Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN về nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA sự PHÁT TRIỂN của THÀNH PHẦN KINH tế NHÀ nước TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.18 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN

ĐỀ TÀI
LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA

LỚP: L10 NHÓM: 23
HK213
GVHD: THS. NGUYỄN TRUNG HIẾU

SINH VIÊN THỰC HIỆN
ST
T
1
2
3
4
5

MSSV
2113590
2110225
2113954
2114195


2114259

HỌ
Phạm Minh
Nguyễn Quốc
Đinh Thiên Phước
Nguyễn Quốc
Đoàn Minh

TÊN

% ĐIỂM
BTL

Hùng
Hưng
Lộc
Ngọ
Nhân

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM HỌC 2021 -2022

ĐIỂM
BTL

GHI
CHÚ


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM


STT

Mã số SV

Họ và tên

1

2113590

Phạm Minh Hùng

2

2110225

Nguyễn Quốc Hưng

3

2113954

Đinh Thiên Phước
Lộc

4

2114195


Nguyễn Quốc Ngọ

5

2114259

Đoàn Minh Nhân

Nhiệm vụ được
phân cơng

%
Điểm
BTL

Điểm
BTL

Ký tên

Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Quốc Hưng
Số ĐT: 0819090503 Email:
Nhận xét của GV:
............................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN
(Ký và ghi rõ họ, tên)


Nguyễn Trung Hiếu

NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................4
3. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................4
5. Kết cấu của đề tài................................................................................................4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM..............................................................................4
1.1. Các khái niệm cơ bản.......................................................................................4
1.2. Tính tất yếu khách quan của phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.....................................................................................4
1.3. Những đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở
Việt Nam....................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA................................................................................................................. 4
2.1. Khái quát về thành phần kinh tế nhà nước....................................................4
2.2. Thực trạng phát triển của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta.............4
2.3. Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của thành phần
kinh tế nhà nước ở nước ta trong thời gian tới..........................................................5
KẾT LUẬN..................................................................................................................5
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................5



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Các nền kinh tế thị trường trên những quốc gia khác nhau đều tuân theo các quy
luật của thị trường dù hoàn hảo đến đâu nhưng cũng đều cịn những thiếu sót, khuyết
tật. Chính vì vậy, trong thực tế khơng tồn tại một nền kinh tế thị trường thuần túy, mà
thường có sự can thiệp của Nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị
trường. Mỗi quốc gia có những mơ hình kinh tế thị trường khác nhau phù hợp với điều
kiện của quốc gia đó, phản ánh điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia đó. Việt Nam ta là một đất nước đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và để đạt được điều đó thì “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ
hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam” 1để hướng tới từng
bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Một nền kinh tế tuân theo quy luật thị trường muốn ổn định, bền vững, khơng đổ
vỡ thì phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
Do đó, kinh tế nhà nước – chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là
đại diện là một trong những công cụ mạnh mẽ của nhà nước phải đóng vai trị chủ đạo
để quản lí vĩ mơ giúp khắc phục những khuyết tật tất yếu của nền kinh tế thị trường.
Theo “đại hội X của Đảng khẳng định về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế,
tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân””2

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


1 PGS, TS. Đặng Quang Định, (18/07/2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Truy cập từ />2 TS. Phạm Việt Dũng, (29/12/2019), Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Truy cập từ
/>

Là những khái niệm, nội dung trong lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những thực trạng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta như những thành tựu, mặt hạn chế và phương hướng
phát triển.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu rõ, bản chất những khái niệm cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa như thế nào là nền kinh tế thị trường, thế nào là định hướng xã
hội chủ nghĩa, thế nào là kinh tế nhà nước để phục vụ cho việc phân tích những mặt ưu
điểm, khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường hiện tại để đưa ra phương hướng mới
cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với bối cảnh xã hội
hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận bao gồm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nghiên cứu tổng quan các mặt, các mối liên hệ có tác động qua lại giữa nền kinh tế và
sự định hướng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, thơng qua nguồn tài liệu dồi dào từ
Internet, sách, báo, tạp chí, giáo trình, … ta có thể nghiên cứu, tìm tịi và phân tích để
chọn lọc ra những kiến thức để tổng hợp đưa vào chủ đề nghiên cứu.

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Chương 2: Sự phát triển của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.



CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Các khái niệm cơ bản
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được
thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội
mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Một hệ giá trị toàn diện gồm cả dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh là hệ giá trị của xã hội tương lai mà lồi người cần phải phấn đấu mới có thể đạt
được một cách đầy đủ trên hiện thực xã hội. Nền kinh tế thị trường mà trong các hoạt
động kinh tế của các chủ thể, hướng tới góp phần xác lập được các giá trị xã hội thực
tế với hệ giá trị toàn diện như vậy là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.

1.2. Tính tất yếu khách quan của phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu ở Việt Nam
xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với
xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi có
đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Sự
phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh
tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và phát



triển kinh tế thị trường đang tồn tại khách quan. Do đó, sự hình thành kinh tế thị
trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mong muốn
chung của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc định hướng hướng tới xác lập những
giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong phát
triển.
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển Việt Nam
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương thức
phân bổ nguồn lực hiệu quả mà lồi người đã đạt được so với các mơ hình kinh tế phi
thị trường. Kinh tế thị trường ln là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường, nền kinh tế luôn phát
triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Xét trên góc độ đó, sự phát triển
của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng
mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của người dân Việt
Nam.
Trên thế giới có nhiều mơ hình kinh tế thị trường, nhưng nếu việc phát triển mà
dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước không mạnh, thiếu dân chủ, kém văn minh thì
khơng quốc gia nào mong muốn. Vì vậy, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa
khát vọng đó, thực hiện kinh tế thị trường, trong đó hướng tới những giá trị mới, do
đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu khách
quan, là sự cần thiết cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước, bởi lẽ sự tồn tại
hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội khách
quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,

những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa như: phân cơng lao


động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất không hề
mất đi, do đó, việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải được thực hiện thông qua
thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính chất tự
cấp, tự túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển
ngành, nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật cơng nghệ mới bảo đảm tăng năng suất lao
động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hành hóa, dịch vụ góp phần từng bước
cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở
rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngồi; khuyến khích
tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bổ và sử dụng
các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm… Điều này phù hợp với khát vọng của
người dân Việt Nam.

1.3. Những đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Về mục tiêu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng tới phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Mục tiêu này bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục tiêu chính trị - xã hội mà nhân dân ta đang phấn
đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế: Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng
phát triển theo pháp luật.

“Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ khi tiến hành đổi mới


đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở hữu
về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.”3
Về quan hệ quản lí nền kinh tế: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chịu sự làm chủ và giám sát của nhân dân.
Đảng lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua
cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn
trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua
pháp luật, các chiến lực, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế, chính sách cùng các công cụ
kinh tế trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhà nước chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường để phát triển đồng bộ
các loại thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế phát huy mọi nguồn lực để
mở mang kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, có trật tự, kỷ cương. Cùng với
đó thơng qua cơ chế, chính sách và các cơng cụ quản lý kinh tế, Nhà nước tác động
vào thị trường nhằm bảo đảm tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô; khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường, khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu,
khủng hoảng tài chính – tiền tệ, thảm họa thiên tai, nhân tai …
Về quan hệ phân phối: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thực hiện phân phối công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ
hội và điều kiện phát triển của mọi chủ thể kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây
dựng xã hội mọi người đều giàu có, đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với
3 PGS, TS. Đặng Quang Định, (18/07/2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Truy cập từ />

công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội; thực hiện
tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường.
Ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế đều hướng đến mục tiêu phát triển
xã hội và mỗi chính sách xa hội cũng nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
phải coi đầu tư cho các vấn đề xã hội (giáo dục, văn hóa, y tế, thể dục, thể thao…) là
đầu tư cho sự phát triển bền vững. Không đợi tới khi có nền kinh tế phát triển cao mới
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, và càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng
xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Ngày nay, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta không chỉ dựa vào chính sách
điều tiết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo ra những điều
kiện, tiền đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế, việc làm … để họ có thể tự
lo liệu và cải thiện đời sống của bản thân. Gia đình, đồng thời góp phần xây dựng đất
nước.


CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ
NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
2.1. Khái quát về thành phần kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước theo các hiểu hiện nay là thành phần kinh tế do Nhà
nước đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu và quản lý. Hay nói cách khác thành phần
kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên số tư liệu sản xuất mà nhà nước sở
hữu. Do đó trong nền cơ cấu kinh tế vận hành theo cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam thì nền kinh tế nhà nước đóng vai trị quan trọng, then chốt trong nền kinh

tế quốc dân, là lực lượng vật chất chủ chốt để nhà nước vận hành phát triển và điều tiết
nền kinh tế. Theo đó, vai trị chủ đạo thể hiện qua các phương diện như sự phát triển
cơng nghệ, trình độ quản lý giúp gia tăng hiệu quả kinh tế làm tăng GDP cả nước. Bên
cạnh đó cịn phải đi đầu, tiên phong trong việc khắc phục những sai sót, hạn chế những
khuyết tật của thị trường. Ngồi ra kinh tế nhà nước cịn định hướng, hướng dẫn hoạt
động của các nền kinh tế khác để mọi thành phần kinh tế đi theo định hướng con
đường mà kinh tế nhà nước đặt mục tiêu sẵn, từ đó có thể định hướng ra các chiến
lược kinh doanh phù hợp. Qua đó, ta thấy được tầm ảnh hưởng của vai trò thành phần
kinh tế nhà nước, nên ta cần tăng cường vai trò này bằng cách như nâng cao quyền tư
chủ và tính tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, đổi mới căn bản cơ chế
đại diện chủ sở hữu và cơ chế giám sát của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó,
nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
“Ngoài ra, thành phần kinh tế nhà nước còn bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,
các tài nguyên quốc gia và các tài sản khác thuộc sở hữu của nhà nước như đất đai,
hầm mỏ, rừng biển, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành
phần kinh tế khác. Nghĩa là thành phần nhà nước bao gồm 2 bộ phận cấu thành, đó là


doanh nghiệp nhà nước và thành phần kinh tế phi doanh nghiệp (đất đai, quỹ dự trữ
ngân hàng, ngân sách quốc gia,…)”4
Theo đó, “doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế hoạt động do nhà nước cấp
vốn được thành lập để quản lý các hoạt động cơng ích, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Vậy doanh nghiệp nhà nước cũng có hai loại: một loại hoạt
động cơng ích, tức là hoạt động khơng vì phát sinh lợi nhuận mà vì để phục vụ cho
việc cung ứng hoặc sản xuất sản phẩm cho dịch vụ cộng động, hoặc vì sự mục đích
quốc phịng, an ninh cho quốc gia. Ngồi ra cịn có loại doanh nghiệp nhà nước. Một
loại hoạt động vì phát sinh lợi nhuận, hoạt động khơng cơng ích, ngồi ra cịn có loại
giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang bảo dưỡng cơ sở hạ tầng (cầu,
đường, sân bay,…), loại này có xu hướng chuyển về hai loại trên”. Vì thành phần kinh

tế có vai trị chủ chốt và quan trọng nền kinh tế quốc gia, do đó cần phải tăng cường
đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển và phát triển ổn định hiệu quả, giữ vững vị
trí trong nền kinh tế để làm cơng cụ vật chất cho nhà nước vận dụng để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế nước nhà và giúp củng cố vai trò chủ đạo cho nhà nước trong việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.5

2.2. Thực trạng phát triển của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta
2.2.1. Những thành tựu trong thành phần kinh tế nhà nước và nguyên nhân
2.2.1.1. Những thành tựu
Một là sự phát triển của công nghê kỹ thuật, của các ngành nghề đã đưa kinh tế
nước ta phát triển vượt bậc, gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, ổn định vị trí đứng
của ta trong thị trường quốc tế. “Cụ thể tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm trước tăng
đáng kể so với năm trước, được thể hiện như sau: vào năm 2006 tốc độ tăng trưởng là
kinh tế là 8,17%, tốc độ tăng trưởng của quý I, II, III trong năm đó lần lượt là 7,53%,
8,1%, 8,96%. Trong khi đó, vào năm 2007, tốc độ tăng trưởng là 8,48% với tốc độ
tăng trưởng theo 3 quý như trên lần lượt là 7,79%, 8,61%, 9.24%”. Qua số liệu trên, ta
có thấy được rằng sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế của nước ta, từ đó thấy
4 Lưu Văn Tiên, (17/02/2023), Nhận thức về vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, Truy cập từ
/>5 Tiểu luận Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước, thực trang và giải pháp, Truy cập từ
/>

được nỗ lực của các thành phần xã hội để đưa nước ta thoát khỏi một nước nghèo nàn
lạc hậu, cải thiện GDP đầu người. “Theo đó, GDP vào năm 2007 thu được là 4251 tỷ
đồng tăng 8,16% so với năm 2006 và 17,4% so với năm 2005. Tuy vậy nhưng vào năm
2008, tốc độ tăng trưởng của ta chỉ đạt được chỉ tiêu 7% so với chỉ tiêu tăng trưởng
ban đầu đặt ra theo dự định của nhà nước là 8,5%”. 6Nguyên nhân là bởi biến động của
toàn cầu về thị trường kinh tế, giá dầu mỏ thay đổi liên tục một cách bất ổn định, tình
hình dịch bệnh, tình hình lương thực là vấn đề lớn nhất, đặc biệt nổi trong vấn đề vào
thời điểm lúc bấy giờ, đe dọa vấn đề nạn đói một số quốc gia trên thế giới. Do đó mà
chính phủ nước ta đã thay đổi chỉ tiêu đạt được thấp xuống, qua đó ta thấy sự biến đổi

linh động của nhà nước để cân bằng việc đang diễn ra, chấp nhận giảm chỉ tiêu đã
được đề ra, đó là một việc hết sức cần thiết trong tình hình lúc bấy giờ khi ta đã bước
chân vào sân chơi quốc tế. Nhờ sự lãnh đạo hết sức cần thiết của Đảng và nhà nước đã
tạo được sự phát triển ổn định và cân bằng cho đến hiện tại.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế
0.1
0.09
0.08
0.07
0.06
0.05
0.04
0.03
0.02
0.01
0

2006

2007
Quý I

Quý II

Quý III

Hai là kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế thu hút vốn đầu tư nhiều nhất trong
các thành phần kinh tế khác. Việc này nhằm đảm bảo việc kinh tế nhà nước sẽ là đầu
tàu, là mũi nhọn lãnh đạo các thành phần kinh tế khác trong việc đảm bảo phát triển

đúng theo định hướng. Do có vốn đầu tư cao nên là đây là ngành kinh tế cung cấp
lượng lớn lao động trong nước, “cụ thể chiếm 32,7% lao động cả nước”. Đặc biệt là
6 Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước, Truy cập từ />

khi làm việc trong ngành kinh tế nhà nước, những người lao động sẽ được hưởng chế
độ đãi ngộ đặc biệt cùng với mức lương và thưởng tương xứng phù hợp với trình độ và
mức giờ làm việc quy định. Khác so với các ngành kinh tế khác, những người lao động
phải làm việc thêm giờ, lương thưởng bị cắt xén, đặc biệt thể hiện qua các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong doanh nghiệp nhà nước, thường được đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm ý tế để thể hiện sự quan tâm đến sức khỏe, đến lợi ích của
người lao động của nhà nước. Bên cạnh đó là môi trường làm việc ngày càng được
nâng cao, giúp người lao động cảm thấy thoải mái, tận tình phục vụ và làm việc hơn,
tích cực tham gia vào nhiều dự án cho doanh nghiệp hơn. Sự quan tâm của các doanh
nghiệp nhà nước dẫn đến doanh thu ngày một tăng, đóng góp vào sự phát triển của nền
kinh tế đất nước. “Theo số liệu, cơng ty dầu khí Việt Nam doanh thu đạt trên 42.3
nghìn tỷ đồng lợi nhuận đạt trên 24,9 nghìn tỷ đồng vào năm 2007. Quý I năm 2008 đã
đạt 69390 tỷ đồng, chiếm tới 20% GDP cả nước, tăng 71,34% so với năm 2007. Nộp
ngân sách nhà nước 30506 tỷ đồng. Đầu năm 2008 khai thác 5,64 triệu tấn dầu quy đổi
dầu thô đạt 3,77 triệu tấn, khái thác khí đạt 1,87 tỷ m 3 ” 7 Qua đó cho thấy sự thành
cơng của các doanh nghiệp nhà nước qua các năm thông qua việc có vốn đầu tư và
nguồn nhân lực lao động dồi dào, cùng với chế độ ưu đãi đặc biệt là một thành tựu to
lớn của kinh tế nhà nước.
Ba là nông nghiệp phát triển mạnh, không những cung cấp đủ lương thực cung ứng
trong nước mà cịn có thể xuất khẩu ra nước ngoài với lượng xuất khẩu lớn, cụ thể là
đứng thứ 2 Thế giới, chỉ sau mỗi Thái Lan, nhờ đó mà thu về lượng ngoại tệ tương đối
lớn. Sản lượng nông nghiệp ngày càng được nâng cao cùng với đó là chất lượng cũng
cải thiện mặc cho hằng năm ta phải đối diện với sự tàn phá của bão lũ, hạn hán cùng
với các loại dịch bệnh khác. Đó là nhờ vào sự tân tiến, đổi mới sáng tạo của công nghệ
kỹ thuật phát triển đã được áp dụng rộng rãi trong công việc trồng trọt và canh tác.
Ngành trồng trọt từng bước gắn sản xuất với thị trường nâng cao chất lượng và giá trị

hàng hóa. “Theo thống kê, cà phê xuất khẩu đạt 1.9 tỷ USD tăng 52,3%, cao su đạt gần
1,4 tỷ USD tăng 8,8%, hạt điều đạt trên 649 triệu USD tăng 28,9%, chè 13 triệu USD
tăng 18,4%, hạt tiêu đạt 299 triệu USD tăng 15,4%. Độ che phủ của rừng cũng được
7 Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước, Truy cập từ />

nâng cao. Năm 2005, độ che phủ là 39,5%” 8, việc trồng rừng giúp tốt cho hệ sinh thái
và môi trường sống con người, ngồi ra rừng trồng cịn có thể cung cấp lượng gỗ cần
thiết cho sản xuất và xây dựng trong đời sống của người dân. Rừng trồng được nhiều
còn tạo cơ hội việc làm cho các hộ dân gần đó nhờ việc thuê họ canh tác và trồng trọt
dưới sự quản lý của các lâm trường, nhờ vậy tỉ lệ xóa đói giảm nghèo được nâng cao
hơn. Các doanh nghiệp có được lượng nhiên liệu được cung cấp từng lượng rừng tang
cao cũng góp phần gia tăng GDP cả nước. Ngành nơng nghiệp có GDP giảm dần
chứng tỏ nước ta đã có sự chuyển đổi từ làm nông sang làm kinh tế, kỹ thuật. Tuy vậy,
sản lượng vẫn không ngừng tăng lên, nghĩa là sản xuất đã từng bước vào chun mơn
hóa. Điều đó rất phù hợp chủ trương của Đảng và nhà nước với định hướng chủ nghĩa
xã hội với việc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong mọi ngành để tăng thu nhập cá
nhân nhưng vẫn ổn định lượng lương thực cần cung cấp.

Doanh thu ngành nông nghiệp
2
1.8
1.6
1.4
1.2
1
0.8
0.6
0.4
0.2
0


cà phê

cao su

hạt điều

hạt tiêu

tỷ USD

Bốn là bưu chính viễn thơng là một ngành đạt được nhiều thành tựu to lớn, với sự
phát triển của ngành đã đóng góp giúp dịch vụ được nâng cao, hiệu suất làm việc tốt,
rút ngắn thời gian làm việc, tiết kiệm được nhiều chi phí, nhờ vậy thu được về rất
nhiều lợi nhuận. “Cụ thể doanh thu của ngành gần 32,8 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận đạt
11,6 nghìn tỷ đồng. Tính đến hết năm 2005 mạng lưới bưu chính viễn thơng có trên
17269 điểm phục vụ và có khoảng 7534 điểm bưu điện văn hóa đã đi vào hoạt động.
8 Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước, Truy cập từ />

Dịch vụ internet phát triển nhanh chóng có hơn 2397 điểm đã có internet. Tới năm
2006 có 7577 xã chiếm 85,5% số xã có điểm bưu điện văn hóa. Những xã có nối
internet là 17,7%, tới nay chắc rằng con số này đã bị bỏ xa. 100% số xã trong nước có
điện thoại, qua đó việc giao tiếp giữa các nơi, các vùng với nhau đã trở nên dễ dàng,
nhờ vậy đã thúc đẩy xúc tiến sự giao lưu kinh tế văn hóa ở các nơi với nhau, cả ở trong
lẫn ngồi nước. Tồn mạng viễn thơng có 17779 triệu thuê bao điện thoại đạt bình
quân cả nước là 19,01máy /100 dân. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sẽ địi hỏi
việc dịch vụ viễn thơng phải phát triển để có thể thỏa mãn nhu cầu liên lạc, giao lưu
giữa các nơi với nhau trong quá trình vận động xây dựng, sản xuất. Một thành tựu vô
cùng đặc biệt và ảnh hưởng của dịch vụ viễn thông là phóng thành cơng vệ tinh
vinasat1 đặt vào vũ trụ”, nhờ vậy ta tiết kiệm được hàng trăm tỷ đồng mỗi năm với

việc không phải thuê mượn vệ tinh của nước ngồi nữa9. Ngồi ra ta cịn có thể tăng độ
phủ sóng đến các nơi vùng cao, vùng núi hiểm trở, đưa internet, vô tuyến, tivi… đến
tới mọi miền của tổ quốc. Bên cạnh đó, ta cịn có thể bắt được sóng của những khu vực
ngồi nước, thu được những chương trình bổ ích giúp ta hội nhập văn hóa mới, lĩnh
hội được những thành tựu của công nghệ kỹ thuật, từ đó có thể áp dụng được vào việc
phát triển đời sống nhân dân và phát triển nền kinh tế.
Năm là tổng cơng ty than khống Việt Nam cũng là một trong những ngành có đóng
góp quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. “Năm 2007 toàn ngành
đã thu được 36,8 triệu tấn than doanh thu là 27,5 tỷ đồng vượt 13,5% kế hoạch đề ra.
Tuy những năm gần đây, ngành khai thác có giảm về số lượng khai thác 18,5 triệu tấn
năm 2005, 16,8 triệu tấn năm 2006, 15,87 triệu tấn năm 2007 nhưng doanh thu khơng
giảm mà cịn tăng do giá cả mặt hàng ngày một tăng lên”. Ngoài ra sự giảm này là do
chính sách của nhà nước nhằm đảm bảo chế độ khai thác một cách hợp lý đảm bảo tiết
kiệm được nguồn năng lượng hữu hạn vô cùng quý giá, bởi lẽ hiện nay trên thế giới
năng lượng đang dần cạn kiệt, đó là một vấn đề vơ cùng quan trọng và cấp bách, điều
đó cho thấy nhà nước có tầm nhìn chiến lược vơ cùng sắc khi rất quan tâm đến vấn đề
an ninh năng lượng. Vì một nước đang phát triển như ta cần phải có nhiều năng lượng
để phát triển kinh tế đặc biệt qua ngành công nghiệp nặng.
9 Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước. Truy cập từ />

SỐ lượng than khai thác
19
18.5
18
17.5
17
16.5
16
15.5
15

14.5

2005

2006

2007

tấn than

2.2.2.1. Nguyên nhân
Một là do Đảng và Nhà nước ta có những đường lối chính trị hợp lý, phù hợp,
cân nhắc mọi chỉ đạo dựa trên tình hình của cả nước và tình hình Thế giới để đưa ra
điều chỉnh chính xác và hợp lý đem về những thành tựu đáng có như hiện nay. Ngồi
ra, nước ta cịn có sự chuyển đổi từ chế độ chạy theo kinh tế thị trường trong suốt
những thập kỷ qua thay vì chế độ bao cấp như hai thập kỷ trước đã làm trì trệ nền kinh
tế và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, phải sống cực khổ và ln chịu cái đói
quanh năm, chịu phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước. Nhận thấy ảnh hưởng cực lớn từ
chế độ, Đảng và nhà nước ngay lập tức chạy theo kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra để tránh sự chậm trễ dẫn đến tình trạng lạc hậu cho đất
nước. Phát triển đất nước theo nền kinh tế thị trường phải gắn liền với sự phát triể của
công nghệ kỹ thuật, do vậy nhà nước đã nhanh chóng tiếp thu nền khoa học kỹ thuật
của các nước đã phát triển trên thế giới. Ta tiếp thu ngay khi các nước đã phát triển và
áp dụng vào đời sống xã hội nên ta có kinh nghiệm về những lỗi, những gì mà những
nước đi trước đã mắc phải ta có thể nhanh chóng khắc phục và dễ dàng học hỏi rồi áp
dụng ngay nhanh vào đời sống kinh tế - xã hội, nhờ vậy mà nước ta có được cuộc sống
như ngày hơm nay, nhờ vậy mà có thể rút ngắn được khoảng thời gian nghiên cứu phát
triển, khoảng thời gian này sẽ được bù đắp để xây dựng, trồng trọt nâng cao kinh tế.
Nước ta còn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó nền kinh tế được giám sát một



cách chặt chẽ và có hiệu quả, giúp tránh được các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra. Với
việc là một nước lạc hậu phát triển sau, ta quan sát được những sai lầm của những
nước đi trước, từ đó học hỏi, tiếp thu và chọn lọc để áp dụng vào cải tiến, đưa nước ta
phát triển vượt bậc.
Hai là “Nước ta có địa hình giáp biển, giáp núi, do đó tài ngun nước ta vơ cùng
phong phú và đa dạng về mọi mặt và mọi lĩnh vực. Đây là tiền đề để đưa nước ta phát
triển kinh tế vô cùng tốt, đặc biệt là ngành công nghiệp nặng với việc được cung cấp
lượng nguyên liệu vô cùng phong phú. Tuy nhiên, do ngành khai thác và chế biến của
ta vẫn chưa phát triển nên ta chỉ có thể khai thác các nguyên liệu ở dạng thô mà chưa
thể qua chế biến nên giá thành rất thấp, không lợi dụng được tối đa lợi ích kinh tế của
lượng tài nguyên này, vì thế gây nên lãng phí tài ngun”. Để khắc phục việc này, ta
đã cử người đi xuất ngoại để hội nhập, lĩnh hội được thành tựu công nghê, kỹ thuật để
từ đó về nâng cao chất lượng khai thác và chế biến để có vận dụng tối đa lợi ích kinh
tế khống sản. Chính vì tiềm năng phát triển của đất nước nên ta đã nhận được nhiều
sự giúp đỡ từ các nước trên thế giới về vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và
vận hành,… Chính điều này đã giúp ta tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận với khoa học
kỹ thuật với trình độ cao nhiều hơn về nhiều ngành khác nhau. Các doanh nghiệp trong
nước, đặc biệt là doanh nghiệp được nhà nước quan tâm nhanh chóng áp dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật đạt được vào trong sản xuất, nhờ vậy năng suất đã cải thiện đáng
kể, sản phẩm làm ra đạt chất lượng tốt hơn với số lượng nhiều hơn, từ đó cải thiện dần
đời sống xã hội, ổn định và phát triển kinh tế10.
Ba là các doanh nghiệp nước ta có hướng phát triển hợp lý cải tiến cơng nghệ và
phát triển theo xu hướng của thị trường học. Học hỏi và tiếp thu những mơ hình phát
triển cơng ty của những nước đã phát triển nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các doanh nghiệp nhạy bén, khơn khéo học hỏi tích lũy những cơng ty bạn
trong nước lẫn ngoài nước, rút ra những bài học từ những sai lầm của họ để tích lũy
kinh nghiệm cho bản thân. Đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước dưới sự lãnh đạo sát
sao và giám sát của nhà nước để đảm bảo sự phát triển ổn định theo định hướng nhất
định tránh gây ra những cuộc khủng hoảng. Khi đã tạo được sức mạnh trên thị trường

10 Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước. Truy cập từ />

kinh tế với áp lực cạnh tranh mạnh, đã có thể chủ động phát triển thì khơng cần phụ
thuộc vào nguồn vốn cũng như chính sách ưu đãi của nhà nước. Để đạt được điều này,
nhà nước đã ban hành những điều luật kinh doanh cùng với chính sách pháp luật để tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển cả về chiều rộng, chiều sâu, hoàn chỉnh hơn
về ngành nghề, phát triển đa dạng ngành nghề.
Bốn là hiện nay nhà nước và pháp luật đang có những quy định về hướng đi mới
trong việc cải cách hành chính bao gồm việc thay đổi cơ cấu quyền lực hành pháp và
tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hòa thuận, hợp
tác giữa các cá nhân và các bộ phận vì mục đích chung cộng đồng. Ngồi ra cịn tạo
điều kiện rộng rãi hơn cho các doanh nghiệp muốn vay vốn để kinh doanh, qua đó
giúp doanh nghiệp có nguồn vốn để huy động được nhân lực, chủ động đầu tư để phát
triển. Bên cạnh đó cịn tăng cường đầu tư mạnh cho các ngành, các lĩnh vực có tiềm
năng phát triển kinh tế đất nước để có một nguồn lực vững chắc mà đột phát phát triển
đổi mới công nghệ kỹ thuật tăng năng suất và hiệu quả. Nhờ việc cải cách hành chính,
nhà nước đã xóa bỏ hàng rào chắn về thủ tục hành chính giữa người dân và mơi trường
kinh doanh, giúp cắt giảm chi phí và rủi ro của người dân và doanh nghiệp trong việc
thực hiện thủ tục hành chính. Ngồi ra nhờ cải cách hành chính mà có thể nâng cao
chất lượng làm việc, trình độ làm việc, góp phần nâng cao hình ảnh của người Việt
Nam nói riêng và các doanh nghiệp nói chung vì mơi trường làm việc cực kì cạnh
tranh với năng lực làm việc. Những hình ảnh này có giá trị vơ hình nhưng có thể tác
động tạo mối quan hệ đối ngoại, là tiền đề quan trọng cho việc phát triển nền kinh tế
của đất nước.
Năm là “Nhà nước đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để nhằm mục
đích tạo ra loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, trong đó có đơng đảo người lao
động để có thể sử dụng tối đa một cách hiệu quả nguồn vốn, tài sản nhà nước và huy
động được thêm vốn xã hội vào doanh nghiệp để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo
cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò
làm chủ thực sự của xã hội, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với

doanh nghiệp, qua đó đảm bảo lợi ích hài hịa giữa các bên nhà nước, người lao đông
và doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ
phần, có những quy định để người lao động được giữ cổ phần ưu đãi trong một thời


gian nhất định. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong
doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp, dành một tỷ phần thích hợp
bán ra ngồi doanh nghiệp. Nghiên cứu để người lao động sử dụng một phần vốn tự có
của doanh nghiệp làm cổ phần của mình, qua đó để họ hưởng lãi nhưng khơng thể rút
cổ phần khỏi doanh nghiệp”. Qua đó, ta thấy khi nền kinh đã phát triển, nhà nước đã
phải thực hiện việc cổ phần hóa doanh nghiệp bởi nhà nước nắm 100% cổ phần là
khơng cần thiết, việc cổ phần hóa sẽ giúp doanh nghiệp chủ động đưa ra các quyết
định liên quan đến vấn đề hệ trọng một cách chính xác, kịp thời dựa vào những cá thể
có chun mơn cao có thể là người quản lý cổ phần hoặc là người được thuê để thực
hiện công việc quản lý mà không phụ thuộc vào nhà nước một cách bị động như
trước.11
Sáu là nhà nước luôn tạo điều kiện cho những người lao động có năng lực tốt qua
việc tuyển chọn một cách minh bạch và công khai đi kèm với những chính sách ưu đãi
phù hợp, tạo điều kiện cho người lao động phát huy tồn bộ năng lực của mình. Nhà
nước đầu tư mạnh về mảng giáo dục, tạo cơ hội, điều kiện để những người có năng lực
có thể tiếp xúc với trình độ khoa học kỹ thuật cao ở những nước phát triển trên thế giới
bằng việc đầu tư cho họ xuất ngoại, nhờ vậy lượng lớn kiến thức được du nhập về giúp
phát triển nền kinh tế nước nhà. Đối với những người chưa có tay nghề, vẫn có cơ hội
gia nhập những lớp đào tạo cơ bản để gia tăng tay nghề nhằm tạo ra nguồn lao động
chất lượng một cách dồi dào để giúp ta có thể bước chân vào kinh tế thị trường quốc
tế, nơi yêu cầu nguồn lao động chất lượng cao phục vụ.

2.2.2. Những mặt hạn chế trong thành phần kinh tế nhà nước và nguyên
nhân
2.2.2.1. Những mặt hạn chế

Thứ nhất, kinh tế nhà nước không đủ sự đa dạng lĩnh vực: Kinh tế nhà nước
thường chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nhất định, giới hạn sự đa dạng trong hoạt
động kinh tế. Việc tập trung quá mức vào một số lĩnh vực nhất định có thể làm giảm
khả năng thích nghi và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Kinh tế nhà nước
11 TIỂU LUẬN KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO. Truy cập từ />

thường chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nhất định, giới hạn sự đa dạng trong hoạt
động kinh tế. Điều này có thể làm giảm khả năng thích nghi và khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, và gây hạn chế cho sự phát triển của kinh tế.
Kinh tế nhà nước trước đây chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như nông
nghiệp, khai thác và chế biến các nguyên liệu, dệt may, giày dép, thủy sản, dầu khí, và
một số ngành cơng nghiệp khác. Điều này đã giới hạn sự đa dạng trong hoạt động kinh
tế, và khiến kinh tế nhà nước trở nên phụ thuộc vào một số lĩnh vực cụ thể.
Ngoài ra, việc tập trung quá mức vào các lĩnh vực này đã khiến kinh tế nhà nước
khó có thể đáp ứng được sự thay đổi của thị trường quốc tế và khó khăn trong việc tìm
kiếm các cơ hội mới để phát triển kinh tế. Chẳng hạn, trong thời gian gần đây, vấn đề
về biến đổi khí hậu, an ninh mạng, và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra
những thách thức mới cho các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, kinh tế nhà nước vẫn
chưa thể đáp ứng được đầy đủ những thay đổi này do thiếu sự đa dạng và khả năng
thích nghi với mơi trường kinh doanh mới.
Thứ hai, kinh tế nhà nước cũng gặp phải tình trạng tài chính bất ổn. Với sự chi
phối mạnh mẽ của nhà nước, việc đầu tư và quản lý tài chính thường khơng được thực
hiện hiệu quả. Thậm chí, có những lần nền kinh tế phải đối mặt với các vấn đề tài
chính nghiêm trọng, chẳng hạn như lạm phát và khó khăn trong việc trả nợ nước
ngồi. Điều này gây áp lực lớn lên ngân sách quốc gia và giới hạn khả năng đầu tư
trong các lĩnh vực kinh tế khác. Ngồi ra, hệ thống thuế và phí vận chuyển cũng đơi
khi khơng minh bạch, gây khó khăn cho các doanh nghiệp và gây thất thoát ngân sách
nhà nước.
1213


Thứ ba, tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, độc quyền doanh nghiệp

là một trong những vấn đề đang gây ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của kinh tế

12 Luật hoàng sa. Hạn chế của kinh tế nhà nước. truy cập từ
/>
13 TS. Nguyễn Văn Cương, Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
26/11/2021. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường . truy cập từ
/>

nhà nước. Cụ thể, điều này thể hiện qua việc một số cơng ty lớn sử dụng quyền lực của
mình để tạo ra các ưu đãi, lợi ích đặc biệt mà những doanh nghiệp nhỏ và vừa không
thể đạt được. Tình trạng độc quyền và tham nhũng cũng đang gây ra sự không công
bằng trong việc phân phối tài nguyên và gây tổn hại đến quyền lợi của người tiêu
dùng.
Các cơng ty lớn có thể tạo ra những chính sách độc quyền, hạn chế sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp khác, từ đó cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Điều này có thể
dẫn đến giá cả cao hơn cho người tiêu dùng, đồng thời giảm sự lựa chọn và chất lượng
sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Bên cạnh đó, tham nhũng cũng là một trong những ngun nhân khiến cho sự
cạnh tranh khơng bình đẳng và làm méo mó quan hệ thị trường. Tham nhũng khơng
chỉ làm giảm sự minh bạch và công bằng trong quá trình kinh doanh, mà cịn ảnh
hưởng đến sự đổi mới và sáng tạo, hạn chế sự cạnh tranh và phát triển của các doanh
nghiệp mới.
Tóm lại, tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng và độc quyền doanh nghiệp
đang làm méo mó quan hệ thị trường và gây tổn hại cho người tiêu dùng, hạn chế sự
cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, cần có những biện
pháp tăng cường giám sát, kiểm sốt và đảm bảo tính minh bạch, cơng bằng trong q
trình kinh doanh, đồng thời khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Thứ tư, 14Do khơng có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và sản phẩm, chất

lượng sản phẩm và dịch vụ thường không được nâng cao đáng kể. Khi doanh nghiệp
không phải đối mặt với sự cạnh tranh, họ có thể khơng có động lực để cải thiện chất
lượng sản phẩm và dịch vụ của mình. Thay vào đó, họ có thể dành nhiều thời gian và
nguồn lực cho các hoạt động khác như việc tìm kiếm đặc quyền hoặc độc quyền đối
với sản phẩm của mình. Điều này có thể dẫn đến sự phát triển chậm chạp của các
ngành kinh tế và đối với người tiêu dùng, họ không được tiếp cận với các sản phẩm và
dịch vụ tốt nhất có thể có. Khi sự cạnh tranh bị hạn chế, các doanh nghiệp có thể cố

14 Hải Vân. Thứ Sáu, 12:00, 05/05/2017. Nhiều hạn chế của thể chế kinh tế cản trở
sự phát triển .Truy cập từ />

gắng cắt giảm chi phí sản xuất bằng cách sử dụng các nguyên liệu và công nghệ kém
chất lượng hoặc thực hiện các quy trình sản xuất khơng đúng tiêu chuẩn. Điều này dẫn
đến sản phẩm kém chất lượng, không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng và ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe và môi trường.

2.2.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến việc kinh tế nhà nước nhà nước thường chỉ tập
trung vào một số lĩnh vực nhất định và giới hạn sự đa dạng trong hoạt động kinh tế có
thể bao gồm:
 Sự ưu tiên của chính phủ: Chính phủ đã đưa ra các chính sách hỗ trợ và ưu
đãi đối với một số lĩnh vực kinh tế nhất định như là nông nghiệp, khai thác
và chế biến nguyên liệu, dệt may, giày dép, thủy sản, dầu khí. Việc tập
trung vào các lĩnh vực này đã được đưa ra nhằm tăng cường sự phát triển
của những lĩnh vực truyền thống, nhưng lại làm giảm sự đa dạng và khả
năng cạnh tranh của kinh tế nhà nước.
 Thế giới bên ngồi: Thị trường quốc tế cũng có một ảnh hưởng đáng kể
đối với sự đa dạng của kinh tế nhà nước. Khi các quốc gia khác tập trung
phát triển một số lĩnh vực nhất định, thị trường quốc tế có thể trở nên chật
chội với những sản phẩm cùng lĩnh vực và dễ gây ra sự cạnh tranh khốc

liệt. Việc kinh tế nhà nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực có thể khiến
nhà nước trở nên khó khăn trong việc cạnh tranh với các quốc gia khác
trên thị trường quốc tế.
 Khó khăn trong việc đổi mới và phát triển: Khi kinh tế chỉ tập trung vào
một số lĩnh vực, sẽ rất khó để tìm kiếm các cơ hội mới để phát triển. Việc
đổi mới và phát triển các lĩnh vực mới sẽ trở nên khó khăn hơn, do thiếu
sự đa dạng và khả năng thích nghi với mơi trường kinh doanh mới.
Tóm lại, các ngun nhân dẫn đến việc kinh tế nhà nước chỉ tập trung vào một số
lĩnh vực nhất định và giới hạn sự đa dạng trong hoạt động kinh tế bao gồm sự ưu tiên
của chính phủ, thị trường quốc tế và khó khăn trong việc đổi mới.


Thứ hai, ngun nhân chính của tình trạng tài chính bất ổn trong kinh tế nhà
nước có thể do các yếu tố sau:
 Sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong quản lý kinh tế và tài chính:
Trong một số trường hợp, việc can thiệp quá mức của nhà nước có thể dẫn
đến sự lãng phí tài ngun và quản lý tài chính khơng hiệu quả. Nhà nước
thường có xu hướng đầu tư vào các dự án quá lớn, không cần thiết, hoặc
không đạt được hiệu quả kinh tế cao. Điều này dẫn đến sự lãng phí tài
nguyên và sự đổ nợ của quốc gia.
 Khó khăn trong việc trả nợ nước ngoài: Việc mất đi khả năng trả nợ nước
ngồi có thể dẫn đến tình trạng tài chính bất ổn và cản trở quá trình phát
triển kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tồn cầu, các
nền kinh tế nhà nước có thể phải đối mặt với rủi ro về nợ nước ngoài cao
hơn.
 Hệ thống thuế và phí vận chuyển khơng minh bạch: Hệ thống thuế và phí
vận chuyển khơng minh bạch có thể tạo ra sự khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc quản lý tài chính của họ. Việc khơng minh bạch và đơi
khi khơng cơng bằng trong thuế và phí vận chuyển cũng có thể dẫn đến sự
thất thốt ngân sách nhà nước và tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh tế.

Thứ ba, có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham
nhũng, độc quyền doanh nghiệp trong kinh tế nhà nước. Một số nguyên nhân phổ biến
bao gồm:
 Quản lý kém hiệu quả: Sự thiếu kiểm soát và giám sát đúng đắn trên các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho việc xảy ra
tình trạng tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi.
 Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện: Nhiều lỗ hổng trong hệ thống pháp
luật khiến cho các doanh nghiệp có thể tìm cách lợi dụng để đạt được các
lợi ích khơng công bằng.


 Sự thiếu cạnh tranh: Kinh tế nhà nước thường tập trung vào một số lĩnh
vực chủ chốt, dẫn đến sự thiếu cạnh tranh và khó khăn cho các doanh
nghiệp mới gia nhập vào thị trường.
 Sự thiếu minh bạch: Các doanh nghiệp không công khai thông tin về hoạt
động và lợi nhuận, dẫn đến sự khó khăn trong việc kiểm soát và giám sát.
 Sự thiếu độc lập trong quản lý doanh nghiệp: Doanh nghiệp thường phải
tuân thủ các quy định, chỉ thị của cấp trên mà khơng có đủ độc lập trong
việc ra quyết định, điều này cũng dẫn đến tình trạng đặc quyền, đặc lợi,
tham nhũng và độc quyền doanh nghiệp.
Thứ tư, nguyên nhân của tình trạng chất lượng sản phẩm kém trong kinh tế nhà
nước có thể do nhiều yếu tố, bao gồm:
 Thiếu sự cạnh tranh: Khi khơng có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
doanh nghiệp sẽ không cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình
để cạnh tranh với đối thủ cạnh tranh. Điều này dẫn đến việc các sản phẩm
được sản xuất với chất lượng kém hơn so với các sản phẩm được sản xuất
trong một môi trường cạnh tranh.
 Điều kiện sản xuất kém: Đôi khi, kinh tế nhà nước có thể bị hạn chế về
nguồn lực và vốn đầu tư, dẫn đến việc thiếu kinh nghiệm và kỹ năng trong
sản xuất sản phẩm, dẫn đến chất lượng sản phẩm kém.

 Thiếu sự kiểm soát và quản lý: Doanh nghiệp trong kinh tế nhà nước có
thể khơng được kiểm sốt và quản lý chặt chẽ trong việc sản xuất sản
phẩm, dẫn đến việc sản xuất sản phẩm kém chất lượng và không đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng.
 Thiếu khuyến khích và động lực: Do khơng có sự cạnh tranh và khuyến
khích đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân, doanh nghiệp trong kinh tế nhà
nước có thể thiếu động lực và sự khuyến khích để nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình.


×