
canh tác của địa phương.
1.2.2. Yêu Cầu.
- Đánh giá giá một số đặc điểm, sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu
thành năng suất, năng suất của một số giống ngô nếp lai.
- Đánh giá khả năng chống chịu của các giống theo phương pháp chuẩn.
1.3. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn.
1.3.1. Ý nghĩa khoa học.
Theo dõi đánh giá sự ảnh hưởng của các mức phân bón đến sự sinh
trưởng, phát triển của các giống ngô nếp, là một khâu quan trọng trong việc đề
ra những yêu cầu kỹ thuật đối với những giống ngô nếp lai mới.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Thơng qua đánh giá một số đặc tính sinh trưởng, phát triển của giống ngơ

nếp lai mới có thể xác định được mức phân bón phù hợp, giống có đặc tính tốt,
năng suất cao để giới thiệu cho sản xuất.


2

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngơ trên thế giới và Việt Nam.
Trong nhiều thập kỷ qua các nhà khoa học trên thế giới đã thành
công trong nghiên cứu, khai thác tiềm năng của cây ngơ. Chính vì vậy ngơ
phát triển khơng ngừng về năng suất, diện tích và sản lượng. Theo thống
kê năm 2007 ta có bảng 2.1 thể hiện diện tích, năng suất, sản lượng ngơ,
lúa mì, lúa nước thế giới giai đoạn 1961-2007
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng ngơ, lúa mì, lúa nước thế giới giai
đoạn 1961-2007
NGƠ
Năm

D. tích

N. suất

LÚA MÌ

S. Lượng D. tích

N. suất

LÚA NƯỚC
S. Lượng D. tích

N. suất

S. Lượng

1961

104,8

2,0

204,2

200,9

1,1

219,2

115,3

1,9

215,3


2004/05

145,0

4,9

714,8

217,2

2,9

625,1

150,6

4,0

595,8

2005/06

145,6

4,8

696,3

218,5


2,8

621,5

152,6

4,1

622,1

2006/07

148,6

4,7

704,2

212,3

2,8

593,2

153,0

4,1

622,2


2007/08

157,0

4,9

766,2

217,2

2,8

603,6

153,7

4,1

626,7

(Diện tích: Triệu ha, Năng suất: Tấn/ha, Sản lượng: Triệu tấn)
Vào năm 1961, năng suất ngơ trung bình của thế giới chưa đến 20 tạ/ha, năm
2004 đã đạt 49,9 tạ/ha. Năm 2007, diện tích ngô đã vượt qua lúa nước (153,7 triệu
ha) với 157 triệu ha, năng suất 4,9 tấn/ha và sản lượng đạt kỷ lục với 766,2 triệu tấn
(FAOSTAT, USDA 2008). Điều này đã chứng minh ngơ là cây trồng có tốc độ
tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu đồng thời thể
hiện vị trí quan trọng của cây ngơ trong nền kinh tế thế giới.
Có được kết quả như vậy trước hết là nhờ việc ứng dụng rộng rãi
thuyết ưu thế lai trong chọn tạo giống cây trồng, mà cây ngô được đánh giá

là cây trồng thành công nhất trong việc ứng dụng ưu thế lai trong Nông

3

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Nghiệp. Tiếp đó là khơng ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác
như: tăng mật độ, làm đất tối thiểu, bón phân hợp lý... điều này cũng góp
một phần trong việc tăng năng suất cây ngô.
Đặc biệt thời gian gần đây, cùng với việc ứng dụng thành công hiện tượng ưu
thế lai vào chọn tạo giống theo phương pháp truyền thống thì việc ứng dụng công
nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng cũng được triển khai và đạt được những
kết quả quan trọng như: sử dụng chỉ thị phân tử phân tích đa dạng di truyền phân
nhóm ưu thế lai, tạo giống chịu hạn, chuyển gen chống chịu vào các dòng thuần có
khả năng kết hợp cao.... Đó là cơ sở tạo ra những giống tốt góp phần tăng nhanh năng
suất ngô trên thế giới.
Việc ứng dụng công nghệ gen được phát triển mạnh từ đầu những năm
90 và hiện nay vẫn đang tăng mạnh. Năm 2004 có 81 triệu ha cây trồng biến
đổi gen, trong đó ngơ kháng sâu đục thân và kháng thuốc trừ cỏ có 19,3 triệu
ha (chiếm 24%). Diện tích trồng ngơ chuyển gen lớn nhất ở nước Mỹ, năm
2005 diện tích được trồng bằng giống được tạo ra bằng công nghệ sinh học
chiếm 52%, năng suất ngơ nước Mỹ đạt hơn 10 tấn/ha trên diện tích 30 triệu
ha. Năm 2007, diện tích trồng ngơ chuyển gen trên thế giới đã đạt 35,5 triệu
ha, riêng ở Mỹ đã lên đến 29 triệu ha, chiếm 77% trong tổng số hơn 37,9 triệu
ha ngơ của nước này (GMO.COMPAS,2007).

Có thể nói, nghiên cứu và sử dụng ngơ lai thì Mỹ là một trong những nước
thành công nhất. Các nhà di truyền cải lương giống đã sớm thành công trong việc
chọn lọc và lai tạo giống ngô. Theo E.Rinke (1979), việc sử dụng giống ngô lai ở Mỹ
bắt đầu từ năm 1930, đến năm 1957 chủ yếu sử dụng giống lai ba và lai kép sau đó
giống lai đơn cải tiến và lai đơn được tạo ra và sử dụng chiếm 80-85% tổng số giống
lai, trong đó hơn 90% lai đơn.


4

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Bảng 2.2. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô một số nước trên thế giới giai
đoạn 2006 -2008
Diện tích (triệu ha)

Nước

2006/2007

Năng suất (tấn/ha)

Sản lượng(triệu

2007/2008 2006/2007 2007/2008 2006/2007 2007/2008


Thế giới

148,64

156,96

4,74

4,88

704,17

766,23

Mỹ

28,59

35,02

9,36

9,48

267,60

332,09

Trung Quốc


26,97

28,0

5,39

5,18

145.48

145,0

Brazil

14,0

14,

3,64

3,57

51,00

50,0

Ấn Độ

8,3


8,6

1,8

1,9

14,98

16,3

Indonesia

3,3

3,4

2,03

2,06

6,7

7,0

Philippin

2,64

2,65


2,36

2,3

6,23

6,1

Việt Nam

1,15

1,2

3,75

3,8

4,31

4,56

Thái Lan

1,0

1,0

3,8


3,85

3,8

3,85

(Nguồn: FAOSTAT, USDA)
(Diện tích: Triệu ha,Năng suất: Tấn/ha,Sản lượng: Triệu tấn)
900

60
50

700
600

40

500

30

400

Năng suất

Sản lượng - Diện tích

800


DT
(1000ha)

20

200
100

NS
(tạ/Ha)

2005
2007

2000

1995

Năm

1990

1985

1980

1975

1970


1965

0
1961

0

SL
(1000tấn)

10

300

Hình 2.1: Tình hình sản xuất ngơ thế giới giai đoạn 1961-2007

5

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Trung Quốc là nước có diện tích ngơ đứng thứ 2 thế giới và là quốc gia
sản xuất ngô lai số một Châu Á, với diện tích năm 2007 là 26,97 triệu ha trong
đó hơn 90% diện tích trồng bằng giống ngơ lai. Năng suất ngơ bình qn của
Trung Quốc đã tăng từ 5,09 tấn/ha, năm 2006/2007 lên 5,18 tấn/ha năm

2007/2008. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là một trong những nước đầu tư
đáng kể cho chương trình sản xuất ngơ khá sớm, song gần đây đã chững lại.
Nghiên cứu và sử dụng giống ngô lai ở một số nước đang phát triển bắt
đầu từ những năm 1960 như Achentina, Braxin, Colombia, Mehico, Ấn
Độ…Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội và yếu tố mơi trường, diện tích đất
canh tác phần lớn dựa vào nước trời, đất đai nghèo dinh dưỡng, xói mịn thường
xun, sâu bệnh…nên phát triển ngơ ở đây cịn chậm. Mặc dù, diện tích ngơ của
những nước này chiếm 68% diện tích ngơ tồn cầu nhưng chỉ đạt 46% tổng sản
lượng ngô thế giới (CIMMYT, 2001), (Lê Quý Kha, 2006).
Công tác nghiên cứu lai tạo giống ngô hiện nay đang có bước chuyển biến
mới, đó là ứng dụng cơng nghệ sinh học trong chọn tạo dòng thuần. Trong
những năm gần đây việc nghiên cưú tạo ra những dòng đơn bội kép (Double
Halploid – DH), dòng thuần về mặt di truyền (Chomozygous lines) bằng nuôi cấy
invitro đã giúp cho công việc tạo ra các dịng thuần một cách nhanh chóng, tiết
kiệm được hơn nửa thời gian so với việc tạo dịng bằng phương pháp thơng
thường (Ngơ Hữu Tình và cs, 1999)[10].
Theo Ngơ Hữu Tình thì 21% sản lượng ngơ thế giới được dùng làm lương
thực, 71% được dùng làm thức ăn chăn nuôi. Ở các nước phát triển phần lớn sản
lượng ngô được dùng cho chăn nuôi: Thái Lan 96%, Bồ Đào Nha 91%, Mỹ
76%, Trung Quốc 76%...
Trong những năm gần đây ngành công nghiệp chế biến nhiên liệu ethanol
đang phát triển rất mạnh và ngô được coi là nguồn nguyên liệu quan trọng để
sản xuất ethanol đang có xu hướng tăng. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ năm 2005
6

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa Sinh- KTNN

2006 dùng 40,6 triệu tấn, năm 2006-2007 sử dụng 50,4 triệu tấn, dự tính năm
2007-2008 sử dụng 81,3 triệu tấn và dự báo đến năm 2012 sẽ dùng khoảng
190,2 triệu tấn cho việc chế biến ethanol (FASTAT, 2008). Như vậy nhu cầu
tiêu thụ ngô trên thế giới đang tăng với tốc độ khá cao, điều này sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến lượng ngô xuất khẩu và nhu cầu lương thực của thế giới.
2.1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô ở Việt Nam.
Cây ngô được đưa vào Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 (Ngơ Hữu Tình và cs,
1999) và đã trở thành cây lương thực quan trọng thứ 2 sau lúa nước. Song với kỹ
thuật canh tác lạc hậu và chủ yếu trồng các giống ngô địa phương, năng suất thấp
nên đến những năm 1980 vẫn chỉ đạt khoảng 1 tấn/ha.
Từ giữa những năm 1980 thông qua sự hợp tác với Trung tâm cải lương Lúa
Mỳ Quốc tế (CIMMYT) nhiều giống ngô cải tiến đã được trồng ở nước ta như
VM1, HSB1, TH2A …đã đưa năng suất trung bình của nước ta lên 1,5tạ/ha vào
đầu những năm 1990. Ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước đột phá
khi chương trình phát triển giống lai thành công. Sau những thành công trong việc
chọn tạo các giống lai không quy ước như LS-3, LS-5, LS-6, LS-7…Các giống này
có năng suất 3-7 tấn/ha đã được mở rộng nhanh chóng trên phạm vi tồn quốc.
Tiếp đến là những thành công trong công tác nghiên cứu giống lai quy ước,
trong một thời gian ngắn các nhà nghiên cứu ngô Việt nam đã tạo ra hàng loạt các
giống tốt cho năng suất cao từ 7-10 tấn/ha như: LVN10. LVN4, LVN17, LVN25,
LVN99…Các giống này không thua kém các giống của cơng ty giống nước ngồi
về cả năng suất và chất lượng.
Theo ước tính năm 1991 diện tích trồng giống ngơ lai chưa đến 1% trên hơn
400 nghìn ha trồng ngô, đến năm 2007 giống lai đã chiếm khoảng 95% trong số hơn
1 triệu ha. Năm 1994 sản lượng ngô Việt nam vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000
vượt ngưỡng 2 triệu tấn, năm 2007 có diện tích, năng suất và sản lượng cao nhất từ
trước tới nay: Diện tích 1072.800, năng suất 39.6 tạ/ha, sản lượng vượt ngưỡng


7

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

4 triệu tấn. Đây là một tốc độ nhanh trong lịch sử phát triển ngô lai và Châu Á góp
phần đưa nghề trồng ngơ của nước ta đứng trong hàng ngũ những nước tiên tiến về
sản suất ngơ lai ở Châu Á (bảng 2.3, hình 2.2).
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất ngơ Việt Nam giai đoạn 1961 – 2007
Năm

1961

1975

1990

1994

2000

229,20

267,0

432,0


534,6

730,2 1052,6 1072,8

Sản lượng (1000 tấn) 260,10

280,60

671,0

1143,9

2005,9 3787,1 4250,9

10,5

15,5

21,4

Diện tích (1000 ha)

Năng suất (tạ/ha)

11,4

25,1

2005


36,0

2007

39,6

Nguồn: Tổng cục thống kê (đến 2005), Bộ NN&PTNT (2007)

1500

15.0

1000

10.0

500

5.0

0

0.0

Năng suất

20.0

2005

2007

25.0

2000

2500

1995

30.0

1990

3000

1985

35.0

1980

3500

1975

40.0

1970


4000

1961
1965

45.0

2000

DT - Sản lượng

4500

Diện tích
(1000ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Năng suất
(tạ/ha)

Năm

Hình 2.2. Tình hình sản xuất ngơ Việt Nam giai đoại 1961-2007
Năm 1961, năng suất ngô nước ta bằng 58% trung bình thế giới (11,2 / 19,4
tạ/ha). Nhưng 20 năm sau đó, trong khi năng suất ngơ thế giới tăng liên tục thì năng
suất của ta lại giảm, và vào năm 1979 chỉ còn bằng 29% so với trung bình thế giới
(9,9/33,9 tạ/ha).


8


Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Tuy nhiên, từ năm 1980 đến nay, năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với
tốc độ cao hơn trung bình thế giới. Năm 1980, bằng 34% so với trung bình thế giới
(11/32 tạ/ha); năm 1990 bằng 42% (15,5/37 tạ/ha); năm 2000 bằng 60% (25/42 tạ/ha);
năm 2005 bằng 73% (36/49 tạ/ha) và năm 2007 đã đạt 81,0% (39,6/49 tạ/ha)
Hiện nay thị phần giống ngô lai của Việt Nam chiếm khoảng 60%, chủ yếu là
giống ngô lai đơn, áp dụng vào sản xuất ở tất cả các vùng sinh thái trong cả nước. Các
giống dài ngày như: LVN10, HQ2000, LVN98,…Các giống trung ngày: LVN4, LVN12,
LVN17, VN8960,…Các giống ngắn ngày: LVN9, LVN20, LVN24, LVN25, LVN99,
VN98-1, LVN145, LVN885, LVN23 (ngô rau)…(Nguyễn Thị Nhài, 2005) [7].
Công nghệ sinh học là một ngành mới được áp dụng ở Việt Nam nhưng bước
đầu đã đạt được những thành công. Từ năm 1995, Viện Di Truyền nơng nghiệp đã
có các nghiên cứu về đơn bội ngơ, tiếp đó kỹ thuật ni cấy bao phấn ở Viên Nghiên
cứu Ngô đã ngày càng hồn thiện và chọn ra hơn 10 dịng đơn bội kép bước đầu
đánh giá là rất triển vọng. Phương pháp này cho kết quả ổn định và có hiệu quả.
Phần lớn các dịng thuần ở Viện Nghiên Cứu Ngơ đã được phân nhóm ưu thế lai
giúp định hướng chọn tạo giống lai có hiệu quả nhanh.
Những kết quả trên đã đóng góp rất lớn trong việc tăng năng suất và sản lượng
ngô Việt Nam trong 20 năm qua. Tuy vậy sản xuất ngơ nước ta vẫn cịn nhiều vấn đề
đặt ra: Năng suất ngô của nước ta vẫn thấp so với trung bình của thế giới (khoảng
81%); Năng suất thực tế thấp hơn nhiều so với năng suất tiềm năng; Giá thành sản
xuất ngơ ở nhiều vùng vẫn cịn cao (xấp xỉ 300USD/tấn ngô vàng, trong khi tại Mỹ
150,6USD/tấn); Bộ giống ngắn ngày, chống chịu tốt chưa nhiều, các giống ngơ đường

và nếp lai chưa có; Cơng nghệ bảo quản và chế biến ngô chưa phát triển…; Đặc biệt
sản lượng ngô chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước đang tăng rất nhanh (năm 2006
nhập 564.488 tấn, năm 2007 nhập 612.832 tấn ngô) (Tổng cục thống kê) [15].


9

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Như vậy để sản xuất ngô Việt Nam theo kịp các nước tiên tiến và đạt năng
suất trung bình của thế giới, việc quan trọng nhất là tăng cường thu thập các nguồn
nguyên liệu phù hợp, chọn tạo các giống chống chịu phục vụ cho các vùng khó
khăn, chọn tạo các giống ngơ thực phẩm có năng suất và chất lượng cao, kết hợp
chọn tạo giống bằng các phương pháp hiện đại với truyền thống, đẩy mạnh nghiên
cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác để phất huy tối đa tiềm năng của giống và bảo
vệ môi trường sinh thái.
2.2. Nguồn gốc phân loại và đặc tính cây ngơ nếp.
Những nghiên cứu gần đây đã có những phát hiện về nguồn gốc cây ngơ
như Rong-lin wang, Adrian Stec, Jody Hey, Lewis Lukens & John Doebly,1999
cho rằng ngơ được thuần hóa từ lồi cỏ mexican hoang dại teosinte (Zea mays
ssp. Parviglumis hoặc ssp mexicana). Những bằng chứng khảo cổ học chứng
minh rằng thời gian thuần hóa ngô vào khoảng 5000 đến 10.000 năm trước đây,
mặc dù nguồn gốc gần đây của ngô từ teosinte, những cây này khác biệt sâu sắc
về hình thái. Một điểm khác biệt chủ yếu là teosinte điển hình có nhánh cờ dài
trên đỉnh bơng cờ trong khi ngơ có nhánh đỉnh cờ ngắn bằng bắp. Phân tích di

truyền nhận thấy rằng teosinte branched 1(tb1) như là một gen tương hợp rộng
điều khiển sự khác biệt này.
Porcher Michel H và công sự cho biết ngô nếp đã được phát hiện ở Trung
Quốc từ năm 1909. Cây này biểu hiện những tính trạng khác thường các nhà tạo
giống ở Mỹ một thời gian dài sử dụng các tính trạng này là chỉ thị những gen ẩn
trong các chương trình chọn tạo giống ngơ. Năm 1922 các nhà nghiên cứu đã
phát hiện nội nhũ của ngơ nếp chỉ chứa amylopectin và khơng có amylose ngược
lại trong ngơ thường có chứa cả hai. Đến tận đại chiến thế giới thứ II nguồn
amylopectin chính là từ sắn nhưng khi người Nhật cung cấp các dịng ngơ nếp
thì amylopectin được sử dụng chủ yếu từ ngơ nếp.
Có giả thuyết cho rằng ngơ nếp có nguồn gốc ở Đông Nam Á mà Trung

10

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Quốc, Miến Điện, Philipin là quê hương đầu tiên của nó. Nhưng sau đó người ta thấy
rằng đó là kết quả của một đột biến thông thường của các giống ngô răng ngựa biểu
hiện gen Wx xảy ra đột biến trong điều kiện trồng trọt khơng bình thường tạo thành
gen lặn wx, chúng có thể xuất hiện ở các vùng khác nhau trên trái đất (Grebense
1954, dẫn theo Nguyễn Thị Lâm, 1997) [7].
Ngô là cây lương thực (Zea mays ssp.) được sử dụng nhiều hình thức với
một số nhóm chính quan trong là:
- Ngơ bột - Zea mays subsp. Amylacea sturt
- Ngô nổ Zea mays subsp. Everta sturt

- Ngô răng ngựa - Zea mays subsp. Indentata sturt
- Ngô đá - Zea mays subsp Indurata sturt
- Ngô đường- Zea mays subsp. Saccharata sturt
- Ngô nếp - Zea mays ceratina Kuleshov
- Ngô vỏ - Zea mays var. tunicata Larranxaga ex A. St. Hil
Ngô nếp (Zea mays subsp.Ceratina Kulesh) là một trong những lồi phụ
chính của lồi Zea mays Ngô nếp là một dạng của ngô tẻ do biến đổi tinh bột mà
thành. Tinh bột của ngô nếp chứa gần như 100% amilopectin, ngô thường chỉ chứa
75% amilopectin và 25% amiloza. Amilopectin là dạng tinh bột có cấu trúc phân tử
gluco phân nhánh dựa trên liên kết α.1-4 và α.1-6, ngược lại amiloza có cấu trúc
phân tử gluco không phân nhánh. Khi cho tinh bột ngô nếp vào dung dịch
Iotuakali (KI) thì nó chuyển sang màu cà phê đỏ, cịn tinh bột của của ngơ
thường thì chuyển sang màu xanh tím.
Đặc tính của ngơ nếp được quy định bởi gen đơn lặn wx, trên vị trí của
nhiễm sắc thể số 9 mã hóa tổng hợp tinh bột của hạt, gen này lấn át gen khác để
tạo tinh bột dạng nhỏ. Do vậy, hạt ngô nếp cũng giàu lyzin, triptophan và
protein. Chúng ta có thể sử dụng dung dịch KI nhuộm hạt phấn để xác định hiệu
quả của việc chuyển gen wx vào ngô thường.

11

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Theo Jame L.Brewbaker (Brewbaker, 1998), quá trình chọn lọc tự nhiên đã xảy
ra những đột biến .Trong đó có đột biến 2 là waxy 1 (tinh bột của hạt có cấu tạo bởi

amilopectin) ở Châu Á, từ đột biến này chọn lọc ra được những giống có vỏ mềm.
Tuy vậy, việc trồng ngơ nếp khơng đơn giản như trồng ngô tẻ. Trong những
năm gần đây khi nghiên cứu về đặc điểm nông học và kỹ thuật canh tác của ngô nếp
Trường Đại học Pennsylvania State University nghiên cứu kỹ thuật trồng ngô
nếp cho rằng: trồng ngơ có tinh bột hồn tồn là khơng dễ dàng vì gen sáp là lặn,
như vậy ngơ nếp phải cách ly với ngơ thường ít nhất 200m. Nếu trồng lẫn một
số cây ngô thường trên khu ruộng hoặc khu sản xuất có thể làm thay đổi ngay cả
có cách ly tốt và trong chọn lọc hạt gieo cũng cần loại bỏ tất cả hạt ngô thường
lẫn trong lô hạt hoặc hạt ngô nếp đã thay đổi do trôi dạt di truyền. Chất lượng
của ngô nếp cao hơn hạt ngô thường như Collins cho biết cao hơn khoảng 16 %,
độ ẩm hạt ngô nếp cao hơn xấp xỉ 1% nhưng khá biến động như Gallais nghiên
cứu độ ẩm hạt tinh bột ngô nếp cao hơn ngô thường 2-3%.
Người ta cho rằng, năng suất của ngô nếp ưu thế lai cũng như ngơ có chất
lượng protein cao có năng suất giảm đi so với bình thường. Nhưng những giống
nếp lai và các giống nếp thường khi nấu chín có độ dẻo, mùi vị thơm ngon, giá trị
dinh dưỡng cao. Chính vì vậy ngày nay ngơ nếp góp phần khơng nhỏ trong đời sống
con người, nó được sử dụng làm lương thực và thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Một số nước ở Châu Á đang sử dụng rất thông dụng như: Hàn Quốc, Philipin, Thái
Lan, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khác.
2.3. Tình hình Nghiên cứu và sử dụng ngô nếp trên thế giới và Việt Nam.
2.3.1. Nghiên cứu và sử dụng ngô nếp trên thế giới.
Những nghiên cứu di truyền của cây ngô nếp làm cơ sở chọn giống cũng
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sprague thí nghiệm 20 cây đại diện cho
cho một giống thụ phấn tự do để chứng minh sự trôi dạt di truyền, một ví dụ rõ
nét là trơi dạt di truyền của các giống ngô ở Châu Á với nội nhữ sáp. Trong các

12

Svth: Phạm Văn Ba-k32E



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

nhóm ngơ ở Châu Mỹ là khơng nhận thấy, nhưng đặc điểm sáp được tìm ra ở
những giống thường như ngô đá ở Nam Mỹ.
Những năm 1940 Anderson and Cutler đã nhận thấy mức độ quan trọng
của đa dạng di truyền ở ngô và xác định các lồi như là một nhóm bao gồm
những cá thể có những đặc điểm chung coi được xếp vào một nhóm. Các đặc
điểm hình thái phản ánh mơi quan hệ di truyền và được sử duụng để phân loại
loài ngô ở Mexico, Trung , Nam Mỹ và Hoa Kỳ. Cơ sở này được chúng minh
thêm bằng di truyền phân tử và hiện nay có 42 lồi và ở Mỹ rất nhiều giống ngô
thụ phấn tự do ưu thế được trồng trước khi có các giống ngơ ưu thế lai và chúng
đã cung cấp nguồn gen để tạo giống ngô ưu thế lai hiện nay và hầu hết các khu
vực trên thế giới. Đáng tiếc là hầu hết các giống ngô thụ phân tự do vùng Bắc
Mỹ đã bị mất.
Sự xuất hiện phát sinh của ngơ nếp bình thường như những thực vật khác
trên trái đất như lúa nếp, kê và lúa miến là kết quả của chọn lọc nhân tạo với
mục đích làm lương thực, đặc biệt với người dân Châu Á các giống cây ngũ cốc
có nội nhũ sáp được tiêu dùng và sử dụng đặc thù. Nội nhũ sáp đầu tiên có thể
xảy ra do trơi dạt di truyền, gen nội nhũ sáp có tần xuất thấp ở Châu Mỹ nhưng
có tần suất cao ở ngơ Châu Á.
Theo Tomob, để tạo dịng ngơ nếp người ta dùng vật liệu ban đầu từ các nguồn
ngô nếp đột biến tự nhiên hay nhân tạo như donor. Ngoài ra, các nhà khoa học
cũng rất quan tâm đến nguồn gen cây ngơ địa phương trong đó có nguồn gen ngơ nếp
phục vụ tạo giống. Từ nguồn vật liệu ban đầu, thông qua tự phối và chọn lọc cá thể,
dựa vào nội nhũ và các đặc tính nơng sinh học khác để tạo ra dịng nếp thuần. Để tạo
các đồng đẳng ngơ nếp từ nguồn ngô thường, người ta cho lai ngô nếp và ngơ thường,
sau đó tiến hành lai lại và kiểm tra bằng phân tích hạt qua phản ứng với dung dịch KI.

Bằng cách này, các nhà khoa học đã tạo ra khá nhiều dòng và giống nếp lai mới.
Chúng được trồng cách ly với các loại ngô khác để đảm bảo chất lượng.

13

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Người ta cho rằng ngơ nếp ưu thế lai cũng như ngô chất lượng protien cao,
năng suất giảm đi so với ngô ưu thế lai bình thường, và giả thuyết cho rằng tích
lũy mật độ hạt tinh bột thấp, nội nhũ mềm và khối lượng hạt thấp hơn. Năm
1990 mục tiêu chương trình tạo giống ngơ nếp ưu thế lai và ngơ có chất lượng
protein của Argentina được bắt đầu và sau đó 1 vài dòng thuần được phát triển
và thử khả năng phối hợp giữa các dịng tự phối tốt nhất và vụ ngơ năm 2001/02
một số tổ hợp lai đơn được thử nghiệm. Số tổ hợp phân thành 3 nhóm là :
- Ngơ nếp ưu thế lai
- Ngô chất lượng protein cao
- Tổ hợp lai kép cải thiện tinh bột của ngô chất lượng protein
Những thử nghiệm mới đã được thực hiện ở nhiều điểm đã nhận được
những kết quả ngạc nhiên với những lai đơn mới trên cơ sở lựa chọn dòng bố
mẹ tự phối thuần như trên đã cho năng suất cao, cải thiện tinh bột, chất lượng
protein và thích nghi tốt.
Ngô nếp được trồng nhiều nhất ở Mỹ, nhưng phần lớn diện tích được trồng
phần lớn ở miền trung Illois và Indian, phía bắc của Iowa. Diện tích ngơ nếp hàng năm
của Mỹ khoảng 290000 ha, chủ yếu diện tích này là trồng nếp vàng, nhưng gần đây có
một số diện tích nhỏ được trồng bằng nếp trắng.

Ở các nước phát triển như Mỹ việc chọn tạo giống ngô nếp tập trung chọn
tạo giống ngô nếp ưu thế lai, năm 2003 có 12 cơng ty hạt giống chào bán các tổ
hợp ngô nếp ưu thế lai được kinh doanh trên thị trường. Trong tương lai nước
Mỹ có xu hướng trồng ngô nếp rộng rãi đồng thời để các nhà chế biến chấp nhận
giống ngô nếp không biến đổi gen (non-GMO ) để xuất khẩu sang Châu Âu.
Mặc dù đã trải qua thời gian rất dài nhưng việc sản xuất ngô nếp thương mại
vẫn gặp rất nhiều vấn đề: thiếu những dạng đối chứng cho những dạng ngô đặc biệt,
tiềm năng năng suất của các giống ngơ nếp lai nhìn chung là thấp hơn so với ngô tẻ,
biến động tuỳ thuộc vào đất trồng, trung bình đạt từ 65-75% so với ngô tẻ thường.

14

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Theo thơng tin từ hội nghị ngô châu Á lần thứ 9 tại Bắc Kinh – T9/2005, Trung
Quốc đã tạo ra khá nhiều giống ngô nếp lai cho năng suất cao và chất lượng
ngon. Như: Giống nếp lai đơn màu trắng JYF101, năng suất trung bình 15 tấn
bắp tươi/ha; Nếp trắng lai đơn Yahejin 2006 cho năng suất tươi tới 20 tấn/ha;
giống nếp lai đơn màu tím Jinkenou 218 đạt 12 tấn bắp tươi/ha.
Ngơ nếp được dùng vào các mục đích khác nhau như ăn tươi, đóng hộp, chế
biến tinh bột… Nhìn chung có hai cách sử dụng chính là làm thực phẩm và chế
biến tinh bột. Ở Mỹ và các nước phát triển phần lớn ngô nếp được sử dụng để chế
biến tinh bột, dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm, keo dán, chất hồ dính,
cơng nghiệp dệt, cơng nghiệp giấy, lên men sản xuất cồn, chế siro…
Nhờ những tính chất đặc biệt mà hiện nay con người sử dụng ngày càng

nhiều và phạm vi sử dụng tinh bột ngô nếp càng được mở rộng. Tinh bột ngơ nếp
cịn được dùng như một dạng sữa ngơ làm đồ gia vị cho món salad.
2.3.2. Nghiên cứu và sử dụng ngô nếp ở Việt Nam.
Theo các nghiên cứu phân loại ngơ địa phương thì ngơ ở Việt Nam tập
trung chủ yếu vào hai loài phụ chính là đá rắn và ngơ nếp. Ngơ nếp được
phân bố ở khắp các vùng trong cả nước, với nhiều dạng màu hạt khác nhau:
Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ…Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập
và lưu giữ 148 mẫu ngơ nếp địa phương. Trong đó: 111 nguồn nếp trắng, 15
nguồn nếp vàng, 22 nguồn nếp tím, nâu, đỏ (Nguyễn Thị Nhài, 2005)[10].
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, những nghiên cứu chủ yếu vẫn là ngô tẻ,
các nghiên cứu về ngô nếp rất hạn chế. Cho tới nay, chỉ có một số cơng trình được cơng bố:
Cơng trình của Nguyễn Thị Lâm và Trần Hồng Uy [7] tiến hành phân lồi phụ cho
72 giống ngơ nếp địa phương. Trong đó 48 mẫu nếp trắng, 8 mẫu nếp vàng, 16 mẫu nếp
tím. Kết quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời gian sinh trưởng, chiều cao cây,
chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả.

15

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Tác giả Ngơ Hữu Tình và Nguyễn Thị Lưu [12] đã chọn tạo thành công
giống ngô nếp trắng tổng hợp được công nhận giống quốc gia năm 1989. Giống
này có thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng thích ứng rộng, được trồng khá phổ
biến ở Miền Bắc.


Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phương pháp chọn lọc
chu kỳ từ tổ hợp lai giữa hai giống nếp tổng hợp nhập nội từ Philipin đã tạo ra giống
nếp trắng ngắn ngày S2, năng suất trung bình 20-26 tạ/ha, được cơng nhận năm 1989.
Tác giả Phan Xuân Hào và cộng sự đã chọn tạo thành công giống ngô nếp trắng
VN2, được công nhận giống quốc gia năm 1997. VN2 được chọn tạo từ các giống ngơ
nếp ngắn ngày, năng suất khá, chất lượng tốt, có nguồn gốc khác nhau: Nếp Tây Ninh,
Nếp Quảng Nam – Đà Nẵng, Nếp Thanh Sơn – Phú Thọ và Nếp S-2 từ Philipin. Đây
là giống ngắn ngày, chất lượng dinh dưỡng cao, khả năng thích ứng rộng, năng suất
bình qn đạt 30 tạ/ha (Phan Xuân Hào và cs, 1997) [6].
Phạm Thị Rịnh và cộng sự ở phịng Nghiên cứu Ngơ Viện KHKTNN miền
Nam đã tạo được giống ngô nếp dạng nù TPTD cải tiến N1 từ 2 quần thể ngô nếp
nù địa phương ở Đồng Nai và An Giang. N1 đã được công nhận giống quốc gia
năm 2004. Đây là giống ngơ nếp ngắn ngày, có tiềm năng năng suất cao 40-50 tạ
hạt khơ/ha, thích hợp trồng ở các tỉnh phía Nam.
Các tác giả Nguyễn Hữu Đống, Phan Đức Trực, Nguyễn Văn Cương - Viện Di
Truyền Nông nghiệp, và Ngô Hữu Tình - Viện Nghiên cứu Ngơ đã gây đột biến bằng
tia gama, kết hợp với xử lý Diethylsulphat ở ngơ nếp thu được một số dịng biến dị có
các đặc tính nơng học q so với giống ban đầu (Nguyễn Hữu Đống và cs, 1997) [3].
Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam bắt đầu chuyển hướng sang
tạo giống nếp lai và đã tạo được một vài giống nếp lai khơng quy ước có triển vọng
như: MX2, MX4 của Công ty cổ phần Giống cây trồng Miền Nam, Bạch Ngọc của

16

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN


cơng ty Lương Nơng. Ngồi ra, một số giống nếp lai quy ước được trồng ở các tỉnh
phía Nam, phần lớn có nguồn gốc từ Đài Loan, Thái Lan, và một số công ty giống
quốc tế. Đồng thời Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập ngun liệu và tạo ra hàng loạt
các dịng thuần ngơ nếp phục vụ chương trình chọn tạo giống ngơ nếp lai. Hàng loạt
các tổ hợp nếp lai mới triển vọng đã được tạo ra và đang được thí nghiệm ở nhiều
vùng sinh thái ở Miền Bắc.
Theo Điều tra của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương
thì diện tích ngơ nếp nước ta chiếm gần 10% diện tích trồng ngơ cả nước. Diện tích
ngơ nếp liên tục tăng, đặc biệt là vùng đồng bằng ven đô thị. Nguyên nhân chính
trước hết do các giống ngơ nếp đáp ứng được nhu cầu luân canh tăng vụ trong cơ cấu
nông nghiệp hiện nay, nhưng quan trọng hơn là đáp ứng nhu cầu xã hội ngày một
tăng đối với sản phẩm này.
Sản xuất ngô ở Việt Nam theo kế hoạch của Bộ NN và PTNT phấn đấu đến
năm 2010 đạt 6-7 triệu tấn ngô/năm (Trần Hồng Uy và CS, 2004). Để đạt được mục
tiêu, chúng ta cần vượt qua một số trở ngại khách quan như diện tích đất canh tác
ngày càng thu hẹp, khí hậu khắc nghiệt và sâu bệnh ngày một nhiều hơn thì vấn đề
cần giải quyết là từng bước chuyển một phần diện tích sang trồng các loại ngô rau,
ngô quà (ngô nếp), ngô nổ với mục tiêu đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội, đa dạng
các sản phẩm hàng hoá và nâng cao giá trị kinh tế của sản xuất ngô.
Ở các vùng núi cao và vùng sâu, người dân sử dụng ngô nếp là nguồn lương
thực chính dưới dạng xơi ngơ hoặc dùng tươi: Nướng, luộc. Cịn hầu hết các địa
phương khác ngơ nếp được xem như thực phẩm làm ăn quà và chế biến đơn giản.
Những năm gần đây, đời sống được cải thiện, nhu cầu của người dân ngày một đa
dạng. Các loại ngô thực phẩm được sử dụng ngày một nhiều, khơng những làm lương thực mà
cịn được chế biến thành các món ăn ưa thích: ngơ chiên, súp ngơ, snack ngô, ngô rau bao tử, chế
biến tinh bột…


17


Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

PHẦN 3: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vật liệu, nội dung, địa điểm, thời gian nghiên cứu.
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu.
Thí nghiệm gồm Gồm 2 giống ngô nếp lai mới: NL6 được tạo ra tại Viện Nghiên
cứu Ngô và giống MX4 đang được trồng rộng rãi ở miền Bắc.
Bảng 3.1: Danh sách các giống tham gia thí nghiệm
STT

Tên giống

Nguồn gốc

Đặc điểm

1

NL6

Viện NC Ngô

Lai đơn


2

MX 4 (ĐC)

Cty GCT MN

Lai quy ước

3.1.2. Nội dung nghiên cứu.
- Đánh giá ảnh hưởng của các mức phân bón đến sinh trưởng phát triển, các yếu
tố cấu năng suất và khả năng chống chịu của các giống ngơ nếp lai.
- Xác định mức phân bón phù hợp để đưa vào sản xuất.
3.1.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu.
- Thí nghiệm được bố trí tại Cao Minh – Phúc yên – Vĩnh Phúc.
- Thời gian tiến hành: Vào vụ xuân 2009 (từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2009).
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
3.2.1. Bố trí thí nghiệm.
Thí nghiệm gồm 2 giống ngô NL6 và MX4 với 3 mức phân bón là:
Mức 1 : 100 kg N +70 kg P2 O5 + 60 kg K O
2

Mức 2 : 120 kg N + 80 kg P2O5 +70 kg K O
2

Mức 3 : 140 kg N +90 kg P2O5 +80 kg K O
2


18


Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Tương ứng với 6 cơng thức được bố trí theo khối ngẫu nhiên hồn tồn,
3 lần nhắc lại, mỗi công thức gieo 4 hàng/1 lần nhắc lại. Mỗi hàng dài 5 m.
Công thức 1: Giống MX4 mức phân bón 1.
Cơng thức 2: Giống MX4 mức phân bón 3.
Cơng thức 3: Giống MX4 mức phân bón 3.
Cơng thức 4: Giống NL6 mức phân bón 1.
Cơng thức 5: Giống NL6 mức phân bón 2.
Cơng thức 6: Giống NL6 mức phân bón 3.
Khoảng cách gieo: 60cm x 25cm x 1 cây/hốc.
Phân chuồng bón 10 tấn/ha
Sơ đồ thí nghiệm.
Dải bảo vệ
NL6

NL6

MX4

MX4

NL6

MX4


Dải

MỨC 1

MỨC 3

MỨC 1

MỨC 2

MỨC 2

MỨC 3

bảo

MX4

NL6

NL6

MX4

MX4

NL6

vệ


MỨC 2

MỨC 1

MỨC 3

MỨC 3

MỨC 1

MỨC 2

NL6

MX4

MX4

NL6

NL6

MX4

MỨC 3

MỨC 1

MỨC 2


MỨC 1

MỨC 2

MỨC 3

I

Dải
bảo

II vệ
III

Dải bảo vệ
3.2.2. Quy trình kỹ thuật.
Chăm sóc theo quy trình kỹ thuật của Viện nghiên cứu ngơ.
- Làm đất: đất được cày tơi xốp, làm sạch cỏ dại và tàn dư cây trồng vụ trước.
Đất được phơi ải kỹ, bón vơi, san phẳng và rạch hàng.
- Gieo hạt: mỗi hốc 2-3 hạt.

19

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN


- Bón phân
+ Bón lót: Bón tồn bộ lượng phân chuồng, phân lân.
+ Bón thúc:
Khi cây ngơ có 3 - 5 lá thật, bón 1/3 lượng đạm.
Khi cây ngơ có 7 - 9 lá thật, bón 1/3 lượng đạm + 1/2 lượng kali cịn lại.
Trước khi cây ngơ trổ cờ bón 1/3 lượng đạm + 1/2 lượng kali
- Chăm sóc:
+ Theo dõi q trình sinh trưởng phát triển của cây ngơ để có biện pháp
xử lý kịp thời.
+ Tiến hành tỉa, dặm cây con để đảm bảo đúng mật độ và số lượng cây.
+ Khi ngơ có 3-4 lá thật tiến hành xới xáo, làm cỏ và tỉa cây đảm bảo mỗi
hốc có 1 cây.
+ Khi ngơ 7-9 lá tiến hành làm cỏ, bón thúc lần 2.
+ Theo dõi để tưới tiêu, đảm bảo điều kiện cho ngơ phát triển.
+ Tiến hành phịng ngừa sâu bệnh kịp thời khoa học.
3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi.
- Thời gian sinh trưởng (ngày): Từ khi mọc đến các giai đoạn
+ Ngày mọc: Được xác định khi có 50% số cây mọc
+ Ngày trỗ cờ: Được xác định khi có ≥ 50% số cây trỗ cờ
+ Tung phấn: Được xác định khi có ≥ 50% số cây có hoa nở được 1/3 trục chính
+ Phun râu: Khi có ≥ 50% số cây trên ruộng có râu nhú dài từ 2-3 cm
+ Chín sinh lý: Khi có trên 75% số cây có lá bi khơ và chân hạt có chấm đen.
- Các chỉ tiêu hình thái:
+ Chiều cao cây (cm): Đo từ mặt đất đến điểm phân nhánh cờ đầu tiên.
Đo 10 cây/ơ thí nghiệm.
+ Độ cao đóng bắp (cm): Đo từ mặt đất tới đốt đóng bắp trên cùng, đo 10
cây/ơ thí nghiệm.

20


Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

+ Số lá (cắt đánh dấu lá thứ 5 và thứ 10 để xác định số lá dễ dàng). Đếm
số lá sau khi ngô trỗ cờ hết, đếm 10 cây/ơ thí nghiệm.
+ Động thái tăng trưởng chiều cao cây, 7 ngày đo một lần, đo từ mặt đất đến đỉnh lá
cao nhất, đo 10 cây/ô thí nghiệm.
+ Động thái tăng trưởng số lá, 7 ngày đếm một lần, đếm 10 cây/ơ thí nghiệm
+ Diện tích lá và chỉ số diện tích lá (LAI): Đo vào giai đoạn ngô từ 7 - 9 lá
và giai đoạn ngô vừa trỗ cờ xong, giai đoạn này ngô đạt chỉ số diện tích lá cao
nhất, đo 10 cây/ơ.
- Một số đặc trưng hình thái của bắp.
+ Độ che kín bắp (Điểm)
Điểm 1: rất kín
Điểm 2: kín
Điểm 3: hơi hở
Điểm 4: hở
Điểm 5: rất hở
+ Chiều dài bắp (cm): Đo khoảng cách giữa hai đầu mút của hàng hạt dài
nhất, đo 5 bắp/1 giống
+ Đường kính bắp (cm): Đo ở giữa bắp, đo 30 bắp/ 1 giống.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
+ Số hàng hạt/bắp: Một hàng được tính khi có 50% số hạt so với hàng dài
nhất, đếm tổng số hàng có trên bắp, đếm 30 bắp/1 giống.
+ Số hạt/hàng: Được đếm theo hàng hạt có chiều dài trung bình, đếm 30

bắp/1 giống.
+ Khối lượng 1000 hạt (gram) ở ẩm độ 14%: Cân 2 mẫu, mỗi mẫu 500
hạt, nếu chênh lệch < 5g là chấp nhận được.
+ Năng suất lý thuyết (NSLT) tấn/ha ở độ ẩm 14%:
Số HH/B x Số H/H x Số B/C x Mật độ x P1000 hạt(14%)
NSLT =
100.000.00

21

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Trong đó: Số HH/B: Số hàng hạt/bắp
Số H/H : Số hàng/hạt
Số B/C : Số bắp/cây
- Khả năng chống chịu:
+ Sâu đục thân (%): Đếm số cây bị nhiễm sâu/ tổng số cây trong ô. Đánh
giá bằng các mức độ như sau.
Không bị sâu (< 5% số cây bị sâu)
Nhẹ (có 5 - 15% số cây bị nhiễm sâu)
Vừa (có 15 - 25% số cây bị nhiễm sâu)
Nặng (có 25 - 35% số cây bị nhiễm sâu)
Rất nặng (có 35 - 50% số cây bị nhiễm sâu)
+ Bệnh khô vằn: Số cây bị bệnh/tổng số cây trong ơ thí nghiệm, sau đó
đánh giá bằng cách cho điểm từ 1-5.

Điểm 1: Khơng có vết bệnh
Điểm 2: Có vết bệnh ở sát gốc
Điểm 3: Vết bệnh lan đến những đốt sát gốc
Điểm 4: Vết bệnh lan đến bắp (lá bi)
Điểm 5: Vết bệnh lan toàn cây.
+ Bệnh đốm lá(điểm): Đếm số cây bị bệnh/tổng số cây bị bệnh trong ơ thí
nghiệm. Đánh giá bằng cách cho điểm theo thang điểm từ 1-5.
Điểm 1: Không nhiễm (< 5% diện tích lá bị bệnh).
Điểm 2: Nhẹ ( có từ 5-15% diện tích lá bị bệnh).
Điểm 3: Vừa ( có từ 15-30% diện tích lá bị bệnh).
Điểm 4: Nặng ( có từ 30-50% diện tích lá bị bệnh).
Điểm 5: Rất nặng ( có từ 50% diện tích lá bị bệnh trở lên).
+ Đổ gẫy thân (%): Đếm các cây bị gãy ở thân phía dưới bắp/tổng số cây trong
ơ khi thu hoạch.

22

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

Điểm 1: Tốt: <5 % cây gãy
Điểm 2 : Khá: 5-15% cây gãy
Điểm 3: Trung bình: 15-30% cây gãy
Điểm 4: Kém: 30-50% cây gãy
Điểm 5: Rất kém: >50% cây gãy
+ Chống đổ: Đổ gốc (%) được tính khi cây đổ nghiêng 1 góc > 300 so với phương

thẳng đứng.
3.2.4. Phương pháp xử lý số liệu.
- Số liệu được xử lý bằng chương trình Excel, thống kê sinh học.
- Sử lý bằng thống kê toán học với các tham số sau:
+ Số trung bình ( X ).
n

X=

∑X
i =1

i

s X : Giá trị trung bình.

n

X i : Các biến số.

n: Dung lượng mẫu (n = 30)
+ Độ lệch chuẩn.

δ=

(

∑ Xi − X

)


2

n

+ Sai số trung bình.

m=

δ
n

+ Hệ số biến động.
CV % =

δ
X

.100%


23

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN


PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện khí hậu thời tiết vụ thí nghiệm.
Vụ xuân ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ có thời tiết khá thuận lợi cho cây ngơ
sinh trưởng, phát triển và đạt năng suất cao.
Bảng 4.1: Diễn biến thời tiết vụ xuân năm 2009 tại
Cao Minh – Phúc n – Vĩnh Phúc
Nhiệt độ khơng khí (OC)

Ttb

Tmax

Lượng mưa

Số giờ nắng

khí Trung

trung bình

trung bình

bình (%)

Tháng

Độ ẩm khơng

(mm)


(giờ)

Tmin

3

21,2

31,3

13,3

83

55,4

57

4

24,5

33,2

16,7

83

132,3


107

5

29,4

34,5

22,0

83

313,4

135

6

30,6

38,6

22,3

79

167,7

181


(Nguồn: Trạm khí tượng Vĩnh Yên)
Qua bảng ta thấy nhiệt độ trung bình qua các tháng tăng dần và đảm bảo
cho cây ngô sinh trưởng phát triển tốt. Độ ẩm khơng khí của cây ngô dao động
trong khoảng 79 – 83% là điều kiện tốt cho cây ngô phát triển.
Vào đầu vụ (Tháng 3) ít mưa nhưng không ảnh hưởng nhiều tới cây con
do bố trí gieo hạt vào thời điểm thích hợp và tưới nước kịp thời. Tuy nhiên,
những ngày đầu tháng 5 ở Miền Bắc (đặc biệt khu vực Hà Nội ) có mưa lớn, kéo
dài làm ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của ngô.
Cây sinh trưởng phát triển tốt trong các giai đoạn. Giai đoạn mẫn cảm
nhất của cây ngô (trỗ cờ, tung phấn, phun râu) diễn ra vào cuối tháng 4. Đầu
tháng 5 gặp mưa lúc này ngô đã qua giai đoạn tung phấn và chuyển sang giai
đoạn kết hạt. Mưa to kết hợp với gió đã làm đổ gãy ngô điều này làm giảm năng
suất tuy nhiên không ảnh hưởng tới kết quả thí nghiệm.
4.2. Thời gian sinh trưởng.
Từ khi gieo đến khi thu hoạch cây ngô phải trải qua các giai đoạn sinh

24

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Sinh- KTNN

trưởng khác nhau và chia thành 2 giai đoạn chính: Thời kỳ sinh trưởng - sinh
dưỡng và thời kỳ sinh trưởng sinh thực.
Thời gian sinh trưởng của cây ngơ được tính từ khi cây bắt đầu mọc cho đến
khi chín sinh lý (thu hoạch bắp khô). Thời gian sinh trưởng ngắn hay dài phụ thuộc
vào giống, mùa vụ, kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc và điều kiện sinh thái của từng

vùng. Việc theo dõi sự chênh lệch về thời gian giữa các giai đoạn của các mức
phân bón trong một giống thí nghiệm có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu khoa học
và thực tiễn sản xuất.
Quá trình theo dõi sẽ đánh giá được thời gian trỗ cờ, tung phấn, phun râu
và thời gian chín của các mức phân bón trên cơ sở đó ta biết được ở mức phân
bón có làm thay đổi thời gian sinh trưởng của giống hay khơng? Từ đó định ra
kế hoạch sử dụng các mức phân bón - giống vào từng thời vụ, vùng sinh thái cho
phù hợp với cơ cấu cây trồng nhằm thu được hiệu quả cao nhất trong sản xuất.
Thời gian sinh trưởng là một tính trạng di truyền chịu ảnh hưởng của điều
kiện ngoại cảnh, mùa vụ trong năm. Nhìn chung, vụ xuân năm 2009 thời tiết tương
đối thuận lợi cho quá trình nảy mầm của các giống thí nghiệm. Qua theo dõi ta thu
được bảng sau:
Bảng 4.2. Thời gian sinh trưởng của các giống ngơ làm thí nghiệm.
Chỉ tiêu
Theo
dõi
Giống

Từ ngày gieo
đến ngày mọc
(ngày)

Từ ngày gieo
đến trỗ cờ
(ngày)

Từ trỗ cờ đến
phun râu
(ngày)


Từ phun râu
đến chín
(ngày)

M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3

Thời gian sinh
trưởng
(ngày)
M1

M2

M3

NL6

3

3

3

58

60

61

3


3

2

40

39

41

101

102

104

MX4

3

3

3

55

57

58


4

3

3

39

38

39

98

98

100

Ngày gieo 02/03/2009


25

Svth: Phạm Văn Ba-k32E


×