Tải bản đầy đủ (.pdf) (234 trang)

(Luận án tiến sĩ) Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 234 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THẢO

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
THEO NGHĨA VỤ PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THẢO

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG THEO
NGHĨA VỤ PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 62.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. TRỊNH VĂN THANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án này là trung thực và chưa được cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào.
Người cam đoan

Trần Thảo


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ANCT&TTATXH An ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội
BCT

Bộ Chính trị

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLLĐ

Bộ luật Lao động


BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CA

Cơng an

CAND

Cơng an nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQNN

Cơ quan nhà nước

ĐTV

Điều tra viên

GĐTP

Giám định tư pháp

HĐXX


Hội đồng xét xử

HTND

Hội thẩm nhân dân

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

KSV

Kiểm sát viên

NGĐ

Người giám định

NLC

Người làm chứng

NPD

Người phiên dịch

TA

Tòa án


TAND

Tòa án nhân dân

TCXH

Tổ chức xã hội

TTHS

Tố tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng


TGTT

Tham gia tố tụng

TGTTHS

Tham gia tố tụng hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC

Trang
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU .................... Error! Bookmark not defined.
1. Lý do lựa chọn đề tài ................................ Error! Bookmark not defined.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............ Error! Bookmark not defined.
2.1. Mục đích .................................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2. Nhiệm vụ .................................................................................. Error! Bookmark not defined.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............. Error! Bookmark not defined.

3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................. Error! Bookmark not defined.

4. Những vấn đề mới của luận án .................. Error! Bookmark not defined.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Error! Bookmark not defined.
PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......... Error!
Bookmark not defined.
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............... Error! Bookmark not defined.
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................. Error! Bookmark not defined.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi .......................................... Error! Bookmark not defined.
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ................................. Error! Bookmark not defined.

2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu ....................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2. Lý thuyết nghiên cứu ................................................................ Error! Bookmark not defined.
2.3. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu....................................... Error! Bookmark not defined.
2.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu ...................................................... Error! Bookmark not defined.

3. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu ......... Error! Bookmark not defined.
3.1. Mục tiêu nghiên cứu................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................... Error! Bookmark not defined.

4. Cấu trúc của luận án ................................. Error! Bookmark not defined.


PHẦN THỨ BA: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Error! Bookmark
not defined.
Chương 1 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
NHẬN THỨC CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI THAM

GIA TỐ TỤNG THEO NGHĨA VỤ PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM .............................................. Error! Bookmark not defined.
1.1. Nhận thức về người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý ...... Error! Bookmark not defined.

1.2. Một số vấn đề cơ bản về bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lýError! Bookmark
1.3. Vấn đề bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý của một số nước
trên thế giới ...................................................................................... Error! Bookmark not defined.

Chương 2 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
QUYỀN CỦA NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG THEO NGHĨA VỤ PHÁP
LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAMError! Bookmark not defined.
2.1. Thực trạng pháp luật về quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố
tụng hình sự Việt Nam ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
trong tố tụng hình sự Việt Nam ......................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Nhận xét đánh giá chung thực trạng bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ
pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam ............................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................ Error! Bookmark not defined.

Chương 3 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG THEO NGHĨA VỤ PHÁP LÝ TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................. Error! Bookmark not defined.
3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
trong tố tụng hình sự Việt Nam ......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
trong tố tụng hình sự Việt Nam ......................................................... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN .................................................. Error! Bookmark not defined.



DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ ........................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...... Error! Bookmark not defined.


1
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật” [17, tr. 14]. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng
được yêu cầu của cuộc sống, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhà nước được tổ chức, quản lý
bằng pháp luật; đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của
con người, quyền công dân. Trong các quyền con người thuộc lĩnh vực tư
pháp hình sự thì quyền của người TGTT là vấn đề được quan tâm trong cả
lĩnh vực khoa học và thực tiễn pháp lý. Nhất là vấn đề bảo đảm cho quyền của
họ được thực thi một cách nghiêm chỉnh trong thực tiễn.
Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, người tham gia TTHS có nhiều loại
khác nhau và trong khoa học pháp lý cũng chưa có sự thống nhất triệt để. Tuy
nhiên thực tế cho thấy, có người trong hoạt động TTHS thì có quyền tham gia,
có người có nghĩa vụ phải tham gia và có người tham gia chỉ nhằm bảo đảm
pháp chế XHCN. Trong đó, người tham gia TTHS theo nghĩa vụ pháp lý thường
ở vị thế yếu trong hoạt động TTHS. Cho nên, bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý là vấn đề quan trọng góp phần giúp cơ quan THTT giải
quyết VAHS được khách quan, thuận lợi và đúng pháp luật. Thực tiễn giải quyết

VAHS trong những năm qua cho thấy, mặc dù BLTTHS đã có những quy định
về quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý nhưng vẫn còn bất cập và chưa
có những quy định cần thiết để bảo đảm thực hiện có hiệu quả. Thực tiễn bảo
đảm quyền của người TGTT chủ yếu chỉ thực hiện được đối với bị can, bị cáo
mà chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người TGTT khác, trong đó có người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý.


2
Các cơ quan THTT, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc bảo đảm
quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý nhưng vẫn còn những vi phạm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, chưa bảo đảm thực
hiện đúng đắn quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS
Việt Nam. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý chưa hoàn thiện; các văn bản hướng dẫn
chưa đầy đủ, kịp thời, thiếu thống nhất; chưa có cơ chế thực thi pháp luật bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý một cách đồng bộ. Nhận
thức của người THTT và sự thực hiện của cơ quan THTT về bảo đảm quyền
của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý còn hạn chế. Người TGTT ln ở vị
thế yếu nên ít được quan tâm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cho nên
việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý, để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn áp dụng là vấn đề cấp thiết. Vì vậy,
tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý
trong TTHS Việt Nam’’ làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Làm rõ lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam; đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người

TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu luận án cần
làm rõ những vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ lý luận về người TGTT và người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý; khái niệm, cơ sở, cơ chế, các yếu tố bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam; Vấn đề bảo đảm quyền của


3
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý của một số nước trên thế giới.
- Khảo sát làm rõ thực trạng quy định pháp luật TTHS trong việc bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam;
- Khảo sát làm rõ thực trạng bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam;
- Nghiên cứu đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế của
pháp luật, thực tiễn bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý
trong TTHS;
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam gồm NLC, NGĐ, NPD.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Quy định về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS Việt Nam (trọng tâm nghiên cứu BLTTHS 2003);
Thực tiễn bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS Việt Nam từ năm 2005 đến 2013 (Tập trung nghiên cứu nội dung bảo
đảm quyền của NLC, NGĐ, NPD).

4. Những vấn đề mới của luận án
Nghiên cứu làm rõ, bổ sung lý luận về bảo đảm quyền của người TGTT
nói chung và quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt
Nam nói riêng. Q trình nghiên cứu tác giả sẽ tổng hợp, đánh giá tìm ra
những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong các chế định pháp lý
và thực tiễn bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS Việt Nam. Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị tăng cường bảo đảm
quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.


4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT nói chung và của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam nói riêng. Đồng
thời góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước, pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật.
Ngoài ra, đề tài cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong
các Trường Đại học có đào tạo ngành luật, các cán bộ nghiên cứu, cán bộ đang
làm nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân.


5
PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu
về lĩnh vực tư pháp hình sự đã được cơng bố. Nghiên cứu các cơng trình liên

quan đến đề tài luận án, tác giả phân thành các nhóm như sau:
- Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ luật học:
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: PGS, TS. Nguyễn Thái Phúc, năm
2005 với đề tài “Bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt Nam”, nghiên
cứu vấn đề quyền con người, quyền công dân và Nhà nước pháp quyền, bảo
đảm quyền con người trong TTHS. Đề tài phát triển lý luận về quyền con
người và bảo đảm quyền con người trong hoạt động TTHS; cơ chế bảo đảm
quyền con người trong TTHS và các thành tố của cơ chế; mối quan hệ giữa
cải cách tư pháp và mở rộng quyền con người, tăng cường bảo đảm quyền con
người trong TTHS nước ta. Đề tài làm rõ thực trạng bảo đảm quyền con
người trong BLTTHS 2003 và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện BLTTHS
2003 theo hướng mở rộng quyền con người và bảo đảm quyền con người của
những chủ thể TGTT (người bị tạm giữ, bị can bị cáo, người bào chữa, NLC,
người bị hại) [13].
+ Nguyễn Huy Hoàn, năm 2004 với luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, luận án
nghiên cứu cơ sở lý luận đảm bảo quyền con người, lịch sử đảm bảo quyền
con người trong các triều đại phong kiến Việt Nam và trên thế giới, thực trạng
hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, các quan
điểm, giải pháp nhằm đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp hiện
nay. Trên cơ sở phân tích lý luận, thực trạng đảm bảo quyền con người trong
hoạt động tư pháp, luận án đưa ra giải pháp nhằm đảm bảo quyền con người


6
trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay [8].
+ Lại Văn Trình, năm 2011 với luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền
con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam”. Luận
án nghiên cứu các quan niệm về nhà nước pháp quyền XHCN và các đặc trưng
của nó; các quyền con người trong nhà nước pháp quyền; các biện pháp bảo

đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; vấn đề lý
luận bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
TTHS; thực trạng pháp luật TTHS Việt Nam về đảm bảo quyền con người của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Luận án đưa ra một số giải pháp: hoàn thiện
các quy định về các nguyên tắc cơ bản của TTHS; hoàn thiện địa vị pháp lý của
các chủ thể quan hệ TTHS; hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn;
hoàn thiện các quy định về thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; hoàn thiện
các quy định về khiếu nại, tố cáo trong TTHS [27].
+ Nguyễn Huy Hoàn, năm 1998, với luận văn thạc sĩ luật học: " Một số vấn
đề bảo vệ quyền con người trong TTHS". Đề tài nghiên cứu dưới góc độ chuyên
ngành luật Hình sự, luật TTHS và giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số khía
cạnh về quyền con người trong lĩnh vực pháp luật đặc thù là luật TTHS [7].
+ Hoàng Hùng Hải, năm 2000, với luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện
pháp luật đảm bảo quyền con người trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay".
Đề tài nghiên cứu quyền con người trong phạm vi xét xử VAHS ở Việt Nam [6].
- Sách chuyên khảo:
+ TS. Trần Quang Tiệp, năm 2003 với cuốn sách “Bảo vệ quyền con
người trong luật Hình sự, luật TTHS Việt Nam”. Cơng trình này đề cập một
số vấn đề như: lý luận chung về quyền con người, quyền công dân; bảo vệ
quyền con người trong luật Hình sự, luật TTHS Việt Nam từ thời kỳ Hùng
Vương, thời nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Nguyễn, thời kỳ thực dân Pháp
xâm lược, thời kỳ từ cách mạng tháng tám 1945 đến BLHS 1985 và BLTTHS
1988 ra đời, bảo vệ quyền con người trong BLTTHS 1988 và 2003 [21].


7
+ TS. Võ Thị Kim Oanh, năm 2010, với cuốn sách “ Bảo đảm quyền con
người trong tư pháp hình sự Việt Nam”. Cơng trình này tập hợp có hệ thống
các cơng trình khoa học về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong
lĩnh vực tư pháp hình sự, bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, một số vấn đề bảo
vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam, quyền được thông tin của người
TGTT trong TTHS Việt Nam…[12].
- Bài báo, tạp chí khoa học:
+ TS. Phan Thị Hương Thủy, năm 2006: “NLC và quyền của NLC trong
BLTTHS năm 2003 - Thực trạng và định hướng hồn thiện”. Tác giả trình
bày khái niệm NLC trong TTHS và quyền của NLC trong BLTTHS năm
2003; khái quát thực trạng quy định quyền và bảo đảm quyền của NLC so với
người TGTT khác; nêu những bất cập của BLTTHS năm 2003 cản trở việc
NLC tham gia hoạt động TTHS; nêu một số giải pháp bảo đảm quyền của
NLC trong TTHS [20].
+ PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc, năm 2007: “Bảo vệ NLC và quyền miễn
trừ làm chứng trong TTHS”, đăng trên Tạp chí KHPL số 3(40)/2007. Tác giả
trình bày một số vấn đề cơ bản về NLC, ý nghĩa của lời khai NLC trong
TTHS; nhận thức và tầm quan trọng về bảo vệ NLC, đồng thời tác giả nêu
một số biện pháp bảo vệ NLC trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án; đặc biệt
tác giả đề cập chế định miễn trừ làm chứng [14].
+ TS. Trần Quang Tiệp, năm 2005: “Về lời khai của NLC trong VAHS”,
đăng trên Tạp chí KHPL 4/2005. Tác giả khái quát lịch sử lập pháp TTHS
quy định về lời khai của NLC từ Bộ luật Hồng Đức đến BLTTHS 2003, các
tiêu chí phân loại lời khai NLC và việc đánh giá lời khai của họ; bài viết cũng
đề cập đến quy định về lời khai của NLC trong pháp luật TTHS của một số
nước trên thế giới như Liên bang Nga, vương quốc Thái Lan, Hàn Quốc,
Cộng hòa Pháp, liên bang Malaysia, Nhật Bản [22].


8
+ PGS.TS. Trần Đình Nhã, năm 2010: “Hồn thiện cơ sở pháp lý về bảo
vệ người tố giác, NLC, người bị hại trong VAHS”, đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp điện tử ngày 26/6/2010. Tác giả trình bày yêu cầu bảo vệ người

tố giác, NLC, người bị hại trong VAHS; thực trạng pháp luật TTHS, luật An
ninh quốc gia, luật Phòng chống ma túy, luật Phòng chống tham nhũng, luật
CA nhân dân về bảo vệ người tố giác, NLC, người bị hại trong VAHS; bài
viết đề cập vấn đề áp dụng pháp luật, hình thức đe dọa, xâm hại người tố giác,
NLC, người bị hại trong VAHS và đưa ra một số kiến nghị xây dựng đạo luật
về bảo vệ người tố giác, NLC, người bị hại trong VAHS [11].
+ TS. Phạm Mạnh Hùng, năm 2012: “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người
tố giác và những người TGTT khác trong vụ án tham nhũng”, đăng trên Tạp
chí Kiểm sát số 07 tháng 4/2012. Tác giả trình bày khái quát vấn đề bảo vệ
NLC, người tố giác, người bị hại, NGĐ… và viện dẫn một số điều luật trong
các ngành luật quy định về bảo vệ NLC, người tố giác, người bị hại,
NGĐ…làm cơ sở pháp lý áp dụng các biện pháp bảo vệ họ, từ đó đưa ra các
giải pháp bảo vệ NLC, người tố giác, người bị hại, NGĐ [9].
+ ThS Nguyễn Nông, năm 2011: “NPD, NGĐ và vấn đề tính hợp pháp
của chứng cứ”, đăng trên tạp chí Kiểm sát VKSNDTC, tháng 09/2011. Tác
giả trình bày quan điểm của mình về chứng cứ theo lý luận của khoa học luật
TTHS, xem xét một số vấn đề về địa vị pháp lý của NPD và NGĐ với vấn đề
bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ [10].
+ CN. Hồ Thanh Giang, năm 2012: “Vấn đề phiên dịch trong hoạt động
điều tra các VAHS do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh”, đăng trên Tạp chí khoa học giáo dục CSND, số 18 tháng 01/2012.
Tác giả đề cập trình tự, thủ tục trưng cầu phiên dịch trong điều tra vụ án do
người nước ngoài thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh; bài viết nêu lên thực
trạng phiên dịch, chất lượng phiên dịch, những khó khăn bất cập và các
nguyên nhân của nó, từ đó tác giả cho rằng để hoạt động phiên dịch thực sự


9
phát huy hiệu quả trong điều tra VAHS do người nước ngoài thực hiện, các cơ
quan chức năng CA thành phố Hồ Chí Minh cần chú ý một số vấn đề như:

kiến nghị việc xây dựng, ban hành quy định về cơ quan có chức năng phiên
dịch, NPD về tư cách pháp lý, điều kiện tham gia, trách nhiệm… [5].
Trong các cơng trình trên, đa số các tác giả nghiên cứu về quyền con người
trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung, tuy nhiên cũng có một số cơng trình
nghiên cứu vấn đề quyền của người TGTT như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, NLC, NPD… Nhưng nhìn chung các tác giả chưa nghiên cứu thật
đầy đủ, tồn diện và có hệ thống vấn đề bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý bao gồm NLC, NGĐ, NPD trong TTHS Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, ở trong nước chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc, toàn diện về vấn đề
“Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt
Nam’’. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong giai
đoạn hiện nay ở Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Trong khoa học pháp lý quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con người nói
chung, bảo đảm quyền con người trong TTHS nói riêng, đã được nhiều tác giả
nghiên cứu từ nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Qua nghiên cứu các cơng
trình đã được cơng bố có liên quan đến đề tài luận án, tác giả khái quát ở hai
phương diện sau đây:
- Về bảo đảm quyền con người có một số cơng trình nghiên cứu như:
+ Barry M. Hager, The Rule of law: A Lexicon for Policy Makers,
Mansfield Center for Pacific Affairs, 1999. Đây là tài liệu chuyên khảo đóng
góp cho Hội thảo quốc tế tại Tokyo năm 1999 về vấn đề “Nhà nước pháp
quyền: Sự thừa nhận tại châu Á”. Tác giả đã phân tích các vấn đề về nhà nước
pháp quyền theo các khía cạnh: lịch sử hình thành và các yếu tố của khái niệm


10
“Nhà nước pháp quyền” trong đó có vấn đề về quyền con người. Theo đó, vấn
đề về quyền con người gắn với nhà nước pháp quyền đã được đề cập từ năm

1297 trong Đạo luật của Vua Edward I rằng: “Khơng ai có thể bị bắt hoặc cầm
tù, bị tước bỏ các quyền và tài sản của mình, bị đặt ra khỏi vịng pháp luật
hoặc bị lưu đày, hoặc có thể bị Nhà vua sử dụng bạo lực chống lại người đó
hoặc sai người khác sử dụng bạo lực với người đó nếu như khơng có một phán
quyết hợp pháp được đưa ra hoặc theo quy định của luật pháp trên vùng đất
đó”. Vấn đề quyền con người gắn với nhà nước pháp quyền cũng đã được nêu
ra trong nhiều tác phẩm nghiên cứu sau này như: Tinh thần pháp luật (L’Esprit
des Lois) của Montesquieu năm 1748, Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ ngày 04/7/1776 cho đến Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên
hiệp quốc năm 1948 tuyên bố rằng: “…điều cốt yếu là nhân quyền phải được
bảo vệ bởi một chế độ pháp trị để con người không bị dồn vào thế cùng, phải
nổi dậy chống lại áp bức và bạo quyền…”. Tác giả cũng đã làm các so sánh sự
khác nhau giữa quan niệm nhà nước pháp quyền của hệ thống pháp luật
phương Tây với các hệ thống pháp luật châu Á và luật Hồi giáo. Ví dụ trong
luật Hồi giáo, vấn đề được chú trọng nhiều nhất là quyền lợi chung của cộng
đồng chứ không phải là quyền lợi của mỗi cá nhân. Điểm chính của tham luận
là tác giả đã nêu ra các yếu tố hợp thành của vấn đề “nhà nước pháp quyền”
bao gồm: nguyên tắc hợp hiến (Hiến pháp là đạo luật cơ bản và các đạo luật
khác phải phù hợp với Hiến pháp); nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; TA
độc lập; pháp luật phải công bằng và được áp dụng liên tục; pháp luật phải
minh bạch và phải có khả năng tiếp cận đối với tất cả mọi người; việc áp dụng
pháp luật phải hiệu quả và kịp thời; quyền lợi về kinh tế và tài sản phải được
bảo vệ; quyền con người và quyền sở hữu trí tuệ phải được bảo vệ; pháp luật có
thể thay đổi theo một quy trình đã được định sẵn nhưng phải đảm bảo tính
minh bạch và phải có khả năng tiếp cận đối với tất cả mọi người. Như vậy,
trong tác phẩm của Barry M. Hager vấn đề bảo vệ quyền con người là một


11
trong những yếu tố của vấn đề “Nhà nước pháp quyền” [35].

+ K.W. Lidstone, Human rights in the English criminal trial – Human
rights in criminal procedure, Editor: Jonh M. Andrew, United Kingdom
National Committee of Comparative Law, 1982. Bài viết nằm trong Tạp chí
Quyền con người trong TTHS của Ủy ban quốc gia về Luật so sánh của Anh
quốc phân tích về những yêu cầu nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của con
người trong một phiên tịa hình sự tại Anh quốc như: có sự tham gia của bồi
thẩm đồn; quyền có một bồi thẩm đồn khơng thiên vị (cơng tâm); quyền có
một phiên tịa cơng bằng và thẩm phán khơng thiên vị; tự do báo chí tại phiên
tịa (tức báo chí phải được đưa tin một cách trung thực về diễn biến của phiên
tòa); quyền được hưởng trợ giúp pháp lý; quyền tranh luận và có người đại
diện; bị cáo phải được cho là khơng có tội trước khi bản án được tuyên; quyền
được giữ im lặng; quyền được kiểm tra và kiểm tra chéo với nhân chứng;
quyền kiểm tra chứng cứ và các lời buộc tội. Nhìn chung bài viết phân tích về
mặt kỹ thuật pháp lý các quyền của những người tham gia phiên tịa hình sự
đặc biệt là bị cáo [41].
+ Stephanos Stavros, The guarantees for accused persons under Article
6 of the European Convention on Human Rights, Martinus Nijhoff, 1993.
Tiến sỹ Stavros là thành viên của Hiệp hội luật sư Athens và là chuyên gia
pháp lý của Ủy ban các vấn đề về Cộng đồng chung Châu Âu thuộc Bộ Ngoại
giao Hy Lạp. Vấn đề áp dụng Điều 6 trong Công ước của Liên minh Châu Âu
về nhân quyền để bảo vệ quyền lợi của những TGTT được hưởng một phiên
tịa cơng bằng đã được dấy lên trong thời gian quyển sách ra đời sau hàng loạt
các tố cáo vi phạm về nhân quyền. Quyển sách phân tích một cách chuyên sâu
về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và làm một phép so sánh
giữa những vụ án được xét xử dưới Công ước của Liên minh Châu Âu về
nhân quyền với những phán quyết được đưa ra dựa trên sự áp dụng của các
nước thành viên. Tác giả đã chỉ ra rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào


12

trong các luật quốc gia theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực được
quy định trong Công ước. Vấn đề nằm ở việc các nước thành viên hiểu, vận
dụng thế nào về những quy định của Công ước phù hợp với truyền thống lập
pháp của quốc gia họ [45].
- Về bảo đảm quyền của NLC, NGĐ, NPD trong TTHS có một số cơng
trình khoa học nghiên cứu như:
+ Clive Harfield, “Police Operational Handbook: Practice and
Procedure”. Nội dung quyển sách là cẩm nang về hoạt động của lực lượng
Cảnh sát Vương quốc Anh trong quá trình tiến hành thu thập chứng cứ, thực
hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm và bảo vệ cộng đồng. Trong đó có đề
cập đến vấn đề NLC trong phần thu thập chứng cứ tội phạm. Theo đó, NLC
được định nghĩa: “NLC là những người khơng phải là bị cáo, có thể được gọi
đến để cung cấp các chứng cứ về tội phạm hoặc các hành vi vi phạm trật tự xã
hội”. Tác giả phân chia NLC ra làm một trong các loại: NLC dễ bị tổn thương
(trẻ em, người có vấn đề về sức khỏe, thể chất và tinh thần); NLC bị đe dọa
(những người bị các yếu tố khác tác động đến quá trình làm chứng như bị cáo,
gia đình bị cáo đe dọa, yếu tố tôn giáo…): đối với những NLC này thì chất
lượng lời khai của họ sẽ bị giảm bớt giá trị; NLC chính yếu: là những người
chứng kiến một phần hoặc tồn bộ diễn biến vụ việc, có mối quan hệ độc lập
với bị cáo hoặc nạn nhân và có vai trị quan trọng trong q trình điều tra vụ
án. Nhìn chung ở phần viết về NLC, quyển sách tập trung đi sâu vào vấn đề
tìm kiếm NLC, bảo vệ NLC và các biện pháp ghi nhận thông tin từ NLC của
lực lượng Cảnh sát mà chưa đề cập nhiều đến quyền lợi và nghĩa vụ của NLC
trong quá trình TTHS [36].
+ Jeremy Gans Criminal process and human rights, The Federation
Press, New South Wales – Australia, 2011. Quyển sách bàn về vấn đề thực thi
quyền con người tại Australia, đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo
các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ và xét xử, quyền được



13
giữ im lặng, quyền được xét xử một cách công bằng. Trong đó, quyền được
xét xử một cách cơng bằng có yêu cầu về việc phải có NLC và đề cập một số
chi tiết về quyền và lợi ích của NLC tại phiên tòa [43].
+ Traci Ellyn Sitzer, The impact of court interpreter on Juror decisionmaking, đề tài Thạc sỹ khoa học chuyên ngành Tâm lý học trường Đại học
California State University, July 2000. Đề tài đưa ra đánh giá về các yếu tố
ảnh hưởng đến bản án và sự đánh giá về bị cáo gồm: sắc tộc và sự có mặt của
NPD tại tịa. Từ đó tổng kết những ảnh hưởng quan trọng của NPD tại tòa đến
việc quyết định của Bồi thẩm đoàn về bản án dành cho bị cáo [47].
+ Morris Ploscowe The Expert Witness in Criminal Cases in France,
Germany, and Italy, Law and Contemporary Problems Vol. 2, No. 4, pp. 504509. Bài viết phân tích và so sánh vai trị và vị trí của NLC trong các phiên
tịa hình sự ở Pháp, Đức và Italia. Điểm chung của ba hệ thống trên là vai trò
của NLC đều được xem như là một người phụ trợ cho Thẩm phán hoặc
Chưởng lý trong quá trình điều tra, tìm ra sự thật vụ án [42].
+ Bas de Wilde A Fundamental Review of the ECHR Right to Examine
Witnesses in Criminal Cases, International Journal Evidence & Proof, Vol. 17,
pp. 157-182, 2013. Đây là bài viết đánh giá về việc thực thi Công ước về Nhân
quyền của Liên minh châu Âu trong việc thực thi quyền của NLC ở các phiên
tịa hình sự. Bài viết phân tích việc thực thi quyền lợi của NLC ở hai phiên tịa
điển hình của Vương quốc Anh xử vụ Al-Khawaja và Tahery và vụ Tòa án
Nhân quyền của Liên minh châu Âu phán xử vụ Ellis, Simm và Martin. Trong
cả hai phiên tòa, quyền lợi của NLC và quyền chỉ định NLC đã bị xâm phạm
nghiêm trọng khi tịa khơng cho phép bị cáo được lựa chọn NLC cho mình
cũng như khơng chấp nhận lời chứng của NLC ẩn danh (nặc danh) [34].
+ Richard J. Bonnie and Christopher Slobogin, The Role of Mental
Health Professionals in the Criminal Process: The Case for Informed
Speculation, Virginia Law Review, Vol. 66, No. 3, pp. 427-522, April 1980.


14

Bài viết phân tích vai trị của các chun gia sức khỏe tâm thần (giám định
viên tâm thần) trong quá trình xét xử của phiên tịa hình sự [44].
+ Harold L. Korn Law, Fact, and Science in the Courts, Columbia Law
Review, Vol. 66, No. 6, pp. 1080-1116, June 1966. Bài viết phân tích vai trị
của giám định viên trong q trình xét xử tại phiên tịa hình sự. Vai trị của họ
thể hiện trong việc tái hiện các sự kiện đã xảy ra của vụ án để từ đó đi đến kết
luận về bản chất của sự việc đang được xét xử tại tòa [37].
+ Wanda Romberger, “The provision of court interpreter services in the
21st century”. Nội dung bài viết điểm lại sự cần thiết của NPD tại tòa trong quá
khứ và thời điểm nghiên cứu, nhằm bảo đảm sự cơng bằng trong q trình xét
xử tại tịa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo. Tác giả cũng nêu lên hai vấn
đề chính trong việc đánh giá chất lượng của NPD gồm: NPD là người làm việc
cho tòa, khơng phải bị cáo (đề cập tính khách quan). Chất lượng NPD cần phải
được kiểm tra thường xuyên để đảm bảo chất lượng công việc. Tác giả cũng
đưa ra dự báo về sự cần thiết của NPD tại tòa trong tương lai và việc nghiên
cứu, ứng dụng công nghệ phiên dịch tại tòa thay thế cho NPD [48].
+ Williamson B. C. Chang và Manuel U. Araujo, “Interpreters for the
defense: Due process for the non-English-speaking defendants”. Cơng trình
đề cập tại Hoa Kỳ, vấn đề đa dạng các ngôn ngữ trong các cộng đồng dân cư
đã gây khơng ít khó khăn trong q trình thực thi cơng lý, việc hiểu sai từ ngữ
sẽ gây hậu quả pháp lý rất đáng tiếc. Tuy nhiên các vướng mắc phát sinh từ
phiên tịa có những bị cáo khơng nói được tiếng Anh sẽ được giải quyết tốt
bởi NPD tại tòa. Tác giả đã khái quát ba vai trò của NPD tại tòa gồm: đặt câu
hỏi với nhân chứng khơng nói được tiếng Anh; giúp cho bị cáo khơng nói
được tiếng Anh hiểu được lời đàm thoại giữa nhân chứng, Công tố viên và
Thẩm phán; giúp cho q trình trao đổi giữa bị cáo khơng nói được tiếng Anh
với Cơng tố viên nói tiếng Anh. Từ đó tác giả tập trung phân tích tầm quan
trọng của NPD tại tòa và nêu ra một số yêu cầu trong vấn đề cải cách tư pháp



15
để đảm bảo quyền lợi hợp pháp và sự tham gia của NPD trong q trình
tranh tụng tại tịa [49].
+ Susan Berk-Seligson, “The bilingual courtroom: Court interpreters in
the judicial proccess”. Tác giả đề cập từ những năm 1960, hệ thống tư pháp
Hoa Kỳ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đa dạng ngôn ngữ
trong xã hội Hoa Kỳ đặc biệt là tại phiên tịa nên đã có một số cải cách trong
vấn đề nhận thức về NPD tại phiên tịa. NPD đã có vị trí pháp lý trong q
trình tranh tụng tại phiên tịa hơn là một công việc được trả công hoặc với tư
cách là NLC. Nội dung của quyển sách này là nhằm đánh giá sự thay đổi của
phiên tịa khi có sự tham gia NPD với tư cách pháp lý riêng và sự thay đổi này
tác động như thế nào đến quá trình pháp lý tại phiên tòa các cấp: Liên bang,
bang và thành phố [46].
+ Kathy Laster và Veronica L. Taylor, Interpreters and the legal system.
Tác giả nêu lên thực trạng của Australia là nước có nền văn hóa đa dạng
với nhiều tiếng nói của nhiều dân tộc khác nhau, do đó vai trò của NPD rất
quan trọng, đặc biệt là trong hệ thống pháp lý; đồng thời phân tích thực trạng
việc sử dụng NPD tại Australia trong thời điểm nghiên cứu. Quyển sách tập
trung phân tích vai trị và quyền lợi của NPD trong quy trình pháp lý như quá
trình điều tra vụ án, q trình tranh tụng tại tịa; đồng thời nêu lên những trách
nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của NPD cần có để đạt được sự chuyên nghiệp
hóa của NPD pháp lý [40].
+ Ikuko Nakane, Partial Non-use of Interpreters in Japanese Criminal
Court Proceedings, Japanese Studies, Vol. 30, No. 3, p.p 443-459, The
University of Melbourne – Australia, 2010. Bài viết nghiên cứu về q trình
xét xử của phiên tịa hình sự Nhật Bản với sự có mặt của NPD (hay vai trị của
NPD trong phiên tịa hình sự ở Nhật Bản). Trong những năm trở lại đây, các
phiên tịa hình sự của Nhật Bản cũng đối mặt với vấn đề về gia tăng tỉ lệ bị cáo
là người nước ngoài, người khơng nói được tiếng Nhật. Trọng tâm nghiên cứu



16
của bài viết là thực trạng hiện nay một số phiên tịa ở Nhật khơng sử dụng
phiên dịch trong suốt của quá trình xét xử mà chỉ sử dụng một phần ở một số
khâu nhất định. Điều này làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả của quá trình xét xử
cũng như ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo tại các phiên tòa trên [38].
+ Judicial Committee of the Privy Council Right to an Interpreter,
Journal of Criminal Law, Vol. 58, 1994. Bản báo cáo của Ủy ban tư pháp
thuộc Hội đồng cơ mật của Vương quốc Anh về một số vụ án được xét xử
trên lãnh thổ Vương quốc Anh trong đó bàn về vấn đề sử dụng NPD đối với
một số bị cáo để đảm bảo vấn đề nhân quyền trong quá trình xét xử. Bản báo
cáo chỉ ra một số hạn chế trong một số vụ xét xử vì khơng đảm bảo quyền lợi
của bị cáo trong đó có quyền được có NPD [39].
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Đánh giá chung về các cơng trình đã được cơng bố có nội dung đề cập đến
vấn đề quyền con người, quyền của người TGTT mà tác giả được tiếp cận, tác
giả thấy rằng chưa có một cơng trình khoa học nào tiếp cận một cách tồn diện,
hệ thống, đồng bộ, sâu sắc về vấn đề bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS. Nhiều vấn đề lý luận quan trọng như thế nào là
bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS, cơ chế
bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS như thế
nào, các biện pháp bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý
trong TTHS ra sao…còn bị bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định
nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa đầy đủ. Do vậy, đa số các
cơng trình chủ yếu phân tích các quy định của pháp luật thực định, có so sánh
với thực tiễn để tìm những bất cập, hạn chế về quyền con người nói chung và
quyền con người trong TTHS nói riêng. Các cơng trình đã được cơng bố chưa
nghiên cứu một cách cụ thể về bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS, chưa xây dựng được một cơ chế bảo đảm quyền của



17
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS về mặt lý luận để từ đó phân
tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp
lý trong TTHS, để từ đó đưa ra những giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
Nhận thấy đây là một vấn đề khó nhưng rất quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn, hơn nữa vấn đề này lại chưa được các cơng trình khoa học nghiên
cứu một cách tồn diện, hệ thống, đồng bộ và đầy đủ. Vì vậy, tác giả đã quyết
định chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý
trong TTHS Việt Nam” làm luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, người TGTT được hiểu như thế nào? Có hay khơng có tiêu
chí phân loại người TGTT? Địa vị pháp lý của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý được pháp luật TTHS quy định như thế nào?
Thứ hai, bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý được hiểu
như thế nào? Cơ chế bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý
trong hoạt động TTHS như thế nào? Cơ sở và các yếu tố bảo đảm quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý như thế nào? Luật TTHS của một số nước
trên thế giới quy định về quyền, bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý như thế nào?
Thứ ba, thực trạng về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS như thế nào? Quyền của những người này đã
được bảo đảm thực hiện có hiệu quả chưa? Quy định đến đâu? Những khoảng
trống nào cần bổ sung? Nếu quyền của những người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS khơng được bảo đảm thì hậu quả sẽ như thế nào?
Thứ tư, những ưu điểm, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của thực trạng bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý; NLC, NGĐ, NPD khi
TGTT có được các CQĐT, VKS, TA bảo đảm quyền theo quy định của



×