Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

So sánh một số dòng, giống sắn có tiềm năng cho năng suất và chất lượng cao tại trường đại học nông lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.21 KB, 54 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây sắn (Manihot esculenta crantz) là một trong những cây lương thực dễ
trồng, có khả năng thích ứng rộng, và trồng được trên những vùng đất nghèo, không
yêu cầu cao về điều kiện sinh thái, phân bón, chăm sóc. Nó được trồng rộng rãi ở 30
0
Bắc đến 30
0
Nam và được trồng ở trên 100 nước nhiệt đới thuộc ba châu lục lớn là
châu Phi, châu Mỹ và châu Á ( Phạm Văn Biên, Hoàng Kim, 1991) [1].
Sắn là cây lương thực rất quan trọng bởi có giá trị lớn trên nhiều mặt: Sắn là
nguồn lương thực đáng kể cho con người, hiện nay nhiều nước trên thế giới đã sử
dụng sắn và các sản phẩm chế biến từ sắn làm nguồn lương thực chính, nhất là các
nước của châu Phi. Tinh bộ sắn còn là một thành phần quan trọng trong chế độ ăn của
hơn một tỷ người trên thế giới. Sắn cũng là thức ăn cho gia súc. gia cầm quan trọng
tại nhiều nước trên thế giới, ngoài ra sắn còn là hàng hóa xuất khẩu có giá trị để làm
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến bột ngọt, bánh kẹo, mì ăn liền, ván ép,
bao bì, màng phủ sinh học và phụ gia dược phẩm… Đặc biệt trong thời gian tới việc
nghiên cứu phát triển sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học đang được các quốc gia
trên thế giới quan tâm bởi các lợi ích của loại nhiên liệu này đem lại mà cây sắn là
nguyên liệu chính cho công nghiệp chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol). Chương
trình sản xuất ethanol của chính phủ Braxin đã tạo ra gần 1 triệu việc làm cho người
lao động.
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng sau lúa và ngô. Năm 2010 diện
tích sắn toàn quốc là 496,10 nghìn ha, năng suất bình quân 17,18 tấn/ha, sản lượng là
8,522 nghìn tấn. Cả nước hiện có hơn 60 nhà máy chế biến tinh bột sắn, trong đó có
41 nhà máy đã đi vào hoạt động với tổng công suất 2,2 - 3,8 triệu tấn sắn củ
tươi/năm. Tổng sản lượng tinh bột sắn của Việt Nam hiện đạt 600 - 800 nghìn tấn,
trong đó có khoảng 70% dành cho xuất khẩu và 30% tiêu thụ trong nước ( Trần Ngọc


Ngoạn, 2007) [4].
Cây sắn ở Việt Nam ngày càng có nhu cầu cao trong công nghiệp chế biến tinh
bột, thức ăn gia súc, thực phẩm, dược liệu và trở thành cây hàng hóa xuất khẩu của
nhiều tỉnh, công nghiệp chế biến ngày càng đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu
của người dân ngày càng tốt hơn.
Để đáp ứng nguồn nguyên liệu hiện nay thì giống tốt cho năng suất cao, chất
lượng tốt và thích ứng rộng đóng vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, các nhà khoa
học trên thế giới và trong nước đang rất quan tâm đến công tác chọn lọc và cải tạo
giống sắn mới có năng suất cao, chất lượng tốt nhằm đáp ứng nhu cầu hiện nay cũng
1
2
như sau này. Xuất phát từ thực tế đó, em thực hiện đề tài: “So sánh một số dòng,
giống sắn có tiềm năng cho năng suất và chất lượng cao tại trường Đại học Nông
Lâm”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
So sánh, đánh giá đặc điểm sinh trưởng, năng suất và chất lượng của các dòng,
giống sắn tham gia thí nghiệm nhằm chọn ra các giống sắn mới cho năng suất cao,
phẩm chất tốt đáp ứng được nhu cầu sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến đồng thời phù hợp với điều kiện sinh thái ở Thái Nguyên cũng như các tỉnh
trung du miền núi phía Bắc.
1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- So sánh một số đặc điểm về sinh trưởng, phát triển các dòng, giống sắn tham
gia thí nghiệm.
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất và chất lượng của các
dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của các dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm.
1.4. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp sinh viên củng cố và hệ thống lại toàn bộ những kiến thức đã học, áp
dụng vào thực tế tạo điều kiện cho sinh viên học hỏi thêm kiến thức cũng như kinh

nghiệm trong sản xuất.
- Trên cơ sở học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn đã giúp cho
sinh viên nâng cao được chuyên môn, nắm được phương pháp và tổ chức tiến hành
nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
1.4.2. Ý nghĩa trong sản xuất
Góp phần tìm ra giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt đưa vào sản xuất
đại trà nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất của tỉnh Thái Nguyên cũng như các tỉnh trung
du miền núi phía Bắc.
2
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. NGUỒN GỐC, GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA CÂY SẮN
2.1.1. Nguồn gốc
Cây sắn có tên khoa học là Manihot esculenta crantz có hoa hạt kín, có 2 lá
mầm và thuộc họ thầu dầu có tới hơn 300 chi và 8000 loài phân thành 17 nhóm, có
bộ nhiễm sắc thể 2n = 36 ( Roger và Appan, 1973) [13]. Nhiều tài liệu cho biết cây
sắn có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của Châu Mỹ La Tinh (Crantz, 1976) và được
trồng cách đây khoảng 5000 năm (CIAT,1993).
Trung tâm phát sinh của cây sắn được giả thuyết tại Đông Bắc Brazil thuộc lưu
vực sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại sắn trồng và hoang dại (Đecanola, 1986;
Roger, 1965).
Trung tâm phân hóa phụ của cây sắn có thể tại Mêhicô, Trung Mỹ và ven biển
các nước Nam Mỹ. Bằng chứng là những di tích khảo cổ ở Vênêzuela niên đại 2700
năm trước công nguyên, những lò nướng bánh sắn trong phức hệ Malabo ở phía bắc
Colombia niên đại khoảng 1200 năm trước công nguyên, những hạt tinh bột sắn ở
trong phần hóa thạch được phát hiện tại Mêhicô có tuổi khoảng 900 năm đến 200
năm trước công nguyên (Roger và Appan, 1973) [13].
Các công trình nghiên cứu gần đây của nhiều tác giả kết luận rằng: Cây sắn có
nguồn gốc phức tạp và có bốn trung tâm phát sinh đó là: Brazil có hai trung tâm, còn

lại là ở Mêhicô và Bolivia.
Cây sắn được người Bồ Đào Nha đưa đến Congo của châu Phi vào thế kỷ
16. Tài liệu nói tới sắn ở vùng này là của Barre và Thevet viết năm 1558. Ở châu
Á, sắn được du nhập vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17 (P.G. Rajendran et al, 1995) và
Sri Lanka đầu thế kỷ 18 (W.M.S.M Bandara và M Sikurajapathy, 1992). Sau đó,
sắn được trồng ở Trung Quốc, Myanma và các nước châu Á khác ở cuối thế kỷ 18,
đầu thế kỷ 19 (Fang Baiping 1992. U Thun Than 1992).
Ở Việt Nam cây sắn được du nhập vào khoảng thế kỷ thứ 18 (Phạm Văn Biên,
Hoàng Kim) [1] và được canh tác phổ biến ở hầu hết các tỉnh của Việt Nam từ Bắc đến
Nam. Diện tích sắn trồng nhiều nhất ở vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, vùng núi và
trung du phía Bắc và ven biển Nam Trung Bộ, ven biển Bắc Trung Bộ.
2.1.2. Giá trị dinh dưỡng
Theo số liệu công bố của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp thế giới (FAO),
hàm lượng dinh dưỡng trong củ sắn (tính trên 100 gam phần ăn được) như sau:
3
4
Nước : 65,5%
Protein : 1,0%
Lipit : 0,2%
Xenlulose : 1,2%
Trong protein của sắn có tương đối đầy đủ các acid amin (nhất là 9 acid amin
không thay thế được cần thiết cho con người) đặc biệt hai acid amin quan trọng là
Lizin và Tritophan có đủ để cung cấp cho nhu cầu của cả trẻ em và người lớn.
Qua số liệu ở bảng 2.1, ta thấy lượng vật chất khô của củ sắn cả vỏ, lá sắn, bột lá
sắn, bã sắn ướt đều cao hơn so với một số cây dùng làm thức ăn cho gia súc khác. Đặc
biệt trong củ sắn cả vỏ có hàm lượng chất khô, protein thô, xơ thô, canxi, photpho và
năng lượng trao đổi đều cao hơn hẳn so với các loại thức ăn khác. Điều này chứng tỏ
thành phần dinh dưỡng trong củ sắn là rất cao, đáp ứng được nhu cầu trong khẩu phần
ăn của vật nuôi.
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng trong một số loại

cây trồng dùng làm thức ăn cho gia súc
Tên thức ăn Chất
khô
Protein
thô
Xơ thô Canxi Photpho
Năng lượng
trao đổi
(Kcal/đvtă)
Cỏ Pangola 253 17,9 85,9 0,9 0,5 547
Cây ngô non 131 14,0 33,8 0,8 0,3 295
Lá cây keo dậu 257 70,0 36,0 3,8 0,7 780
Thân lá cỏ Stylo 223 35,0 61,0 3,1 0,5 533
Rau muống 106 21,0 16,0 1,2 0,5 270
Củ sắn cả vỏ 277 90,0 100,0 0,5 0,4 968
Lá sắn 257 65,9 38,2 3,0 0,9 726
Bột lá sắn 897 57,0 139,8 11,0 6,3 2349
Bã sắn ướt 204 5,0 17,1 0,4 0,3 468
(Nguồn: Giáo trình chăn nuôi - NXB Nông nghiệp Hà Nội, 2000)
2.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, TIÊU THỤ SẮN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới
Tình hình sản xuất sắn trên thế giới trong giai đoạn 2006 - 2010 cụ thể là: Năm
2010 diện tích sắn trên toàn thế giới đạt 18,41 triệu ha, năng suất bình quân 12,40
tấn/ha, sản lượng 228,55 triệu tấn ( FAOSTAT, 2011) [14]. Diện tích, năng suất và
sản lượng sắn trên thế giới có chiều hướng gia tăng và được thể hiện ở bảng 2.2 như
sau:
4
5
Bàng 2.2: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên

thế giới từ năm 2006 - 2010
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2006 18,56 12,06 223,85
2007 18,62 12,15 226,30
2008 18,77 12,44 233,50
2009 18,75 12,50 234,55
2010 18,41 12,40 228,55
(Nguồn: FAOSTAT 2011 [14])
Cho đến nay cây sắn được trồng tại 105 quốc gia, trong đó có 64,8% diện tích sắn
được trồng ở Châu Phi, Châu Á chiếm 21,2% và Châu Mỹ là 14%.
Năm 2010 tổng diện tích sắn trồng ở Châu Mỹ là 2.678 nghìn ha, năng suất củ
tươi bình quân 12,39 tấn/ha, sản lượng 33,20 triệu tấn. Năng suất trung bình ở Châu
Mỹ cao hơn năng suất trung bình ở Châu Phi là 2,22 tấn/ha. Brazil là nước có diện
tích trồng sắn lớn nhất thế giới với 1.773,300 nghìn ha, Thái Lan là nước có diện tích
lớn thứ 2 thế giới với 1.168,450 nghìn ha, thấp hơn so với Brazil là 604,85 nghìn ha.
Tồn tại chính trong sản xuất và tiêu thụ sắn ở Châu Mỹ là trình độ kỹ thuật thâm canh
chưa cao, công nghệ chế biến tinh bột sắn không phát triển bằng Châu Á, sắn chủ yếu
sử dụng tươi và làm thức ăn gia súc.
Châu Á cùng với Châu Phi và Châu Mỹ là một trong ba vùng sắn quan trọng của
thế giới. Diện tích sắn Châu Á hiện có 3.891 nghìn ha, sản lượn 77,47 triệu tấn đứng
thứ hai sau Châu Phi, năng suất sắn ở Châu Á hiện đạt bình quân 19,21 tấn/ha, cao hơn
Châu Phi 9,04 tấn/ha (FAOSTAT, 2011) [14].
Ngoài ra với mức tiêu thụ sắn ở các nước đang phát triển dự báo đạt khoảng
254,60 triệu tấn so với các nước đã phát triển là 20,5 triệu tấn. Khối lượng sản phẩm

sắn toàn cầu sử dụng làm lương thực thực phẩm dự báo nhu cầu là 176,3 triệu tấn và
thức ăn gia súc 53,4 triệu tấn. Tốc độ tăng hàng năm của nhu cầu sử dụng sản phẩm
sắn làm lương thực, thực phẩm và thức ăn gia súc đạt tương ứng là 1,98% và 0,95%.
Châu Phi vẫn là khu vực dẫn đầu sản lượng sắn toàn cầu với dự báo sản lượng năm
2020 sẽ đạt 168,6 triệu tấn. Trong đó, khối lượng sản phẩm sử dụng làm lương thực
5
6
thực phẩm là 77,2%, làm thức ăn gia súc là 4,4%. Châu Mỹ La tinh giai đoạn 1993 -
2020, ước tính tốc độ tiêu thụ sản phẩm sắn tăng hàng năm là 1,3%, so với Châu Phi
là 2,44% và Châu Á là 0,84 - 0,96%. Cây sắn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong
nhiều nước châu Á, đặc biệt là các nước vùng Đông Nam Á nơi cây sắn có tổng diện
tích đứng thứ ba sau lúa và ngô và tổng sản lượng đứng thứ ba sau lúa và mía. Chiều
hướng sản xuất sắn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh cây trồng. Giải pháp chính là
tăng năng suất sắn bằng cách áp dụng giống mới và các biện pháp kỹ thuật tiên tiến
( MARD, 2004) [15].
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, sắn là một trong bốn cây trồng có vai trò quan trọng trong chiến
lược an toàn lương thực quốc gia sau lúa và ngô (Phạm Văn Biên, 1998) [2].
Từ lâu, cây sắn đã trở thành cây có củ đứng hàng đầu về diện tích và sản lượng
so với cây có củ ở nước ta và trở thành cây công nghiệp hàng hóa xuất khẩu và làm
thức ăn cho gia súc có giá trị kinh tế cao trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới.
Tình hình sản xuất sắn ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 - 2010 được thể hiện
ở bảng 2.3.
6
7
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn ở Việt Nam
giai đoạn từ năm 2000 đến 2010
Năm
Diện tích
(nghìn ha)

Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2000 237,6 8,35 1.986
2005 425,5 15,78 6.716
2006 475,2 16,38 7.783
2007 495,5 16,53 8.193
2008 555,7 16,91 9.396
2009 508,8 16,82 8.557
2010 496,1 17,18 8.522
(Nguồn: FAOSTAT 2011[14])
Qua số liệu ở bảng 2.3 cho thấy tình hình sản xuất sắn qua các năm so với năm
2000 tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2000 có diện tích trồng sắn từ
237,6 nghìn ha, năm 2010 là 496,1 nghìn ha, tăng so với năm 2000 là 258,5 nghìn ha
đánh dấu sự gia tăng năng suất từ 8,35 tấn/ha trong năm 2000 lên 17,18 tấn/ha vào
năm 2010.
Việt Nam đã đạt tiến bộ kỹ thuật nhanh nhất Châu Á về chọn tạo và nhân
giống sắn. Tiến bộ này là do nhiều yếu tố mà yếu tố chính là thành tựu trong chọn tạo
và nhân giống sắn lai. Năng suất và sản lượng sắn của nhiều tỉnh đã tăng lên gấp đôi
do trồng các giống sắn mới năng suất cao và áp dụng kỹ thuật canh tác sắn thích hợp,
bền vững.
Diện tích canh tác giống sắn mới toàn quốc hiện đạt trên 500.000 ha, chủ yếu
là các giống KM94, KM140, KM98-5, KM98-1, SM937-26, KM98-7.Sắn lát và tinh
bột sắn có lợi thế cạnh tranh cao và thị trường sắn là triển vọng. Sự kết hợp giữa phát
triển sản xuất và chế biến sắn làm tinh bột, thức ăn gia súc và làm cồn sinh học đã tạo
ra nhiều việc làm, tăng xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và góp phần vào công
nghiệp hóa, hiện đại hóa một số khu vực nông thôn.
Tại Việt Nam, cây sắn được coi là cây công nghiệp chính cung cấp nguồn
nhiên liệu cho sản xuất năng lượng sinh học. Bộ Công thương đã hoàn thiện việc quy

hoạch và phát triển vùng nguyên liệu cho năng lượng sinh học
() [3]. Khi chương trình NLSH của Nhà nước vận hành, các
nhà máy sản xuất ethanol sẽ tiêu thụ một khối lượng sắn rất lớn. Dự kiến năm 2012,
sản xuất ethanol sẽ tiêu thụ 16% sản lượng sắn, năm 2015 chiếm 35%, năm 2020
7
8
chiếm 41% và đến năm 2025 chiếm 48%. Các tính toán này dựa vào dự báo nhu cầu
xăng tăng 8,5%/năm, năm 2012 áp dụng E5, năm 2015 áp dụng E10, sản lượng sắn
tăng 5%/năm. Sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp NLSH làm thay đổi
kết cấu thị trường sắn Việt Nam theo hướng có lợi cho nông nghiệp và nông thôn
(Phạm Anh Tuấn) [5].
Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ hai về các sản phẩm sắn sau
Thái Lan với 2,00 - 4,00 triệu tấn sắn lát khô tương ứng khoảng 0,4 - 0,8 tấn tinh bột
sắn xuất khẩu. Đại lục Trung Quốc vẫn là nhà nhập khẩu sắn lớn nhất của Việt Nam
và chiếm 90% thu nhập xuất khẩu của ngành công nghiệp. Hàn Quốc và Đài Loan là
hai nước đứng thứ hai và thứ ba trong tốp các nhà nhập khẩu lớn nhất. Nhu cầu đã
tăng vọt, chủ yếu do nhu cầu từ Trung Quốc, trong đó sử dụng để sản xuất ethanol.
Tổng xuất khẩu trong năm 2009 khoảng 4.000.000 tấn sắn lát khô và hơn 350.000 tấn
tinh bột sắn và bột mì. Giá xuất khẩu sắn lát khô giảm xuống mức thấp 135$/tấn vào
đầu năm 2008, nhưng kể từ đó đã tăng lên từ 180$ và 195$/tấn trong cuối tháng 12
năm 2009 () [3].
2.2.3. Tình hình một số vùng trồng sắn chính ở nước ta
Năm 2010 diện tích trồng sắn nhiều nhất tập trung ở 7 tỉnh: Gia Lai (52,9
nghìn ha), Tây Ninh (40,1 nghìn ha), Kon Tum (37,7 nghìn ha), Đắk Lắc (25,3 nghìn
ha), Bình Thuận (25,7 nghìn ha), Bình Phước (20,4 nghìn ha), Đắc Nông và Đồng
Nai (14,8 nghìn ha). Về sản lượng sắn, dẫn đầu cả nước là Tây Ninh (14.150,7 nghìn
tấn), tiếp theo là Gia Lai (827,5 nghìn tấn), Kon Tum (563 nghìn tấn), Bình Phước
(462 nghìn tấn), Đồng Nai (357,4 nghìn tấn) () [3]. Cụ thể
tập trung ở 4 vùng trồng sắn chính sau:
- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ: Có diện tích sắn lớn nhất

cả nước, trong những năm qua nhờ có các chính sách mở cửa cho phép các tổ chức
liên doanh đầu tư xây dựng mới nhiều nhà máy chế biến tinh bột sắn và quy hoạch
vùng sản xuất sắn nguyên liệu nên diện tích sắn tăng mạnh trong những năm gần đây.
Năm 2010, diện tích sắn toàn vùng đạt 155 nghìn ha (chiếm 31,25% tổng diện tích
sắn toàn quốc), năng suất 168,2 tạ/ha, sản lượng 2,6 triệu tấn củ tươi (chiếm 30,6%
tổng sản lượng sắn toàn quốc) () [3]. Diện tích tập trung tại
một số tỉnh như: Thanh Hóa (vùng sắn huyện Như Xuân, Bá Phước, Quang Hóa,
Lang Chánh và huyện Thường Xuân), Nghệ An (vùng sắn huyện Thanh Chương,
Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong), Hà Tĩnh (vùng sắn huyện Kỳ Anh), Quảng Bình
(vùng sắn huyện Tuyên Hóa, Lệ Thủy), Quảng Trị (vùng sắn huyện Hương Hóa,
8
9
Vĩnh Linh, Hại Lăng, Cam Lộ), Thừa Thiên Huế (vùng sắn huyện Phú vang, Phong
Điền, A Lưới), Quảng Nam (vùng sắn huyện Quế Sơn, Thăng Bình, núi Thành),
Quảng Ngãi (vùng sắn huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Sơn Hà), Bình Định
(vùng sắn huyện Phù Cát, Tây Sơn, Vân Canh) và Phú Yên (vùng sắn huyện Đồng
Xuân, Sông Hinh và Tuy Hòa).
- Vùng Tây Nguyên: Có diện tích sắn lớn thứ 2 cả nước, với ưu thế về điều kiện
tự nhiên và con người, diện tích sắn liên tục tăng mạnh trong thời gian qua. Năm 2010,
diện tích sắn toàn vùng đạt 133,2 nghìn ha (chiếm 26,8% diện tích toàn quốc), năng
suất 163,6 tạ/ha, sản lượng ước đạt trên 2,2 triệu tấn củ tươi (chiếm 25,6% tổng sản
lượng sắn toàn quốc) () [3]. Diện tích tập trung tại một số tỉnh:
Kon Tum (vùng sắn huyện Đắk Tô, Đắk Hà, Ngọc Hồi và Sa Thầy), Gia Lai (vùng sắn
huyện An Khê, Măng Yang, Chư Prông, Krông Pa và Đức Cơ), Đắc Lắc (vùng sắn
huyện Ea Kar, MDrăk, Đăk Song, Đăk Lấp, Đăk Nông và Krông Bông).
- Vùng Đông Nam Bộ: là vùng có NSTB cao nhất toàn quốc, diện tích tăng liên
tục trong thời gian qua, đặc biệt từ năm 2000 đến nay do nhu cầu sắn nguyên liệu cho
các nhà máy chế biến tinh bột tăng cao, việc đầu tư thâm canh cây sắn đã mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn một số cây trồng khác trong cùng điều kiện như mía, lúa 1 vụ…,
người trồng sắn đã bắt đầu có tích lũy và làm giàu nhờ nghề trồng sắn. Năm 2010 diện

tích toàn vùng đạt 90,1 nghìn ha (chiếm 18,2% diện tích toàn quốc), năng suất 252,9
tạ/ha, sản lượng đạt gần 2,3 triệu tấn củ tươi (chiếm 26,8% tổng sản lượng toàn quốc)
() [3]. Diện tích tại một số tỉnh như: Tây Ninh (vùng sắn ở
huyện Tân Biên, Tân Châu, Dương Minh Châu và Châu Thành), Đồng Nai (vùng sắn ở
huyện Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Đông Phú, Phước Long, Lộc Ninh, Bù Đăng và Bình
Long), Bà Rịa - Vũng Tàu (vùng sắn huyện Xuyên Mộc), Bình Thuận (vùng sắn huyện
Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Hàm Tân và Đức Linh), Ninh
Thuận (vùng sắn ở huyện Bắc Ái).
- Vùng Trung du miền núi phía Bắc: có lịch sử phát triển cây sắn từ lâu đời, đây
là vùng có đầy đủ lợi thế về phát triển sắn, đã có thời điểm diện tích gieo trồng toàn
vùng chiếm tới gần 50% diện tích sản lượng cả nước, tuy nhiên vùng Trung du miền
núi phía Bắc phát triển chậm hơn so với vùng Đông Nam Bộ là do năng lực chế biến
phát triển chậm, đồng thời sản xuất sắn gặp nhiều điều kiện hạn chế do điều kiện khí
hậu, đất dốc, giao thông khó khăn. Năm 2010, diện tích toàn vùng đạt 104,6 nghìn ha
(chiếm 21% tổng diện tích sắn toàn quốc), năng suất đạt trên 120,5 tạ/ha, sản lượng
1,26 triệu tấn củ tươi (chiếm 14,8% tổng sản lượng sắn toàn quốc)
9
10
() [3]. Sắn được trồng trên các chân đất đồi có độ dốc trên 10
0
là chủ yếu và trồng theo vùng nguyên liệu, diện tích trồng tập trung chủ yếu tại các tỉnh
Yên Bái (vùng sắn Văn Yên, Yên Bình), Phú Thọ (vùng sắn Phù Ninh, Thanh Ba,
Thanh Sơn, Yên Lập), Hòa Bình (vùng sắn Lạc Sơn, Kim Bôi, Đà Bắc, Tân Lạc).
2.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CHỌN TẠO GIỐNG SẮN TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
2.3.1. Tình hình nghiên cứu sắn trên thế giới
Trước đây, sắn được coi là một cây màu lương thực vì vậy thường được phát
triển trên diện rộng. Sắn là cây trồng của người nghèo và được sản xuất bởi người
nông dân nghèo nên có thời gian sắn bị lãng quên ở cộng đồng các nước phát triển.
Đến năm 1970, với sự thành lập chương trình nghiên cứu sắn của CIAT ở tại

các nước Colombia và IITA (International institute for Tropical Agriculture) ở
Nigieria.
Trên thế giới, việc nghiên cứu giống sắn được thực hiện chủ yếu ở trung tâm
Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế - CIAT - Colombia, Viện Nông nghiệp nhiệt đới Quốc
tế - IITA - Nigieria cùng với các trường, viện nghiên cứu quốc gia ở những nước trồng
và tiêu thụ nhiều sắn. CIAT, IITA đã có những chương trình nghiên cứu rộng lớn
nhằm thu thập, nhập nội, chọn tạo và cải tiến giống sắn. Mục tiêu của chiến lược cải
tiến giống sắn được thay đổi tùy theo sự cần thiết và khả năng của từng chương trình
quốc gia đối với công tác tập huấn, phân phối nguồn vật liệu giống ban đầu đã được
điều tiết bởi các chuyên gia chọn tạo giống sắn của CIAT
( [16].
CIAT là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn đứng hàng đầu của thế giới. Hiện tại
CIAT cũng thu thập, bảo quản được 5.782 mẫu giống sắn và đăng ký tại FAO gồm
5.138 mẫu giống sắn thu thập tại vùng Nam Mỹ và Trung Mỹ, 24 mẫu giống sắn ở
Bắc Mỹ, 384 mẫu sắn lai của CIAT, 163 mẫu giống sắn vùng Châu Á, 19 mẫu giống
sắn vùng Châu Phi (Lường Văn Duy, 2007) [6]. Trong số 5.728 mẫu giống sắn này
có 35 loài sắn hoang dại được thu thập nhằm sử dụng lai tạo ra giống sắn kháng sâu
bệnh hoặc giàu protein. Nguồn gen giống sắn nêu trên đã được CIAT bảo tồn và đánh
giá cẩn thận về khả năng cho năng suất, giá trị dinh dưỡng, thời gian sinh trưởng, khả
năng chống chịu sâu bệnh hại cũng như thích ứng với sự thay đổi của môi trường. Từ
đó chọn ra những cặp bố mẹ phục vụ cho công tác cải tiến giống sắn để trao đổi, giữ
gen đối với các nước.
10
11
Tại Châu Mỹ Latinh, chương trình chọn tạo giống sắn của CIAT đã được phân
phối với CLYUCA và những chương trình sắn quốc gia của các nước Brazil, Colombia,
Mêhicô. Giới thiệu cho sản xuất ở các nước này những giống sắn tốt như: SM1433-4,
CM3435-3, SG337-2, CG489-31, MCo172, AM273-23, MBRA383. Do vậy đã góp
phần đưa năng suất và sản lượng sắn trong vùng tăng lên một cách đáng kể
( [16].

Ở Châu Phi, CIAT phối hợp cùng IITA và các nước Nigieria, Tanzania,
Mozabique, Angola, Uganda cùng nhiều tổ chức quốc tế như: FAO, IFAO, DDPSC,
OSU, Bill Gates Foundation để nghiên cứu nhằm phát triển các giống sắn mới ngắn
ngày, chất lượng cao (giàu Carotene, Vitamin, Protein) thích hợp ăn tươi và khả năng
kháng bệnh virut (một loại bệnh hại nghiêm trọng đối với cây sắn ở châu Phi) (Trần
Ngọc Ngoạn, 2007) [4].
Ở Châu Á, các nhà chọn tạo giống sắn tham dự hội thảo được tổ chức tại Thái
Lan vào tháng 11/1987 đã nhất trí xác định mục tiêu của các chương trình cải tiến
giống sắn quốc gia là chọn tạo ra những giống sắn có năng suất củ tươi và tỷ lệ tinh
bột cao nhằm đáp ứng nhu cầu chế biến công nghiệp. Mục tiêu cải tiến giống sắn của
những quốc gia (Ấn Độ, Inđônêxia, Srilanca) có nhu cầu cao về sử dụng sắn làm
lương thực là chọn tạo những giống sắn ngắn ngày có năng suất cao, chất lượng tốt,
hàm lượng axit Cyanhydric (HCN) trong củ thấp, thích hợp tiêu thụ tươi, dạng cây
đẹp, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận và sâu bệnh.
Tại Hội thảo sắn Quốc tế lần thứ tám tổ chức tại thủ đô Viên Chăn - Lào ngày
20-24 tháng 10 năm 2008, các nhà khoa học đã xác định tương lai mới cho sắn ở Châu
Á là làm thực phẩm, thức ăn gia súc và nhiên liệu sinh học có lợi cho người nghèo,
mục tiêu là chọn tạo được những giống mới đáp ứng được yêu cầu sử dụng củ và lá sắn
làm thức ăn gia súc, phát triển mới trong chế biến sắn, đặc biệt là làm nhiên liệu sinh
học, tinh bột, tinh bột biến tinh, màng phủ sinh học, công nghệ thực phẩm
( [16].
2.3.2. Tình hình nghiên cứu sắn ở Việt Nam
Chọn giống sắn tốt, năng suất cao phù hợp với đất đai và yêu cầu của sản xuất
lớn là việc làm cần thiết để phát huy những ưu điểm của giống. Nhưng trong điều
kiện sản xuất trên diện rộng nếu không có một kế hoạch chọn lọc bồi dưỡng giống
sắn thường xuyên thì sau một vài năm giống sắn tốt cũng dễ thoái hóa làm năng suất
giảm xuống. Thấy được tầm quan trọng của công tác chọn tạo giống sắn, các nhà
khoa học Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu chọn lọc các giống sắn mới để phục
vụ cho sản xuất.
11

12
Cây sắn được du nhập vào nước ta khoảng giữa thế kỳ 18 và có mặt ở miền
Nam trước, sau đó mới đưa ra trồng ở miền Bắc và hiện nay sắn được trồng rộng
khắp cả nước (Bùi Huy Đáp, 1987) [7].
Trước năm 1975 tại Viện khảo sát nông nghiệp Sài Gòn đã nhập nội, thu thập
và khảo sát nguồn gen giống sắn (Lê Xuân Hoa, 1962, 1964, 1968, 1972). Ở miền
Bắc, tác giả Đinh Văn Lữ cùng thực hiện một số thí nghiệm so sánh giống sắn và rút
ra một số kết luận về tập đoàn giống sắn.
Trong giai đoạn 1976 - 1990, tại Viện khoa học nông nghiệp miền Nam và
các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Hưng Lộc đã thu thập và đánh giá các giống
sắn địa phương. Kết quả đã chọn lọc và giới thiệu một số giống mới để đưa ra sản
xuất đại trà đó là HL23, HL24, HL20; những giống này có năng suất cao hơn giống
H34 và Mì Gòn địa phương (Nguyễn Xuân Hải và cộng sự, 1990) [8].
Tại miền Bắc từ 1980 - 1985, trường Đại học Nông Lâm Bắc Thái đã đánh giá
20 giống sắn địa phương và kết luận giống Xanh Vĩnh Phú là giống địa phương tốt
nhất miền Bắc (Trần Ngọc Ngoạn và Trần Văn Điền, 1992) [9].
Từ năm 1988, công tác nghiên cứu chọn giống sắn ở Việt Nam có quan hệ chặt
chẽ với CIAT. Trong suốt 18 năm (1988-2005), chương trình sắn của Việt Nam đã
phối hợp với CIAT chọn lọc và phát triển hai giống sắn mới là KM60 và KM94 ra
sản xuất. Đây là hai giống sắn có năng suất củ tươi cao (25 - 40 tấn/ha), có tỷ lệ tinh
bột cao (27 - 30%), thích hợp với chế biến tinh bột. Cũng từ năm 1993 trở lại đây
nhiều nhà máy chế biến tinh bột sắn được xây dựng, cây sắn đã chuyển sang hướng
sản xuất hàng hóa. Do đó các giống sắn mới đã và đang được phát triển mạnh ở hai
miền Nam - Bắc. Việc giới thiệu và phát triển hai giống sắn mới này vào sản xuất đã
là một bước đột phá mới trong nghề trồng sắn ở Việt Nam.
Với sự hợp tác của CIAT, chương trình sắn Việt Nam cũng đã tiến hành đánh
giá vào khoảng 30.000 hạt lai do CIAT/Colombia, CIAT/Thái giới thiệu và khoảng
7.000 hạt lai từ nguồn lai tạo trong nước. Hàng chục dòng triển vọng tiếp tục được
chọn ra từ nguồn vật liệu này như: KM98-1, KM98-5, KM95-3, KM98-7, KM140…
Trong số các dòng này, có những dòng rất có triển vọng vừa thích hợp chế biến, vừa

có thể sử dụng ăn tươi.
Trong giai đoạn 1991 - 2005, chương trình sắn Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với
CIAT, VEDAN và mạng lưới Nghiên cứu sắn Châu Á để đẩy mạnh hoạt động nghiên
cứu và phát triển sắn với mục tiêu là chọn tạo ra những giống sắn có năng suất củ tươi
và tỷ lệ tinh bột cao, phục vụ cho chế biến công nghiệp, đồng thời cũng tuyển chọn
được những giống sắn ngắn ngày, đa dạng, thích hợp cho cả chế biến công nghiệp
12
13
cũng như nhu cầu về lương thực ở vùng sâu, vùng xa. Do đó đã tạo được bước đột phá
quan trọng trong nghề trồng sắn của Việt Nam (Trần Ngọc Ngoạn và cộng sự, 2004)
[10].
Hiện nay mục tiêu của chương trình cải thiện di truyền sắn tại Việt Nam là:
- Tăng tiềm năng năng suất, hàm lượng chất khô và hàm lượng tinh bột.
- Rút ngắn thời gian thu hoạch.
- Xác định các giống có năng suất cao phù hợp với từng khu vực và vùng sinh
thái khác nhau nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các hệ thống canh tác nông hộ nhỏ.
- Lựa chọn giống sắn tốt nhất cho sản xuất ethanol sinh học
() [11].
Mà mục tiêu cụ thể của chương trình nhân giống sắn là: để chọn và phát hành
giống mới có năng suất cao từ 35-40 tấn/ha, hàm lượng tinh bột từ 27-30%, thời gian
sinh trưởng và phát triển từ 8-10 tháng, cây mọc thẳng đứng, đốt ngắn, ít phân nhánh,
tán nhỏ gọn, kích thước gốc, củ thống nhất và phù hợp cho chế biến công nghiệp
() [17].
Thực hiện mục tiêu trên hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về chọn
tạo giống đạt kết quả tốt, nhờ đó mà nhiều giống sắn mới được đưa vào sản xuất như
KM60, KM94, KM95, KM95-3, SM937-26, KM98-1, KM98-5, KM98-7, KM140 đã
thực sự mang lại lợi nhuận cao cho nông dân trên diện rộng, cho nên tạo được công
ăn việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa và miền núi, đồng
thời tăng sức cạnh tranh của tinh bột sắn xuất khẩu và các sản phẩm khác chế biến từ
sắn trên thị trường trong và ngoài nước () [11].

Những tiến bộ vượt bậc về công tác chọn tạo giống sắn trên thế giới và ở Việt
Nam đã khẳng định ý nghĩa quan trọng của phương pháp tuyển chọn giống sắn thích
hợp theo vùng khí hậu, đất đai và tạo nguồn vật liệu khởi đầu phong phú để tạo nên sự
đột phá về năng suất. Công tác thực nghiệm tuyển chọn giống sắn trên đồng ruộng chỉ
có kết quả khi bảo đảm vững chắc được cơ sở di truyền những tính trạng nông học.
Trong đó, năng suất củ tươi, chỉ số thu hoạch có hệ số di truyền cao; tỷ lệ chất khô, tỷ
lệ tinh bột có hệ số di truyền thấp và ít biến động bởi điều kiện môi trường (Trần Ngọc
Ngoạn, 1995) [12].
13
14
Phần 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG
Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng
của 16 dòng, giống sắn.
3.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Thời gian: Nghiên cứu từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 1 năm 2012.
- Địa điểm: Thí nghiệm được bố trí tại Trung tâm Thực hành Thực nghiệm
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Đặc điểm thời tiết khí hậu Thái Nguyên 2011
- Tỷ lệ mọc mầm và thời gian mọc mầm của các dòng, giống sắn.
- Tốc độ sinh trưởng của các dòng, giống sắn.
- Một số đặc điểm nông học của các dòng, giống sắn.
- Các yếu tố cấu thành năng suất
- Năng suất và chất lượng của các dòng, giống sắn.
- Hoạch toán hiệu quả kinh tế của các dòng, giống sắn.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm gồm 16 công thức bố trí theo phương pháp tuần tự , không có lần

nhắc lại.
- Diện tích mỗi ô: 5m x 9m = 45m
2
.
Tổng diện tích thí nghiệm: 45m x 16 = 720m
2
.
- Các công thức thí nghiệm gồm:
+ Công thức 1: Giống KM 94 (Đ/c) + Công thức 9: Dòng HL 32
+ Công thức 2: Giống KM 414 + Công thức 10: Dòng O35-8
+ Công thức 3: Giống KM 397 + Công thức 11: Dòng RAYONG-9
+ Công thức 4: Giống KM 440 + Công thức 12: Dòng HB-60
14
15
+ Công thức 5: Dòng KM 419 + Công thức 13: Dòng HM 911
+ Công thức 6: Dòng GM 444-2 + Công thức 14: Dòng HM 125
+ Công thức 7: Dòng DT 3 + Công thức 15: Dòng Y-1
+ Công thức 8: Dòng HL 28 + Công thức 16: Dòng CA-1
Sơ đồ thí nghiệm


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 1
5
16
3.4.2. Quy trình kỹ thuật thí nghiệm
- Theo hướng dẫn của CIAT (Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới quốc tế)
+ Làm đất: sâu, tơi xốp, sạch cỏ dại… đúng yêu cầu kỹ thuật đề ra.
+ Mật độ trồng: 1m x 1m tương đương 10.000 cây/ha.
+ Thời vụ: trồng vào tháng 3/2011 thu hoạch tháng 1/2012.
- Phân bón:

+ Lượng phân bón: 60 kg N + 40 kg P
2
O
5
+ 80 kg K
2
O/ha
+ Kỹ thuật bón phân:
Bón lót: 100% P
2
O
5
+ 1/3 N + 1/3 K
2
O
Bón thúc lần 1: Sau trồng 45 ngày với lượng 1/3N + 1/3 K
2
O kết hợp với
làm cỏ lần 1 và vun gốc.
Bón thúc lần 2: Sau trồng 120 ngày với lượng 1/3N + 1/3 K
2
O kết hợp
với làm cỏ và vun cao gốc.
3.4.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
* Theo dõi sự sinh trưởng của 16 dòng, giống sắn
+ Thời gian mọc mầm: Theo dõi từ khi trồng cho đến khi có trên 70% số hom
mọc mầm.
+ Tỷ lệ mọc mầm: Đếm số hom mọc mầm trên tổng số hom trồng.
+ Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây: Cố định bằng cọc 5 cây ngẫu nhiên theo
đường chéo góc/ô thí nghiệm, 10 ngày đo chiều cao cây 1 lần, lấy số liệu trung bình ở

mỗi giai đoạn sinh trưởng.
Dải bảo vệ
Dải
bảo
vệ
Dải bảo vệ
Dải
bảo
vệ
15
16
+ Tốc độ ra lá: Tiến hành trên 5 cây đã đo chiều cao, 10 ngày đếm số lá mới ra
1 lần, dùng phương pháp đánh dấu lá để biết số lá mới ra, lấy số liệu trung bình ở mỗi
giai đoạn sinh trưởng.
+ Tuổi thọ lá: Theo dõi 5 cây trên ô thí nghiệm theo phương pháp đánh dấu lá. Tuổi
thọ lá tính từ ngày lá non phát triển đầy đủ đến ngày lá già chuyển sang màu vàng, lấy số
liệu trung bình ở mỗi giai đoạn sinh trưởng.
+ Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của các dòng, giống sắn tham gia thí
nghiệm.
Theo dõi một lần trước khi thi hoạch vào tháng 1/2012, theo dõi 5 cây theo
đường chéo góc, đo đếm lấy số liệu trung bình.
- Chiều cao thân chính: Đo từ điểm gốc của cây đã được cố định bằng cọc đến điểm
phân cành đầu tiên.
- Chiều dài phân cành: Đo chiều dài các cấp cành.
- Chiều cao cuối cùng: Chiều dài thân chính + chiều dài phân cành.
- Chiều cao cây: Đo từ mặt đất đến ngọn lá chưa xòe.
- Đường kính gốc: Dùng thước kẹp pame đo cách gốc 15cm.
- Tổng số lá trên cây: Đếm tổng số lá (sẹo lá)/cây.
* Theo dõi các yếu tố cấu thành năng suất (đường kính củ,
chiều dài củ, số củ/gốc, khối lượng củ/gốc) và năng suất,

chất lượng của 16 dòng, giống sắn.
Theo dõi một lần khi thu hoạch vào tháng 1/2012
+ Chiều dài củ, đường kính củ: Phân thành 3 nhóm (dài, trung bình, ngắn) và
mỗi loại chọn 10 củ để đo chiều dài củ, đường kính củ. Sau đó lấy giá trị trung bình.
+ Số củ/gốc: Tổng số củ/tổng số cây thu hoạch trong mỗi ô thí nghiệm.
+ Khối lượng củ/gốc: Cân khối lượng củ thu hoạch trong toàn ô thí
nghiệm/tổng số cây thu hoạch.
+ Năng suất củ tươi (NSCT) = Khối lượng trung bình của 1 gốc x mật độ
cây/ha.
+ Năng suất thân lá (NSTL) = Khối lượng trung bình của 1 cây x mật độ
cây/ha.
+ Năng suất sinh vật học (NSSVH) = Năng suất củ tươi + Năng suất thân lá.
16
17
+ Tỷ lệ chất khô (TLCK): xác định theo phương pháp khối lượng riêng của
CIAT, mỗi ô thí nghiệm khi thu hoạch lấy 5kg củ tươi cân trong không khí sau đó
đem cân trong nước bằng cân Reinman rồi áp dụng công thức sau:
Y =
A
x 158,3 - 142,0
A - B
Trong đó: Y: tỉ lệ chất khô
A: khối lượng củ tươi cân trong không khí (g)
B: khối lượng củ tươi cân trong nước (g)
+ Tỷ lệ tinh bột (TLTB): Được xác định bằng cân Reinman của CIAT
+ Hệ số thu hoạch:
HSTH =
NSCT
x 100(%)
NSSVH

+ Năng suất củ khô (NSCK):
NSCK = NSCT x TLCK (tấn/ha)
+ Năng suất tinh bột (NSTB):
NSTB = NSCT x TLTB (tấn/ha)
* So sánh hiệu quả kinh tế của các công thức thí nghiệm.
3.4.4. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu
- Tính các giá trị trung bình và một số thống kê cơ bản bằng chương trình phần mềm
trong bảng Excel.
17
18
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. ĐẶC ĐIỂM THỜI TIẾT KHÍ HẬU THÁI NGUYÊN NĂM 2011
So với nhiều loại cây trồng khác thì cây sắn là loại cây trồng tương đối dễ tính.
Nó có thể sinh trưởng, phát triển ở các điều kiện thời tiết khí hậu khác nhau. Tuy
nhiên để đảm bảo được năng suất và phẩm chất thì cây sắn cũng yêu cầu điều kiện
khí hậu khá khắt khe. Bởi vì cây sắn là cây khá mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh
nhất là về sự phát triển của bộ phận kinh tế (củ). Đặc biệt trong giai đoạn hình thành
và phát triển củ cây sắn cần nhiệt độ cao và số giờ chiếu sáng nhiều từ 8h/ngày trở
lên.
- Yếu tố nhiệt độ:
Do có nguồn gốc nhiệt đới nên cây sắn yêu cầu nhiệt độ cao, nhiệt độ thích hợp
cho cây sinh trưởng phát triển tốt từ 23 - 27
0
C. Ngưỡng nhiệt độ để cây sắn sinh
trưởng phát triển từ 10 - 40
0
C. Nếu nằm ngoài ngưỡng nhiệt độ này sẽ ảnh hưởng
không tốt tới quá trình quang hợp và hô hấp, năng suất và phẩm chất của cây sắn.
Đây cũng là lí do vì sao mà tại các vùng sinh thái khác nhau cây sắn có thời

gian sinh trưởng khác nhau.
- Yếu tố ánh sáng:
Sắn là cây trồng có khả năng tích lũy đường, bột mạnh hơn nhiều so với cây
trồng khác do vậy nó rất cần ánh sáng. Nếu cường độ chiếu sáng thấp và số giờ chiếu
sáng ngắn thì chỉ số diện tích lá thấp, thân cây nhỏ dẫn đến quá trình phân hóa và
hình thành củ kém.
- Yếu tố nước:
Mặc dù sắn là cây trồng ưa khô và có khả năng chịu hạn nhưng để cây cho
năng suất cao thì cũng cần phải đủ độ ẩm cần thiết. Lượng mưa trung bình năm thích
hợp đối với sắn trong khoảng 1000 - 2000mm.
Giai đoạn sinh trưởng khác nhau, giai đoạn phát triển thân lá nhu cầu về nước
tăng lên, còn giai đoạn phình to củ và tích lũy tinh bột nhu cầu về nước giảm vì nhiều
nước ở giai đoạn này thì tỉ lệ tinh bột trong củ sẽ giảm.
Đặc điểm khí hậu thời tiết của Thái Nguyên năm 2010 được thể hiện qua bảng
sau :
Bảng 4.1. Bảng thời tiết khí hậu năm 2011 tại Thái Nguyên
Yếu tố
Tháng
Nhiệt độ trung
bình (
0
C)
Ẩm độ không khí
trung bình (%)
Tổng lượng
mưa (mm)
Tổng số giờ
nắng (giờ)
18
19

1 11,9 73 4,4 10,4
2 17,3 82 10,8 32
3 16,7 80 93,3 10
4 23,4 83 30,1 49,2
5 26,3 80 226,3 137
6 28,7 84 237,5 132,1
7 29,5 80 144 181,8
8 28,5 82 268 183,2
9 27,1 83 284,7 143,1
10 24 81 103,8 93
11 22,9 79 4,3 137
12 16,8 68 5,2 95
(Nguồn: Trạm khí tượng thủy văn Tỉnh Thái Nguyên 2011)
Qua bảng số liệu 4.1 ta thấy tình hình khí hậu trong năm biến đổi thuận lợi cho
sự sinh trưởng phát triển của sắn:
- Thời gian trồng sắn vào ngày 31/3 mà tháng 3 và tháng 4 có nhiệt độ trung
bình 16,7
0
C - 23,4
0
C, ẩm độ trung bình 80% - 83% thuận lợi cho hom sắn mọc mầm.
- Từ tháng 5 đến tháng 9 nhiệt độ trung bình từ 26,3
0
C - 27,1
0
C cao nhất là
tháng 7 là 29,5
0
C, lượng mưa dao động từ 226,3mm - 284,7mm và cao nhất đạt đến
284,7mm ở tháng 9, số giờ nắng cũng đạt cực đại trong giai đoạn này thuận lợi cho

sự sinh trưởng thân lá và tích luỹ dinh dưỡng cho cây sắn.
- Tháng 10 và tháng 11 nhiệt độ giảm dần, tháng 10 nhiệt độ trung bình là 24
0
C,
tháng 11 là 22,9
0
C. Theo đó ẩm độ, lượng mưa và số giờ nắng cũng giảm. Đây là
điều kiện thuận lợi cho việc tích luỹ dinh dưỡng vào củ.
Nhìn chung điều kiện thời tiết trong năm phù hợp cho sự sinh trưởng phát triển
của cây sắn.
4.2. TỶ LỆ MỌC MẦM VÀ THỜI GIAN MỌC MẦM CỦA CÁC DÒNG,
GIỐNG SẮN
Trong công tác chọn tạo giống cây trồng nói chung và chọn lọc giống sắn nói
riêng đều được tiến hành trên đồng ruộng ở trong một điều kiện nhất định bằng cách
đo đếm các tính trạng nông học.
Thời kỳ mọc mầm, quá trình hô hấp diễn ra mạnh, có sự chuyển hóa chất dinh
dưỡng trong hom từ phức tạp thành đơn giản để hình thành mầm và rễ sắn, phụ thuộc
vào 2 yếu tố là khí hậu và chất lượng hom giống.
Thông thường vào vụ trồng, sau khi đặt hom từ 5 - 17 ngày sắn bắt đầu mọc
mầm. Nếu thời vụ trồng không hợp lý (điều kiện khí hậu không thuận lợi như nhiệt
độ thấp, thiếu ẩm) ảnh hưởng rõ rệt đến thời gian mọc mầm ra rễ, tỷ lệ mọc mầm
19
20
không đảm bảo và chất lượng kém, từ đó ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây sắn sau
này.
Theo dõi về tỷ lệ mọc mầm, thời gian từ trồng đến khi bắt đầu mọc và kết thúc
mọc mầm của các dòng, giống sắn thu được kết quả ở bảng 4.2.
Bảng 4.2. Tỷ lệ mọc mầm và thời gian mọc mầm của 16 dòng, giống sắn tham
gia thí nghiệm
Công thức

thí nghiệm
Tên dòng, giống
Tỷ lệ mọc mầm
(%)
Thời gian từ trồng đến
mọc mầm (ngày)
Bắt đầu Kết thúc
1 KM94 (đ/c) 99 14 19
2 KM 414 98 13 17
3 KM 397 100 17 20
4 KM 440 100 13 18
5 KM 419 97 16 19
6 GM 444-2 98 15 19
7 DT 3 98 14 18
8 HL 28 99 14 19
9 HL 32 98 16 20
10 OMR 35-8 100 16 20
11 RAYONG-9 100 13 18
12 HB-60 97 13 17
13 HM 911 99 12 17
14 HM 125 100 14 18
15 Y - 1 100 15 20
16 CA - 1 100 17 20
Số liệu ở bảng 4.2 cho ta thấy:
+ Thời gian từ trồng đến bắt đầu mọc mầm của các dòng, giống sắn dao động từ
12 - 17 ngày, trong đó dòng HM 125 có thời gian từ trồng đến mọc sớm nhất (12 ngày),
dài nhất (17 ngày) đối với giống KM 94 và KM 440.
+ Thời gian từ trồng đến kết thúc mọc mầm giữa các dòng, giống than gia thí
nghiệm khác nhau và dao động từ 17 - 20 ngày, sớm nhất là dòng HM 125, HM 911
và giống KM 397 (17 ngày), muộn nhất là giống KM 440, KM 94, dòng OMR 35-8,

RAYONG-9, CA-1 (20 ngày).
+ Tỷ lệ mọc mầm của các giống khá cao từ 97 - 100%.
Như vậy trong cùng một thời vụ trồng, điều kiện tự nhiên, mật độ trồng và chế độ
dinh dưỡng, chăm sóc như nhau nhưng tỷ lệ mọc mầm, thời gian bắt đầu và kết thúc
mọc mầm của các dòng, giống là khác nhau. Đó là do đặc điểm của từng dòng, giống
quyết định đến các chỉ tiêu khác nhau.
20
21
4.3. TỐC ĐỘ SINH TRƯỞNG CỦA CÁC DÒNG, GIỐNG SẮN
Sinh trưởng là sự tăng lên về kích thước và khối lượng của cây trồng. Do vậy
theo dõi tốc độ tăng trưởng của các dòng, giống sắn chủ yếu thông qua hai chỉ tiêu là
chiều cao cây và tốc độ ra lá
Sự khác nhau giữa sắn và cây trồng khác ở đặc điểm sau:
- Thứ nhất: Bộ phận thu hoạch chính nằm ở dưới đất là củ được hình thành từ
phần gỗ, đặc biệt là các rễ mọc tự nhiên được phát triển thành củ.
- Thứ hai: Cây sắn phát triển thân lá và tích lũy tinh bột vào củ cùng thời kỳ.
Như vậy sản phẩm quang hợp được phân phối cho sự phát triển thân lá và củ. Sự phát
triển thân lá là biểu hiện của quá trình đồng hóa, các yếu tố của điều kiện sống là biểu
thị khả năng thích ứng cụ thể của các dòng, giống. Dựa vào đặc điểm này cần có tác
động thích hợp vào các biện pháp kỹ thuật vào cây sắn nhằm đạt được năng suất cao
theo ý muốn. Việc theo dõi đánh giá tốc độ sinh trưởng của thân, lá của các dòng,
giống là chỉ tiêu quan trọng giúp chúng ta đánh giá tiềm năng năng suất của các dòng,
giống sắn. Đây là một chỉ tiêu quan trọng trong công tác chọn tạo giống.
4.3.1. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của các dòng, giống sắn
Sắn thuộc loại cây hai lá mầm, dạng thân gỗ, sự sinh trưởng của cây sắn phụ
thuộc vào hoạt động của mô phân sinh đỉnh và mô phân sinh tượng tầng. Chiều cao
cây sắn quyết định bởi mô phân sinh đỉnh và nó chịu ảnh hưởng khá nhiều của các
yếu tố: Giống, điều kiện canh tác, điều kiện ánh sáng. Nếu chăm sóc tốt cây sinh
trưởng nhanh và ngược lại trồng mật độ quá dày cây thiếu ánh sáng để quang hợp cây
sẽ rất cao và nhỏ. Trong cùng một điều kiện sống: chăm sóc, bón phân, mật độ như

nhau thì chiều cao của cây sắn được quyết định bởi giống. Chiều cao cây ảnh hưởng
gián tiếp đến năng suất và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chống đổ của cây. Cây
cao số lá nhiều thuận lợi cho quá trình quang hợp tích lũy vật chất khô. Nếu quá cao
các lá che lấp nhau ảnh hưởng đến quang hợp, khả năng chống đổ kém, không có
nhiều chất hữu cơ chuyển về củ, củ sẽ bé, năng suất thấp. Do vậy trong chọn tạo
giống sắn cần chọn tạo giống sắn có chiều cao trung bình để vừa chọn tạo được khả
năng quang hợp vừa có khả năng chống đổ tốt. Kết quả theo dõi sinh trưởng chiều
cao cây của 16 dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm được thể hiện ở bảng 4.3
Bảng 4.3. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của 16 dòng, giống sắn
tham gia thí nghiệm
(Đơn vị tính: cm/ngày)
Công thức Tên dòng, giống Tháng sau trồng
21
22
4 5 6 7
1 KM 94(đ/c) 0,85 0,81 0,86 0,82
2 KM 414 0,80 0,82 0,83 0,78
3 KM 397 0,68 0,86 0,94 0,89
4 KM 440 0,78 0,88 0,95 0,94
5 KM 419 0,91 0,96 0,98 0,92
6 GM 444-2 1,06 1,13 1,18 1,12
7 DT 3 1,02 1,04 1,03 0,95
8 HL 28 1,03 1,07 1,13 1,09
9 HL 32 0,86 0,93 0,97 0,94
10 OMR 35-8 0,88 0,98 1,02 1,00
11 RAYONG-9 0,86 1,00 1,08 1,08
12 HB-60 0,91 1,01 1,10 1,14
13 HM 911 0,99 1,14 1,22 1,20
14 HM 125 0,91 1,01 1,04 0,99
15 Y - 1 1,11 1,16 1,18 1,09

16 CA - 1 1,01 1,09 1,16 1,14
Qua số liệu ở bảng 4.3 ta thấy:
- Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của các dòng, giống sắn có sự khác nhau,
nhưng mức độ chênh lệch không đáng kể.
- Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây tăng dần từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6 sau
trồng.
- Ở tháng thứ 4 sau trồng: Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của dòng Y-1 đạt
giá trị cao nhất 1,11cm/ngày, cao hơn so với giống đối chứng KM 94 là 0,26cm/ngày.
Giống KM 397 có tốc độ tăng trưởng đạt thấp nhất 0,68cm/ngày thấp hơn so với
giống đối chứng KM 94 0,17cm/ngày.
- Ở tháng thứ 5 sau trồng: Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây dao động từ
0,81cm/ngày đến 1,16cm/ngày. Dòng Y-1 có tốc độ tăng trưởng chiều cao cây cao nhất
đạt 1,16cm/ngày cao hơn giống đối chứng KM94 0,35cm/ngày. Các dòng, giống sắn còn
lại đều có tốc độ tăng trưởng chiều cao cây cao hơn giống đối chứng KM 94 dao động từ
0,01cm/ngày đến 0,33cm/ngày. Giống đối chứng KM 94 có tốc độ tăng trưởng chiều
cao cây đạt thấp nhất 0,81cm/ngày.
- Ở tháng thứ 6 sau trồng: Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây dao động từ
0,83cm/ngày đến 1,22cm/ngày. Ở tháng này sự tăng trưởng của các cây đạt cực đại.
Trong đó dòng HM 911 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 1,22cm/ngày cao hơn so
với giống đối chứng KM 94 0,36cm/ngày. Giống KM 414 có tốc độ tăng trưởng thấp
nhất đạt 0,83cm/ngày thấp hơn so với giống đối chứng KM 94 0,03cm/ngày. Các
22
23
dòng, giống sắn còn lại đều có tốc độ tăng trưởng chiều cao cây lớn hơn so với giống
đối chứng KM 94.
- Ở tháng thứ 7 sau trồng: Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây giảm dần và hầu như
không thay đổi ở những tháng của giai đoạn cuối. Có thể nói đây là giai đoạn hoàn tất
lượng vật chất hữu cơ tổng hợp về cơ quan kinh tế để chuẩn bị cho thời kỳ thu hoạch,
đồng thời giảm thiểu lượng dinh dưỡng trong thân lá.
4.3.2. Tốc độ ra lá của các dòng, giống sắn

- Sự tăng trưởng chiều cao cây và quá trình ra lá mới diễn ra đồng thời, chúng
tỷ lệ thuận với nhau.
- Lá có vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp, tích lũy và vận chuyển
các chất đồng hóa đi nuôi các bộ phận khác của cây. Tốc độ ra lá có liên quan đến
tổng diện tích lá, khả năng quang hợp và quá trình tích lũy vật chất khô của cây, do
đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, phẩm chất củ. Tốc độ ra lá nhanh thì cây
sẽ nhanh chóng đạt được chỉ số diện tích lá cao, quang hợp diễn ra mạnh tạo điều
kiện cho việc hình thành năng suất củ. Nếu tốc độ ra lá chậm thì chỉ số diện tích lá
trên cây thấp, khả năng quang hợp của cây kém, cây sinh trưởng còi cọc dẫn đến
năng suất thấp và chất lượng kém. Tốc độ ra lá phản ánh tình hình sinh trưởng, đặc
tính của giống, sự thích ứng của giống với điều kiện sinh thái và kỹ thuật canh tác.
Quá trình ra lá của cây sắn diễn ra đồng thời với quá trình tích lũy vật chất khô vào
củ. Vì vậy tốc độ ra lá quá cao, dinh dưỡng tập trung cho quá trình hình thành thân
lá nhiều sẽ giảm lượng dinh dưỡng tập trung về củ cho củ bé và nhiều xơ. Kết quả
theo dõi tốc độ ra lá của 16 dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm được thể hiện ở
bảng 4.4.
Bảng 4.4. Tốc độ ra lá của 16 dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm
Đơn vị tính: Lá/ngày
Công thức Tên dòng, giống
Tháng sau trồng
4 5 6 7
1 KM 94(đ/c) 1,04 0,81 0,59 0,49
2 KM 414 1,10 1,05 0,70 0,50
3 KM 397 1,06 1,10 0,79 0,69
4 KM 440 1,08 1,25 0,93 0,77
5 KM 419 1,16 1,14 0,82 0,60
6 GM 444-2 1,16 1,11 0,81 0,65
7 DT 3 0,96 0,94 0,60 0,47
8 HL 28 1,24 1,06 0,83 0,70
9 HL 32 1,16 0,93 0,75 0,62

10 OMR 35-8 1,18 1,09 0,82 0,77
23
24
11 RAYONG-9 1,12 1,03 0,82 0,73
12 HB-60 1,32 1,35 1,05 0,95
13 HM 911 1,22 1,19 0,89 0,65
14 HM 125 1,48 1,51 1,09 0,80
15 Y - 1 1,36 1,01 0,69 0,57
16 CA - 1 1,20 1,10 0,93 0,75
Qua bảng số liệu 4.4 cho ta thấy:
- Ở tháng thứ 4 sau trồng: Tốc độ ra lá của các dòng, giống sắn đạt cực đại, dao
động từ 0,96 lá/ngày đến 1,48 lá/ngày. Trong đó dòng HM 125 có tốc độ ra lá cao
nhất đạt 1,48 lá/ngày cao hơn giống đối chứng KM 94 là 0,44 lá/ngày. Dòng DT 3 có
tốc độ ra lá thấp nhất đạt 0,96 lá/ngày thấp hơn giống đối chứng KM 94 0,08 lá/ngày.
Các dòng, giống sắn còn lại đều có tốc độ ra lá cao hơn giống đối chứng KM 94 từ
0,02 lá/ngày đến 0,32 lá/ngày.
- Ở tháng thứ 5 và 6 sau trồng: Dòng đạt cực đại là HM 125 1,51 lá/ngày
(tháng 5) và 1,09 lá/ngày (tháng 6) sau trồng cao hơn giống đối chứng KM 94 lần
lượt là 0,5 lá/ngày và 0,7 lá/ngày. Giống đối chứng KM 94 có tốc độ ra lá thấp nhất
so với các dòng, giống tham gia thí nghiệm 0,81 lá/ngày (tháng thứ 5 sau trồng) và
0,51 lá/ngày (tháng thứ 6 sau trồng).
- Ở tháng thứ 7 sau trồng: Tốc độ ra lá của các dòng, giống sắn đều giảm đáng
kể. Dòng HB-60 có tốc độ ra lá cao nhất đạt 0,95 lá/ngày. Dòng DT 3 có tốc độ ra lá
thấp nhất đạt 0,47 lá/ngày, thấp hơn giống đối chứng KM 94 0,02 lá/ngày. Đây là giai
đoạn cây bắt đầu ngừng sinh trưởng nên tốc độ ra lá của các dòng, giống sắn hầu như
không còn nữa.
4.3.3. Tuổi thọ lá của các dòng, giống sắn
Ngoài hai chỉ tiêu trên là chiều cao cây và tốc độ lá ảnh hưởng đến năng suất
của cây sắn thì tuổi thọ lá cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng
và năng suất sắn. Tuổi thọ lá phản ánh khả năng cung cấp vật chất khô cho bộ phận

thu hoạch của cây, là cơ sở quyết định đến năng suất, chất lượng sắn. Tuổi thọ lá dài
hay ngắn phụ thuộc vào giống và chịu tác động của các yếu tố như ánh sáng, lượng
mưa và nhiệt độ. Kết quả theo dõi thu được thể hiện ở bảng 4.5.
Bảng 4.5. Tuổi thọ lá của 16 dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm
Đơn vị tính: Ngày
Công thức Tên dòng, giống
Tháng sau trồng
4 5 6 7
1 KM 94(đ/c) 72,4 72,93 84,60 70,30
2 KM 414 86,4 69,27 86,60 73,00
3 KM 397 82,6 79,93 90,60 73,60
4 KM 440 84,6 84,33 84,47 67,00
24
25
5 KM 419 86,8 87,87 94,27 75,80
6 GM 444-2 81,60 86,93 99,33 66,40
7 DT 3 80,00 85,87 97,93 74,93
8 HL 28 77,60 80,73 102,20 77,67
9 HL 32 82,40 84,80 101,53 75,33
10 OMR 35-8 111,00 96,60 103,53 73,73
11 RAYONG-9 99,00 98,20 101,60 72,00
12 HB-60 94,00 99,60 102,53 72,13
13 HM 911 77,80 75,80 89,93 69,40
14 HM 125 87,60 66,80 90,47 63,93
15 Y - 1 91,60 80,07 89,53 69,20
16 CA - 1 87,00 80,47 94,13 73,33
Qua bảng số liệu 4.5 ta thấy:
- Tuổi thọ lá của các dòng, giống sắn là khác nhau và không đồng đều giữa các
tháng. Tất cả các dòng, giống sắn tham gia thí nghiệm đều có tuổi thọ lá đạt cực đại
vào tháng 6 sau trồng và sau đó giảm dần.

- Ở tháng thứ 4 sau trồng: Tuổi thọ lá của các dòng, giống sắn dao động từ
72,4 ngày - 111 ngày. Trong đó dòng OMR 35-8 có tuổi thọ lá cao nhất đạt 111
ngày cao hơn giống đối chứng KM 94 là 38,6 ngày. Tiếp theo là dòng RAYONG-9
có tuổi thọ lá đạt 99 ngày cao hơn giống đối chứng KM 94 là 26,6 ngày. Giống đối
chứng KM 94 có tuổi thọ lá thấp nhất đạt 72,4 ngày. Các dòng, giống sắn còn lại
đều có tuổi thọ lá cao hơn giống đối chứng KM 94.
- Ở tháng thứ 5 sau trồng: Dòng HB-60 có tuổi thọ lá cao nhất đạt 99,6 ngày cao
hơn giống đối chứng KM 94 là 26,67 ngày. Dòng HM 125 và giống KM 414 có tuổi thọ
lá thấp nhất và thấp hơn giống đối chứng KM 94. Các dòng, giống sắn còn lại đều có
tuổi thọ lá cao hơn giống đối chứng KM 94.
- Ở tháng thứ 6 sau trồng: Ở tháng này, tuổi thọ lá của các dòng, giống sắn đều đạt
giá trị cao nhất. Dòng HL 28 có tuổi thọ lá cao nhất đạt 102,2 ngày cao hơn giống đối
chứng KM 94 là 17,6 ngày. Giống KM 440 có tuổi thọ lá thấp nhất và thấp hơn giống
đối chứng KM 94 là 0,13 ngày. Các dòng, giống sắn còn lại đều có tuổi thọ lá cao hơn
giống đối chứng KM 94.
Nhìn chung, các tháng tiếp theo tuổi thọ lá của các dòng, giống sắn liên tục
giảm. Điều này hoàn toàn phù hợp trong giai đoạn sinh trưởng thân lá giảm để tập
25

×