Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Quyền tình dục - Pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.55 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ HÀ MY

QUYỀN TÌNH DỤC: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn
thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Vũ Thị Hà My


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN
TÌNH DỤC ..................................................................................... 5
1.1.

Khái niệm quyền tình dục .......................................................................5

1.2.

Đặc điểm của quyền tình dục ...............................................................8

1.3.

Nền tảng xã hội, pháp lý của quyền tình dục ..................................10

1.4.

Nội dung và giới hạn của quyền tình dục ........................................14


1.4.1. Nội dung của quyền tình dục ...................................................................14
1.4.2. Giới hạn của quyền tình dục ....................................................................21
Chương 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN TÌNH DỤC
TRÊN THẾ GIỚI ........................................................................ 26
2.1.

Quyền tình dục theo luật nhân quyền quốc tế ..................................26

2.2.

Thực tiễn và pháp luật về quyền tình dục ở một sớ q́c gia ........32

2.2.1.

Quyền tình dục của nhóm người LGBT trong pháp luật một số quốc gia .... 32

2.2.2.

Quyền tình dục của người khuyết tật trong pháp luật một số quốc gia .... 39

2.2.3.

Quyền tình dục của trẻ vị thành niên trong pháp luật một số quốc gia............ 43

Chương 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA VỀ QUYỀN TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM .............................. 47
3.1.

Quyền tình dục trong pháp luật Việt Nam ........................................47



3.2.

Những vấn đề nảy sinh về quyền tình dục trong thực tiễn ở
Việt Nam ...................................................................................................54

3.2.1. Quyền tình dục vợ chồng và tình dục ngồi hơn nhân .........................54
3.2.2. Quyền tình dục của nhóm LGBT ............................................................57
3.2.3. Quyền tình dục. của người khuyết tật .....................................................60
3.2.4. Quyền tình dục của người già ..................................................................62
3.2.5. Quyền tình dục của trẻ vị thành niên ......................................................63
3.3.

Quan điểm, giải pháp bảo vệ, thúc đẩy quyền tình dục ở Việt Nam.....65

3.3.1. Quan điểm bảo vệ, thúc đẩy quyền tình dục ở Việt Nam ....................65
3.3.2. Giải pháp bảo vệ, thúc đẩy quyền tình dục ở Việt Nam dưới góc
độ xã hội .....................................................................................................67
3.3.3. Giải pháp bảo vệ, thúc đẩy quyền tình dục ở Việt Nam dưới góc
độ pháp lý ...................................................................................................71
KẾT LUẬN ................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADA

Americans with Disabilities Act of 1990 – Đạo luật về
người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990.


BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

DDA

Disability Discrimination Act – Đạo luật chống phân biệt
đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành.

IPPF

The International Planned Parenthood Federation – Liên
đoàn quốc tế của các bậc cha mẹ.

LHQ

The United Nations - Liên hợp quốc

LGBT

Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender (đồng tính, song tính,
chuyển giới)


SRI

Sexual Rights Initiative – Sáng kiến về quyền tình dục.

VTN:

Trẻ vị thành niên.

WHO:

Tổ chức y tế Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Số hiệu bảng

Bảng 2.1. Quyền về tình dục của LGBT trong pháp luật
quốc gia

Trang
34

Bảng 2.2. Tỷ lệ quốc gia không ghi nhận trong pháp luật
các quyền liên quanđến tình dục của người

42


khuyết tật (năm 1997)
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ quốc gia không bảo đảm quyền hưởng
thụ tình dục và các quyền liên quan mật thiết

42

đến tình dục của người khuyết tật (năm 2006)
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ phần trăm các quốc gia khơng có hành
động gì để bảo đảm đời sống gia đình và sự
tồn vẹn cá nhân của người khuyết tật

43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình dục là một nhu cầu cơ bản, chính đáng, lành mạnh của con
người, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm đời sống thể chất,
tình cảm của mỗi cá nhân, và cả trong việc duy trì sự tồn tại của các xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề tình dục ở các nước châu Á đôi khi bị hiểu theo nghĩa
nhạy cảm, thậm chí là những gì dơ bẩn, xấu xa. Vì thế ít được thảo luận,
phân tích một cách khoa học.
Trong bối cảnh ấy, khái niệm quyền tình dục càng trở nên xa lạ ở một
số nước, trong đó có Việt Nam. Từ trước đến nay khái niệm này hầu như chưa
được nghiên cứu, trao đổi, thảo luận rộng rãi và chính thức. Hiểu biết về tình
dục nói chung, quyền tình dục nói riêng ở nước ta, do đó, cịn rất hạn chế.
Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy việc thiếu hiểu biết về
tình dục và quyền tình dục gây ra nhiều vấn đề pháp lý, xã hội, cụ thể như liên
quan đến các chiến lược, chính sách và quy định pháp luật về sức khỏe sinh
sản, và về quyền, nghĩa vụ của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương như phụ

nữ mại dâm, người khuyết tật…Thực trạng này đặt ra nhu cầu cấp thiết
nghiên cứu những vấn đề xã hội, pháp lý về quyền tình dục, qua đó hồn thiện
khung pháp luật, chính sách về vấn đề này ở nước ta. Vì vậy, em lựa chọn đề
tài: “Quyền tình dục: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam” để
làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu về quyền tình dục và
những vấn đề liên quan đến quyền tình dục. Tuy nhiên, vấn đề quyề n tình du ̣c
cũng hiếm khi được thể hiện như là một đề tài độc lập mà nó thường được đề

1

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


cập đến trong các bài viết, nghiên cứu về quyề n của những nhóm người yế u
thế như cô ̣ng đồ ng LGBT, người khuyế t tâ ̣t, phụ nữ mại dâm…Cũng có cơng
trình nghiên cứu quyền tình dục dưới góc độ xã hội. Dưới đây là một số cơng
trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này:
- Ths. Nguyễn Lê Hoài Anh (2012), “Những rào cản đối với việc thực
hiện quyền sức khỏe sinh sản, tình dục của người khuyết tật và giải pháp của
công tác xã hội”, tham luận trong Hội thảo quốc tế về Công tác và chính sách
xã hội, Hà Nội. Cơng trình nghiên cứu chủ yếu về đối tượng là người khuyết
tật chứ không đề cập đến những đối tượng khác.
- Khuất Thu Hồng, Lê Bạch Dương và Nguyễn Ngọc Hường (2012)
“Tình dục : chuyện dễ đùa khó nói.”, Nxb Lao động, tái bản lần 2, Hà Nội.
Cơng trình chủ yếu nghiên cứu về quyền tình dục dưới góc độ xã hội.
- TS. Lê Đình Nghị (2009), “Quyền bí mật đời tư theo quy định của

pháp luật Dân sự Việt Nam.”, luận án tiến sỹ luật học, Trường đai học Luật
Hà Nội, Hà Nội. Công trình nghiên cứu về quyền tình dục dưới góc độ là một
trong những quyền bí mật đời tư của cá nhân.
- Tòa án nhân dân tối cao (1997), “Vai trò của Tòa án nhân dân trong
việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của Bộ luật dân sự”,
Cơng trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, số đăng ký: 96-98-063/ĐT, Hà Nội.
Nghiên cứu quyền tình dục với tư cách là một quyền nhân thân được bảo vệ.
- Tiế n si ̃ Vũ Công Gi ao (2013), “Vấ n đề quyề n tình dục trên thế giới
và một số yêu cầu đặt ra với Viê ̣t Nam”; Tạp chí Luật học ngày 06 tháng 10
năm 2013.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đưa ra được một cái nhìn tồn diện, có tính hệ
thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền tình

2

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


dục trên thế giới và ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải
pháp nhằm bảo vệ, thúc quyền này ở nước ta trong thời gian tới.
Quyền tình dục có nội dung rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều
ngành khoa học xã hội khác nhau. Trong phạm vi luận văn, đề tài này chủ
yếuđề cập và phân tích các khía cạnh pháp lý cơ bản, mà khơng đi sâu nghiên
cứu các khía cạnh tâm lý học, y tế hay xã hội học… của vấn đề.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt
ra trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn là cơng trình chun khảo tồn diện và có hệ thống về những
vấn đề pháp lý, thực tiễn về quyền tình dục trên thế giới và ở Việt Nam. Luận
văn kế thừa, phát triển những nghiên cứu hiện có về vấn đề này, đồng thời bổ
sung một số thơng tin và phân tích mới góp phần làm sáng tỏ hơn thực trạng
và xu hướng bảo đảm quyền tình dục trên thế giới. Qua phân tích làm rõ
khuôn khổ pháp luật và thực tiễn về quyền tình dục ở nước ta, luận văn chỉ ra
những vấn đề cần giải quyết và đề xuất những quan điểm, giải pháp cụ thể về
bảo đảm quyền tình dục ở nước ta trong thời gian tới – điều mà còn chưa
được đề cập rõ ràng trong các cơng trình hiện có.
Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn
bản pháp luật liên quan đến quyền tình dục. Thêm vào đó, luận văn cũng có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy mơn luật
nhân quyền và các mơn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và
các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác.

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around

3


6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của quyền tình dục.

Chương 2: Pháp luật và thực tiễn quyền tình dục trên thế giới.
Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và những vấn đề đặt ra về quyền tình
dục ở Việt Nam.

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN TÌNH DỤC
1.1. Khái niệm quyền tình dục
Khái niệm quyền tình dục bắt đầu được đề cập từ Hội thảo quốc tế về
quyền con người tại Viên (Áo) năm 1993. Trong Tuyên bố Viên và Chương
trình hành động của Hội thảo, thuật ngữ quyền tình dục chưa được nêu lên
trực tiếp nhưng vấn đề đã được đề cập tới trong nội dung yêu cầu chấm dứt
bạo lực về giới, bạo lực tình dục và những nỗ lực thúc đẩy các hoạt động
nhằm bảo vệ và phát triển quyền của phụ nữ. Đến Hội thảo quốc tế về dân số
và sự phát triển của Liên Hợp quốc, tổ chức vào năm 1994 tại Cairo (Ai Cập),
thuật ngữ quyền tình dục mới chính thức được nêu lên cùng với quyền về sức
khỏe sinh sản, tuy nhiên mới chỉ được đưa ra trong mục tiêu hướng tới việc
ghi nhận nói chung sự đảm bảo về quyền sinh sản (reproductive rights) và sức
khỏe tình dục (sexual health) toàn cầu trong các văn kiện và tuyên bố chính
thức của Hội thảo. Nói cách khác, khái niệm quyền tình dục, ở giai đoạn này
chỉ mới được nhìn nhận từ góc độ quyền sinh sản nói chung. Nhưng so với
trước, khi mà tại các chương trình của Liên Hợp Quốc (LHQ) tình dục chỉ
được coi là một cái gì đó được giới hạn và quy định liên quan đến sức khỏe
cộng đồng, những mệnh lệnh hay vấn đề đạo đức, thì giờ đây lần đầu tiên nó

được ghi nhận rõ ràng như một mặt cơ bản và tích cực của sự phát triển con
người. Đến giữa những năm 1990, thuật ngữ “quyền tình dục” mới bắt đầu
được xuất hiện chính thức thơng qua các tài liệu được sử dụng từ các phong
trào trên thế giới về bảo vệ quyền của nhóm LGBT (lesbian, gay, bisexual,
transgender) và bảo vệ quyền của phụ nữ. Thuật ngữ “quyền tình dục” cũng
bắt đầu được sử dụng rộng rãi khi được nêu lên trong những bài viết của các
học giả về vấn đề quyền sinh sản và quyền tình dục.

5

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


Tuy đã được chính thức nêu lên và ghi nhận nhưng một định nghĩa
mang tính chính thức về thuật ngữ này hiện nay vẫn chưa thống nhất. Các học
giả đã thống kê được rằng cho tới nay đã có tới 2002 định nghĩa về “quyền
tình dục” được WHO nêu lên trong nhiều văn bản hoặc phát ngôn của tổ
chức. Năm 2004, “quyền tình dục” được Báo cáo viên đặc biệt của Ủy ban
Nhân quyền Liên Hiệp Quốc chính thức ghi nhận thuộc về quyền con người
cần được bảo vệ khi đề cập đến yêu cầu đảm bảo các điều kiện cao nhất về
sức khỏe thể chất và tinh thần. Theo đó, quyền tình dục được hiểu là quyền
của tất cả mọi người được thể hiện xu hướng tình dục riêng, trong mối quan
hệ tôn trọng quyền của những người khác, không bị đe dọa, mất tự do hoặc
chịu sự can thiệp của xã hội. Kể từ đó tới nay, thuật ngữ này vẫn tiếp tục được
định nghĩa theo nhiều nội dung khác nhau từ các tổ chức và các tuyên bố
chung khác nhau và chưa đi đến một định nghĩa thống nhất mang tính tồn
cầu. Chẳng hạn như:
Theo SRI (Sexual Rights Initiative – tạm dịch là “Sáng kiến về quyền

tình dục” – là một liên minh các tổ chức trên thế giới với mục đích là bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người liên quan đến vấn đề giới và tình dục tại Hội đồng
Nhân quyền của Liên Hợp quốc từ năm 2006) thì quyền con người là tự do và
sự cho phép của mỗi người được sống trong nhân phẩm của mình. Điều này
cần có một mơi trường mà trong đó tất cả mọi người có thể hồn tồn kiểm
soát và quyết định mọi vấn đề liên quan đến tình dục của mình; khơng bị bạo
lực, lạm dụng hay đe dọa trong đời sống tình dục của mình; khơng bị phân biệt
đối xử dựa trên sự thực hành tình dục của mình. Những điều kiện như vậy được
coi là quyền con người liên quan đến tình dục, hay đơn giản cịn gọi là quyền
tình dục, và chính phủ của mỗi quốc gia có nghĩa vụ tơn trọng, bảo vệ và thúc
đẩy những quyền con người cơ bản như thế. Quyền con người liên quan đến
tình dục nhấn mạnh rất nhiều vấn đề và thường liên quan đến nhiều quyền khác

6

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


nhau. Cũng theo SRI, quyền tình dục có thể bao gồm nhưng không giới hạn các
vấn đề như: Giáo dục tình dục; quyền sinh sản; tỉ lệ bệnh tật và tỉ lệ tử vong
liên quan đến mẹ; mại dâm; xác định và sự biểu hiện giới; HIV/AIDS; bạo lực
đối với phụ nữ; tội phạm hóa hay các hạn chế khác đối với nạo phá thai an
tồn; xu hướng tình dục; quyền tình dục của thanh thiếu niên. Theo IPPF (the
International Planned Parenthood Federation – tạm dịch là Liên đoàn quốc tế
các bậc cha mẹ có kế hoạch) thì: “Quyền tình dục là một tập hợp các quyền
đang được củng cố liên quan đến tình dục mà góp phần vào tự do, bình đẳng
và nhân phẩm của tất cả mọi người”[28]. Bên cạnh đó, cịn có một định nghĩa
khơng chính thức trong dự thảo biên bản họp tháng 10/2002 của WHO (World

Health Organization – Tổ chức Y tế thế giới):
Quyền tình dục là những quyền con người được thừa nhận
trong pháp luật của các quốc gia, các văn kiện nhân quyền quốc tế
và các tuyên bố đồng thuận khác. Nó bao gồm quyền của tất cả mọi
người, một cách tự do không bị cưỡng bức, phân biệt đối xử và bạo
lực, được: (1) hưởng các tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe tình dục,
bao gồm việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
và tình dục; (2) tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thơng tin liên quan
đến tình dục; (3) hưởng giáo dục tình dục; (4) tơn trọng sự tồn vẹn
về thân thể; (5) lựa chọn bạn tình; (6) quyết định có tham gia hoạt
động tình dục hay khơng; (7) có các quan hệ đồng thuận về tình
dục; (8) kết hơn dựa trên sự đồng thuận; (9) quyết định có con hay
khơng và vào khi nào; (10) tìm cầu một đời sống tình dục thích thú,
an toàn và thỏa mãn. Mọi người khi hưởng thụ các quyền này đồng
thời có nghĩa vụ tơn trọng các quyền của người khác [37].
Ở Việt Nam, vấn đề quyền tình dục cũng đã bắt đầu được biết đến và
được quan tâm, thảo luận rộng rãi khoảng một thập kỉ trở lại đây. Từ một số

7

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


khái niệm được đưa ra trên đây, cũng có một định nghĩa về quyền tình dục
được đưa bởi một số nhà nghiên cứu nhân quyền Việt Nam:
Quyền tình dục là khả năng của mọi cá nhân, theo một cách thức tự do
và có trách nhiệm, được biểu lộ xu hướng, thực hành và hưởng thụ đời sống
tình dục một mình hoặc với người khác mà khơng phải chịu bất kì sự cản trở,

trừng phạt, lạm dụng, bóc lột hay phân biệt đối xử nào, miễn là không làm
ảnh hưởng đến quyền, tự do và lợi ích chính đáng của người khác và của cộng
đồng [4].
Dù là chưa có một định nghĩa chính thức thống nhất tồn cầu, tuy nhiên,
những khái niệm về quyền tình dục được đưa ra trên đây đều có những đặc điểm
chung nhất định như đều đề cập đến sự tự do tình dục khơng bị phân biệt đối xử,
bạo lực; không làm ảnh hưởng đến quyền, tự do và lợi ích của người khác và đều
có chung mục đích là hướng đến việc bảo vệ tốt nhất con người.
1.2. Đặc điểm của quyền tình dục
Như đã trình bày ở trên, dù chưa có được một định nghĩa chính thức và
được thừa nhận rộng rãi nhưng có thể khẳng định rằng quyền tình dục cũng là
quyền con người, vì thế, quyền tình dục cũng sẽ mang những tính chất cơ bản
của quyền con người. Đó là: tính phổ biến, tính khơng thể bị tước bỏ và tính
liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền tình dục – với tư cách là một quyền
con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da,
dân tộc, giới tính, tơn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù ở trong
những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn
được công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.
- Tính khơng thể bị tước bỏ:
Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền tình dục khơng

8

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around



thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào,
kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc biệt
mới có thể hạn chế quyền này.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:
Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc
thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có
một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.
Ngồi những tính chất chung của quyền con người thì quyền tình dục cũng
có những đặc trưng nhất định, khác biệt so với những quyền con người khác.
Thứ nhất, dù cũng là quyền con người và về nguyên tắc là áp dụng cho
tất cả mọi người (tính phổ quát của quyền con người), nhưng trên thực tế,
quyền tình dục thường được gắn với một số nhóm xã hội nhất định, bao gồm
những nhóm có xu hướng, lựa chọn tình dục khác biệt với số đơng (những
người có quan hệ tình dục đồng tính (gay, lesbian), song tính (bisexual) và
người chuyển giới (transgender), mà được gọi chung là nhóm LGBT) và
những nhóm bị thiệt thòi, lạm dụng hoặc bị phân biệt đối xử trong việc biểu lộ
và hưởng thụ tình dục, cụ thể như những người khuyết tật, phụ nữ, người
sống chung với HIV, người chưa thành niên và trong một chừng mực nhất
định là cả người lao động tình dục (hành nghề mại dâm).
Thứ hai, quyền tình dục dù có những điểm tương đồng nhưng khơng
hồn tồn đồng nhất với các quyền sinh sản (reproductive rights) quyền về
hơn nhân/gia đình (marriage/family rights). So sánh với quyền sinh sản: Về
khái niệm, quyền sinh sản bao gồm những quyền nhất định của con người đã
được thừa nhận trong luật pháp đa số quốc gia, trong các tài liệu quốc tế về
quyền con người và các thoả ước khác. Những quyền này dựa vào sự thừa
nhận quyền cơ bản của mọi cặp vợ chồng và các cá nhân trong việc quyết

9


Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


định một cách tự do và có trách nhiệm đối với số con, khoảng cách giữa các
lần sinh, và thời gian có con; họ có quyền được cung cấp thơng tin và phương
tiện để làm những điều đó, cũng như có quyền đạt đến tiêu chuẩn cao nhất về
sức khoẻ tình dục và sức khoẻ sinh sản. Khái niệm này cũng bao gồm cả
quyền ra các quyết định liên quan đến sinh sản một cách tự do, không bị phân
biệt đối xử, không bị ngược đãi và bạo lực, như đã đề cập trong các tuyên bố
về nhân quyền. Như vậy, quyền sinh sản chủ yếu đề cập đến tự do của các cá
nhân trong việc ra những quyết định liên quan đến con cái và việc được tiếp
cận với các dịch vụ về sức khỏe sinh sản. Còn quyền tình dục như đã trình
bày ở trên chủ yếu tập trung vào tự do tình dục. Do đó, về nội hàm, quyền
tình dục rộng hơn và bao hàm quyền sinh sản. So sánh với quyền về hơn
nhân/gia đình thì: Đúng như tên của nó, quyền về hơn nhân/gia đình chủ yếu
đề cập đến chế độ hơn nhân và gia đình, mối quan hệ và cách ứng xử giữa các
thành viên trong gia đình (giữa con cái với bố mẹ, ơng bà và ngược lại). Như
vậy, có thể thấy quyền tình dục hẹp hơn quyền về hơn nhân/gia đình về khía
cạnh con cái và tài sản. Về phương diện lịch sử, quyền hơn nhân/gia đình và
quyền sinh sản được pháp điển hoá trong luật quốc tế và luật quốc gia sớm
hơn so với quyền tình dục. Từ nhiều góc độ, đặc biệt là góc độ pháp lý, có thể
coi quyền tình dục là một sự phát triển, mở rộng về phương diện tự do tình
dục của các quyền về hơn nhân/gia đình và quyền sinh sản.
1.3. Nền tảng xã hội, pháp lý của quyền tình dục
Vấn đề quyền tình dục mới xuất hiện từ thập kỷ 90. Quyền tình dục là
khái niệm được đưa ra sau khi nổi lên một số vấn đề như: tình dục đồng giới,
xu hướng tình dục, bản dạng giới, sức khỏe sinh sản, đại dịch HIV trong mối
quan hệ với tình dục đồng giới…Tuy vậy, những thành tố nền tảng về xã hội,

pháp lý cấu thành nên quyền này đã tồn tại từ rất lâu. Hơn nữa, quyền tình
dục với tư cách là một quyền con người là một phạm trù đa diện, cần được

10

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


nhìn tổng thể từ nhiều góc độ và phương diện. Vậy nên, khi xem xét nền tảng
xã hội, pháp lý của quyền tình dục, cần tiếp cận từ góc độ xã hội bao gồm ý
thức hệ tôn giáo – đạo đức, văn hóa, chính trị, phong tục tập qn để thấy
được các quan niệm xã hội về vấn đề tình dục nói chung và vấn đề quyền tình
dục nói riêng, tiếp đó là các quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan
đến quyền tình dục – cái phản ánh những quan niệm trong xã hội nói trên,
những án lệ liên quan đến vấn đề tình dục, từ đó có một cách nhìn khái qt
nhất về gốc rễ và sự phát triển của quyền tình dục theo dịng lịch sử.
Dưới góc độ lịch sử - xã hội, quyền tình dục bắt nguồn từ các quan hệ
xã hội, là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội trong
lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người nói
chung cũng như mỗi quốc gia nói riêng ln tồn tại những quan niệm khác
nhau về quyền tình dục và có những quy phạm và cơ chế khác nhau để thực
hiện, giám sát và bảo vệ quyền tình dục. Theo dòng lịch sử, ảnh hưởng và tác
động của quyền tình dục ngày càng mở rộng, từ ý niệm, tư tưởng đến các quy
tắc, quy phạm và cơ chế, từ cấp độ cộng đồng đến cấp độ quốc gia, khu vực
và quốc tế. Trong suốt quá trình phát triển này, quyền tình dục ln mang dấu
ấn về chính trị, kinh tế, văn hóa của từng thời kì, từng giai đoạn lịch sử của xã
hội loài người. Làm rõ luận điểm này, chúng ta nhắc đến nhà nước chủ nô –
nơi những người nô lệ, không phân biệt nam, nữ đều được coi như “hàng

hóa”, “cơng cụ biết nói” của chủ nơ, rõ ràng vấn đề quyền tình dục của họ sẽ
không bao giờ được đặt ra, được coi trọng. Đến những năm cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20, người ta nói đến thuyết nữ quyền và các làn sóng nữ quyền như
là một phong trào xã hội mà mục đích căn bản là đạt được sự bình đẳng giữa
đàn bà và đàn ơng mà trong đó, những vấn đề về tự do tình dục, hơn nhân gia
đình ln được đề cập đến. Hiện nay, đa số các quốc gia khơng cấm kết hơn
đồng giới, tuy trong đó có một số không thừa nhận hôn nhân giữa họ (Trung
Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc,…); một số quốc gia đã công nhận hôn

11

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


nhân đồng giới (Hà Lan, Bỉ, Argentina, Tây Ba Nha, Canada, Nam Phi, Na
Uy, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Iceland, Đan Mạch, Urugoay, New Zealand,
Pháp, Anh, Brazil). Một số quốc gia khơng thừa nhận đồng tính (những người
có quan hệ tình dục đồng tính (gay, lesbian), song tính (biasexual) và người
chuyển giới (transgender), mà được gọi chung là nhóm LGBT) và những
nhóm bị thiệt thịi, lạm dụng hoặc bị phân biệt đối xử trong việc biểu lộ và
hưởng thụ tình dục, cụ thể như những người khuyết tật, phụ nữ, người sống
chung với HIV, người chưa thành niên và trong một chừng mực nhất định là
cả người lao động tình dục (hành nghề mại dâm).
Dưới góc độ đạo đức – tơn giáo, những ý niệm đầu tiên về quyền tình
dục mà xuất phát điểm từ quyền con người được nảy sinh từ quan niệm về các
chuẩn mực xã hội. Những chuẩn mực xã hội là những quy tắc ứng xử giữa
người với người trong xã hội mà tất cả mọi người đều phải tuân theo để có thể
cùng tồn tại hòa thuận với nhau. Những giá trị và khái niệm về chuẩn mực,

phép tắc xã hội thường được dựa trên ý thức hệ tôn giáo và đạo đức. Trong
suốt quá trình phát triển của quyền tình dục, kể cả khi đã được pháp điển hóa
trong pháp luật quốc gia và quốc tế, nó vẫn bị các phạm trù đạo đức và tơn
giáo chi phối. Sự chi phối đó khơng bộc lộ mà lặng lẽ, ấn tàng nhưng sâu sắc.
Có thể lấy ví dụ như trong pháp luật Việt Nam, quan điểm lập pháp chịu ảnh
hưởng của những rào cản đạo đức, văn hóa truyền thống nên vấn đề về quyền
tình dục hay tự do tình dục khơng được đề cập, quy định một cách trực tiếp
mà sẽ được gián tiếp ghi nhận, bảo vệ trên nhiều phương diện pháp lý khác
nhau, như pháp luật dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình…
Về mặt pháp lý, Châu Âu thời kì khai sáng đã kế thừa luật hình sự
được tạo ra trong các đoạn Biblical và trong năm dài truyền thống của Cơ đốc
giáo rằng cần thiết phải tử hình cho những ai có hành vi quan hệ tình dục
khơng nhằm mục đích sinh sản.
Cuộc cách mạng ở Pháp đã phá tan truyền thống này của Châu Âu bằng

12

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


việc hủy bỏ những tội về phạm trù đạo đức bao gồm cả tội quan hệ đồng giới,
theo bộ luật hình sự 1791 của nước Pháp. Tiếp tục được sửa đổi bởi vua
Napoleon, và được truyền bá rộng rãi bởi sự mở rộng lãnh thổ xâm chiếm, Bộ
luật được ban hành khắp Châu Âu lục địa. Sau triều đại Napoleon, hầu hết các
nước đều bãi bõ Bộ luật này của Napoleonic, tuy nhiên một số nước đặc biệt
là Pháp, Belgium, Tây Ba Nha và Hà Lan vẫn hình sự hóa tội quan hệ đồng
tính. Ở Ý, năm 1889 (Vương quốc của hai Sicilies và sau đó là Vương quốc
Naples) hợp pháp hóa hành vi quan hệ đồng tính tự nguyện giữa những người

trưởng thành, và Bồ Đào Nha cũng như vậy năm 1852 (tuy nhiên, tội này lại
được quy định năm 1912). Sau đó, một số quốc gia mới được hình thành ở
Châu Âu giữa thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, như Ý và Ba Lan, chưa từng có quy
định cấm quan hệ đồng giới, hay thông qua bất kì bộ luật nào của Napoleonic
ngay sau khi dành được độc lập. Ở một số khu vực khác, một số ít quốc gia
khác hợp pháp hóa quan hệ đồng tính: ví dụ như, ở Nhật, năm 1883, Chính
phủ ra quyết định hợp pháp hóa quan hệ đồng tính tự nguyện giữa những
người đàn ông năm 1873.
Sự thay đổi trong việc hợp pháp hóa trong thời kì hiện đại bắt đầu từ
giữa thế kỉ 19. Những tranh luận bắt đầu trong lĩnh vực khoa học xã hội, đặc
biệt trong lĩnh vực tâm lý học. Đan Mạch là quốc gia đầu tiên của những năm
thế kỉ 20 bãi bỏ luật về những người đồng tính năm 1993, tiếp sau đó là Thụy
Sĩ năm 1941 và Thụy Điển năm 1944. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Báo cáo
của Wolfenden Anh năm 1957 và Bộ luật Hình sự hiện đại của Mỹ, được soạn
thảo lần đầu năm 1959, cho rằng tội quan hệ đồng tính nên được bãi bỏ. Bang
Illinois của Mỹ là quốc gia đầu tiên chấp nhận khuyến nghị này vào năm
1961. Năm 1983, một nửa bang của Mỹ theo chân bang Illinois. Các nước
Châu Âu đều theo bước tương tự nhưng có một chút khác biệt về quỹ đạo, lộ
trình. Czechoslovakia và Hungary là những quốc gia trong nhóm này bãi bỏ

13

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


luật về những người đồng tính của họ, cũng trong năm 1961. Trước năm
1983, hầu hết Châu Âu ở cả hai bên của “tấm rèm sắt” hợp pháp hóa quan hệ
đồng tính, chỉ duy nhất 5 nước, các quốc gia phụ thuộc của Anh, và một số

phần của Yugoslavia vẫn duy trì luật chống lại quan hệ đồng tính.
Một số quốc gia Mỹ latinh và Đông Á hoặc là chưa từng có quy định
cấm quan hệ đồng tính một cách rõ ràng như Nhật, Mexico và Brazil, hoặc là
ban hành một bộ luật tương tự Bộ luật Napoleonic trong suốt thế kỉ 19. Có
một số ngoại lệ đáng chú ý, bên cạnh các quốc gia được nói đến ở đoạn trên,
bao gồm Trung Quốc, không bãi bỏ luật chống lại quan hệ đồng tính cho đến
năm 1993, và các nước thuộc đại trước của Anh ở Đông Nam Á, vẫn duy trì
luật chống lại quan hệ đồng tính cho đến ngày nay.
Hầu hết các nước thuộc địa của Anh trước đây ở Châu Phi, vùng
Caribbean và Nam á đều vẫn duy trì luật chống lại người đồng tính của họ, cả
vùng Trung Đông và Bắc Mỹ, Israel. Liên quan đến các nước thuộc địa của
Anh trước đây ở vùng Caribbean, rất nhiều cụm từ “luật tiền tiết kiệm” trong
hiến pháp, duy trì luật thuộc địa cũ và luật Victorian, bao gồm những quy
định năm 1861 của Bộ luật Tội phạm của Anh đối với cá nhân và Luật Hình
sự sửa đổi 1885, quy định tội quan hệ đồng giới và tội khiếm nhã. Vương
quốc Anh bãi bỏ Luật Victorian chống lại quan hệ đồng tính thơng qua việc
lấy ý kiến một cách bừa bãi: bắt đầu với luật và cuộc tranh cãi về đạo đức đã
dẫn đến Báo cáo Wolfenden, sau đó là sự sửa đổi luật những năm 1960 và sự
can thiệp nhân quyền do sự ra đời của hệ thống nhân quyền Châu Âu.
1.4. Nội dung và giới hạn của quyền tình dục
1.4.1. Nội dung của quyền tình dục
Hội nghị thế giới lần thứ 14 về tình dục của WHO được tổ chức tại
Hồng Kông, Trung Quốc năm 1999 đã cụ thể hóa khái niệm quyền tình dục
thơng qua Tun ngơn tồn cầu về quyền tình dục. Theo đó, quyền tình dục

14

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around



bao gồm các nội dung sau: Quyền tự do tình dục (right to sexual freedom);
quyền tự chủ về tình dục, tồn vẹn về tình dục và được an tồn thân thể trong
hoạt động tình dục (right to sexual autonomy, sexual integrity, safety of the
sexual body); quyền về sự riêng tư trong tình dục (right to sexual privacy);
quyền được cơng bằng trong tình dục (right to sexual enquity); quyền được
hưởng khối lạc tình dục (right to sexual pleasure); quyền được bày tỏ xúc
cảm tình dục (the right to emotional sexual expression); quyền được tự do kết
hợp về tình dục (the right sexually associate freely); quyền được tự do quyết
định một cách có trách nhiệm về việc sinh đẻ (the right to make free and
responsible reproductive choices); quyền được tiếp nhận những thơng tin
khoa học về tình dục (the right to sexual information based upon scientific
inquiry); quyền được giáo dục tình dục toàn diện (the right to comprehensive
sexuality education); quyền được chăm sóc sức khỏe tình dục (the right to
sexual health care).
 Quyền tự do tình dục
Tình dục là quyền tự nhiên của con người. Với bản năng của con
người, khi đạt đổ tuổi nhất định thì nhu cầu về quan hệ tính giao khởi phát
theo sự phát triển của những tiết tố giới tính tự nhiên. Nói đến quyền tự do
tình dục là nói đến khả năng các cá nhân được thể hiện đầy đủ tiềm năng tình
dục của mình.Tự do về tình dục góp cho con người giải phóng mọi cảm xúc,
khiến người quan hệ tình dục tìm kiếm được các khối cảm khác lạ.
Quyền tự do tình dục được gắn liền với quyền tự nguyện của chủ thể
trong quan hệ tình dục. Quyền tự do tình dục của các nhân luôn luôn được
quy định, bảo vệ bằng pháp luật, quyền đó khơng vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái đạo đức xã hội. Các hành vi dùng bạo lực hay thủ đoạn để
xâm phạm đến quyền tự do tình dục đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Chính
vì vậy quyền tự do tình dục khơng những giúp con người tìm đến được những


15

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


khối cảm mà cịn giúp loại trừ mọi dạng cưỡng bức, bóc lột và lạm dụng tình
dục trong mọi thời điểm và bối cảnh của cuộc sống.
 Quyền tự chủ về tình dục, tồn vẹn về tình dục, và được an tồn thân
thể trong hoạt động tình dục.
Quyền tự chủ về tình dục là khả năng của con người được tự quyết định
trong các hoạt động tình dục nhưng phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
của cá nhân và của cả cộng đồng cũng như sự khả năng kiểm soát và thụ
hưởng khoái cảm từ cơ thể của mỗi cá nhân mà không bị tra tấn, lạm dụng
hoặc bất kỳ hình thức bạo lực nào khác. Sự tồn vẹn về tình dục chính là việc
thực hiện tình dục một cách đầy đủ, không bị cản trở.
Những tai nạn trong chốn phịng the khơng phải là hiếm gặp. Quyền
tình dục là quyền tự nhiên và nhân văn của mỗi cá nhân. Nhưng nếu khơng
được quyền tự chủ, tồn vẹn và được an tồn thân thể trong hoạt động tình
dục thì rất dễ xảy ra trường hợp bị lạm dụng, xúc phạm hoặc thậm chí là bạo
hành tình dục. Khơng ít những trường hợp một số cá nhân chỉ tìm thấy khối
lạc khi gây thương tích, hoặc hành hạ đối tác của mình trong quan hệ tình
dục. Những hành vi tình dục như thế bị pháp luật nghiêm cấm để bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
 Quyền về sự riêng tư trong tình dục.
Quyền về sự riêng tư trong tình dục là khả năng con người được người
khác tôn trọng, không can thiệp vào các quyết định và hành vi tình dục của
mifh, miễn là khơng làm ảnh hưởng đến các quyền tình dục của người khác
và không vi phạm pháp luật. Đây được coi là một nội dung của quyền tình

dục bởi tình dục là yếu tố thuộc đời sống tinh thần của mỗi cá nhân; mỗi cá
nhân có nhu cầu, cách thức thực hiện hành vi tình dục khác nhau.
Sự riêng tư trong tình dục thể hiện rõ nhất ở sự đảm bảo bí mật về
những thơng tin tình dục của mỗi cá nhân ở quá khứ và hiện tại như: đối tác

16

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


quan hệ tình dục, tần suất quan hệ, nhu cầu quan hệ tình dục, sở thích quan hệ
tình dục….Những thơng tin này một khi được đưa ra bàn tán, trao đổi thông
tin sẽ làm tổn thương đến danh dự, nhân phẩm cũng như tâm lý của con
người. Vì vậy, những thơng tin này khơng thể tùy tiện nói, càng khơng thể là
chủ đề để mua vui, bàn tán.. Sự riêng tư trong tình dục cũng được áp dụng
đối với cả quan hệ tình dục giữa vợ chồng. Đây là biểu hiện của sự tôn trọng
vợ, chồng và là một trong những yếu tố giữ gìn hạnh phúc gia đình.
 Quyền được cơng bằng trong tình dục.
Nói đến quyền được cơng bằng trong tình dục là nói đến việc được ghi
nhận, đối xử và bảo đảm sự ngang bằng giữa các cá nhân trong quan hệ tình
dục với nhau và giữa những chủ thể khác nhau trong xã hội. Quyền được
công bằng trong tình dục gắn liền với quyền tự do trong tình dục; quyền được
cơng bằng trong tình dục xuất phát từ nền tảng là quyền tự do trong tình dục.
Nói cách khác, cơng bằng trong tình dục chính là các cá nhân được tự do hoạt
động và hưởng thụ tình dục mà khơng bị phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ yếu
tố nào như giới tính, độ tuổi, thể trạng, khuynh hướng tình dục, thành phần xã
hội, tơn giáo, sức khỏe về thể chất và tinh thần.
Dù con người thuộc giới tính nào thì cũng đều có quyền được hưởng tự

do trong tình dục, cũng đều có nhu cầu tình dục, vì thế dù là nam hay nữ, dù
là người chuyển giới hay người đồng giới thì quyền tình dục của họ đều phải
được ghi nhận như nhau. Vì thế, hành vi lạm dụng tình dục của người chồng
đối với vợ hay sự miệt thị, phỉ báng khi cho rằng nhu cầu tình dục của những
người đồng giới, người chuyển giới là bệnh hoạn đều là những hành vi vi
phạm quyền tự do, cơng bằng trong tình dục của con người.
Ngồi ra, trong xã hội cịn có một số nhóm đối tượng khác rất cần được
đảm bảo quyền cơng bằng trong tự do tình dục. Đó là nhóm người khuyết tật,
người già và trẻ vị thành niên. Nói vậy bởi đây là những nhóm người có đặc

17

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


điểm thể trạng sức khỏe cũng như tinh thần có sự thiệt thịi, có sự thay đổi đặc
biệt nhưng họ vẫn có nhu cầu về tình dục và đó là nhu cầu chính đáng cần
được đáp ứng và bảo vệ.
 Quyền được hưởng khối lạc trong tình dục.
Lâu nay, ở Việt Nam, phần lớn người dân đều nghĩ mục đích quan
trọng nhất, lớn nhất của tình dục là sinh đẻ để duy trì nịi giống mà ít ai nói
đến khối lạc trong tình dục mặc dù ai khi quan hệ tình dục đều mong muốn
để thõa mãn dục tính của mình tại một thời điểm nhất định nào đó. Hồn cảnh
xã hội, sự hạn hẹp trong suy nghĩ đã dẫn đến thực trạng trên. Trái lại, ở một
số nước tiến bộ trên thế giới lại rất đề cao quyền được hưởng khối lạc trong
tình dục của con người. Quyền này cũng gắn liền với quyền tự do trong tình
dục. Quyền được hưởng khối lạc trong tình dục có thể hiểu là sự tự do của cá
nhân được hưởng thụ khoái lạc cũng như tự do sử dụng các cách thức,

phương tiện để đạt được khối lạc trong tình dục bao gồm cả thủ dâm và sử
dụng đồ chơi tình dục.
Khối lạc trong tình dục của mỗi cá nhân là khác nhau. Mỗi các nhân
sẽ đạt khối cảm tình dục khác nhau ở những cách thức giao hợp khác nhau.
Cá nhân khơng chỉ thỏa mãn khối lạc tình dục khi được kích thích, giao hợp
bởi người khác mà cịn có thể tự mình tạo ra khối lạc cho mình thơng qua thủ
dâm hay đồ chơi tình dục. Điều đó khơng chỉ là sự tự do mà còn là quyền
riêng tư của mỗi cá nhân nên rất cần được tôn trọng và bảo vệ.
 Quyền được bày tỏ cảm xúc tình dục.
Nói đến quyền được bày tỏ cảm xúc tình dục là nói đến sự tự do của
con người được thơng qua các hình thức giao tiếp, đụng chạm, và những cách
thức biểu hiện tình cảm khác để bày tỏ cảm xúc tình dục của mình. Điều này
là tất yếu bởi khơng thể có tự do tình dục hay khối cảm tình dục nếu khơng
được thực hiện tình dục thơng qua các hành vi. Việc bày tỏ cảm xúc tình dục

18

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


nếu phù hợp sẽ mang đến khoái lạc một cách dễ dàng cho cả bản thân và đối
tác quan hệ tình dục.
Quyền được bày tỏ cảm xúc tình dục ln gắn liền với quyền tự do
trong tình dục. Có người thích nhẹ nhàng, âu yếm nhưng cũng có những
người chỉ đạt khoái lạc khi sử dụng “khẩu dâm” hay cũng có người chỉ thích
đụng chạm, tiếp xúc bằng da thịt…Tuy nhiên, sự tự do bày tỏ cảm xúc tình
dục này phải trên cơ sở tự nguyện và trong khuôn khổ phù hợp với thuần
phong mỹ tục và phong tục tập qn. Tự do bày tỏ cảm xúc tình dục mà

khơng có sự tự nguyện thì sẽ trở thành quấy rối tình dục. Tự do bày tỏ cảm
xúc tình dục mà thiếu tế nhị, không phù hợp thuần phong mỹ tục, làm ảnh
hưởng đến người khác thì cần phải được cấm hoặc xử phạt.
 Quyền được tự do kết hợp về tình dục.
Quyền này nói đến sự tự do của cá nhân khi lựa chọn đối tác làm bạn
tình cũng như lựa chọn cách thức quan hệ tình dục để đạt được khối cảm
trong tình dục. Tuy nhiên, sự tự do kết hợp về tình dục kéo theo yêu cầu mỗi
cá nhân phải có trách nhiệm đối với hành vi kết hợp về tình dục của mình.
Sự kết hợp về tình dục không bị giới hạn bởi quan hệ hôn nhân. Nghĩa
là không phải chỉ những người đang trong thời kỳ hơn nhân mới được quan hệ
tình dục. Thực tế cho thấy rằng rất nhiều người sống độc thân, không muốn
kết hơn vì nhiều lý do hay những người đã ly hơn đều có đời sống tình dục.
Bởi những đối tượng này đều có nhu cầu về tình dục và quyền tình dục của họ
là chính đáng cần được đáp ứng và bảo vệ. Vậy nên, họ có quyền tự do lựa
chọn bạn tình cho mình hay lựa chọn cách quan hệ để thỏa mãn nhu cầu tình
dục, hay để có con nương tựa lúc về già.
Tuy nhiên, sự tự do nói trên phải đi kèm với trách nhiệm của mỗi cá
nhân. Sự tự do kết hợp bạn tình của những người đang có vợ hoặc chồng
(hoặc cá nhân độc thân tự do kết hợp bạn tình với người đang có vợ hoặc

19

Formatted: Position: Horizontal: Center,
Relative to: Margin, Vertical: 0", Relative to:
Paragraph, Wrap Around


×