Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Phân tích các tác động của biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trườn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.4 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-----

-----

BÀI THẢO LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài: Phân tích các tác động của biện pháp thuế quan đối với
mặt hàng gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.

Giảng viên hướng dẫn

: Lê Hải Hà

Nhóm thực hiện

:5

Lớp học phần

: 2302FECO2051

Hà Nội, 2023


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 08 tháng 04 năm 2023
BIÊN BẢN HỌP NHĨM THẢO LUẬN
CHÍNH SÁCH KINH TẾ QUỐC TẾ


Nhóm 5.
Hôm nay, vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 08 tháng 04 năm 2023.
Tại: Google Meet.
Diễn ra cuộc họp với nội dung: Thảo luận về đề tài: Phân tích các tác động của biện
pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU.
I. Thành phần tham dự
1. Phạm Bá Khải
Chức vụ: Thành viên
2. Đinh Quốc Khánh

Chức vụ: Nhóm trưởng

3. Nguyễn Duy Khánh

Chức vụ: Thành viên

4. Vũ Nam Khánh

Chức vụ: Thành viên

5. Ngô Minh Khôi

Chức vụ: Thành viên

6. Lê Hải Lam

Chức vụ: Thành viên

7. Nguyễn Thị Phương Lam


Chức vụ: Thành viên

8. Chu Ngọc Lan

Chức vụ: Thư ký

9. Nguyễn Hà Lan

Chức vụ: Thành viên

10. Vũ Thị Ngọc Lan

Chức vụ: Thành viên

Số lượng thành viên tham dự: 10/10 (đủ)
II. Nội dung cuộc họp
1. Các thành viên đưa ra ý kiến về nội dung bài thảo luận của nhóm và chỉnh sửa.
u cầu: Nhận xét tồn bộ bài thảo luận, đưa ra nhận xét hợp lý, thuyết phục để chỉnh
sửa nội dung.
2. Nhóm tiến hành chỉnh sửa bản powerpoint bài thảo luận của nhóm: Trưởng nhóm
trình chiếu phần slide, các thành viên khác cùng theo dõi, đưa ra ý kiến nhận xét và
chỉnh sửa.
Cuộc họp kết thúc lúc 23 giờ ngày 08 tháng 04 năm 2023.
Nhóm trưởng

Thư ký

Khánh

Lan


Đinh Quốc Khánh

Chu Ngọc Lan


BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ NHĨM 5
STT

Họ và tên

Nhiệm vụ

Đánh giá

Nội dung phần 2.4

A

Powerpoint

A

41

Phạm Bá Khải

42

Đinh Quốc Khánh


43

Nguyễn Duy Khánh

Nội dung chương 3

A

44

Vũ Nam Khánh

Nội dung phần 2.3

A

45

Ngô Minh Khôi

Nội dung phần 2.3

A

46

Lê Hải Lam

Nội dung chương 1


A

47

Nguyễn Thị Phương Lam

Nội dung phần 2.1

A

48

Chu Ngọc Lan

Word - Mở đầu - Kết luận

A

49

Nguyễn Hà Lan

Thuyết trình

A

50

Vũ Thị Ngọc Lan


Nội dung phần 2.2

A


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 2
Chương 1: Cơ sở lý luận ....................................................................................... 2
1.1. Khái niệm thuế quan .................................................................................2
1.2. Phân loại các biện pháp thuế quan ........................................................... 2
1.3. Tác động của thuế quan đối với các mặt hàng xuất khẩu ........................ 2
1.4. Biện pháp thuế quan của EU đối với hàng hóa Việt Nam .......................3
Chương 2: Tác động của biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ Việt Nam
xuất khẩu sang EU .................................................................................................4
2.1. Thực trạng xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang thị trường EU ................... 4
2.2. Thực trạng các biện pháp thuế quan áp dụng với mặt hàng gỗ của Việt
Nam vào thị trường EU ................................................................................... 7
2.3. Tác động của biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ của Việt Nam
vào thị trường EU trong bối cảnh thực thi EVFTA ...................................... 12
2.4. Đánh giá ..................................................................................................17
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp ..................................................................... 20
3.1. Đối với Nhà Nước .................................................................................. 20
3.2. Đối với Doanh Nghiệp ........................................................................... 21
C. PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................24


A. PHẦN MỞ ĐẦU

Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu về xuất khẩu gỗ sang thị trường
Châu Âu, đặc biệt là EU. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2021, khi Hiệp định Thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực, EU
đã áp dụng một số biện pháp giải quyết thuế quan đối với mặt hàng gỗ xuất khẩu từ
Việt Nam nhằm kiểm tra giám sát việc khai thác và vận chuyển gỗ bất hợp pháp.
Cụ thể, EU đã áp dụng mức thuế quan từ 6% đến 15% đối với một số loại sản
phẩm gỗ của Việt Nam như ván ép, ván dăm, tấm lót sàn, gỗ xẻ, gỗ ghép và gỗ thơng.
Biện pháp này nhằm mục đích đảm bảo rằng các sản phẩm gỗ được nhập khẩu vào EU
đều đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và kiểm soát việc khai thác gỗ bất hợp
pháp.
Tuy nhiên, biện pháp quan thuế này đã ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp và
ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam. Việc áp dụng quan thuế đã làm tăng giá thành
sản phẩm và làm giảm nhu cầu của các nhà nhập khẩu tại EU, từ đó ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành công nghiệp gỗ Việt Nam. Đồng thời, các
doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các rủi ro trong quá trình khai thác và vận chuyển
gỗ để trả lời câu hỏi của các môi trường tiêu chuẩn và kiểm tra giám sát bất hợp pháp.
Do đó, việc phân tích các tác động của biện pháp thuế quan đối với mặt hàng
gỗ Việt Nam xuất khẩu sang EU là rất cần thiết để đánh giá thực trạng hiện tại và tìm
ra giải pháp phù hợp cho ngành cơng nghiệp gỗ Việt Nam Nam thích nghi và phát
triển trong bối cảnh thị trường xuất khẩu đang thay đổi.
Đề tài này sẽ tập trung vào công việc đánh giá những ảnh hưởng của biện pháp
biện pháp thuế quan đối với ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang thị
trường EU. Đồng thời, đề tài cũng sẽ đề cập đến những giải pháp có thể giúp mặt hàng
gỗ xuất khẩu của Việt Nam phát triển trong bối cảnh thị trường xuất khẩu đang thay
đổi.

1


B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm thuế quan
Thuế quan là loại thuế đánh lên sản phẩm đi chuyển qua biên giới quốc gia. Nói
một cách khác, thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng xuất khẩu hay
nhập khẩu của một quốc gia.
1.2. Phân loại các biện pháp thuế quan
Các biện pháp thuế quan bao gồm:
- Phương pháp tính thuế tương đối: Phương pháp tính thuế tương đối hay cịn gọi
là thuế quan tính theo giá trị hàng hóa là loại thuế tính theo tỷ lệ phần trăm (%) của
mức giá hàng hóa phải trả theo giá trị của hàng hóa thương mại.
Cách tính: P1 = P0* (1+t)
- Phương pháp tính thuế tuyệt đối: Phương pháp tính thuế tuyệt đối hay cịn gọi
là thuế quan tính theo số lượng, thuế quan đặc định – specific tariff) là loại thuế được
thể hiện bằng một khoản tiền cụ thể đánh vào một hàng hóa nhập khẩu cụ thể. Thuế
tuyệt đối là việc ấn định số tiền thuế cố định tính trên một đơn vị hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu.
Cách tính: P1 = P0 + ts
- Phương pháp tính thuế hỗn hợp: Phương pháp tính thuế hỗn hợp là việc áp
dụng đồng thời phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm và phương pháp tính thuế
tuyệt đối.
Số thuế áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp được xác định là tổng số thuế
theo tỷ lệ phần trăm và số thuế tuyệt đối
1.3. Tác động của thuế quan đối với các mặt hàng xuất khẩu
❖ Tác động tích cực:
- Thuế quan trước hết là nhằm điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
Lượng hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu phụ thuộc vào sự tiêu thụ hàng hóa, yếu tố
này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả lên xuống làm giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa. Một bộ phận quan trọng tác động đến sự lên xuống của giá cả hàng hóa
ngoại thương đó là thuế quan. Thuế quan đánh thấp hay đánh cao ảnh hưởng đến sức
cạnh tranh của hàng hóa, do đó thơng qua mức thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập

2


khẩu người ta gián tiếp điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, đối
với một số hàng hóa nhập khẩu nhà nước giảm thuế quan để khuyến khích tăng quy
mơ nhập khẩu;
- Thuế quan có tác dụng bảo hộ thị trường nội địa vì đánh thuế cao vào những
hàng hóa nhập khẩu, giúp các nhà sản xuất trong nước bằng giá rẻ có thể cạnh tranh
với hàng hóa nhập khẩu. Đặc biệt thuế quan giúp các doanh nghiệp sản xuất non trẻ ở
trong nước có thời gian để phát triển và sinh lời nhằm có thể cạnh tranh với hàng nhập
khẩu trong tương lai. Vì những doanh nghiệp non trẻ thường phải chi phí ban đầu cao,
chưa có thị trường rộng lớn nên những doanh nghiệp này có thể bị bóp chết trong
trường hợp thương mại tự do khi bị hàng nhập khẩu cạnh tranh;
- Thuế xuất khẩu giúp hạn chế xuất khẩu quá mức những mặt hàng khai thác từ
tài nguyên thiên nhiên, gây mất cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, những
mặt hàng ảnh hưởng tới an ninh lương thực quốc gia nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia.
❖ Tác động tiêu cực:
- Giảm khả năng tiếp cận thị trường: Thuế quan có thể làm giảm khả năng tiếp
cận thị trường đối với các sản phẩm xuất khẩu, làm cho các sản phẩm này trở nên
không cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế;
- Tạo ra một môi trường kinh doanh không công bằng: Thuế quan có thể làm cho
các sản phẩm của một số quốc gia trở nên không cạnh tranh hơn so với sản phẩm của
các quốc gia khác, gây ra một môi trường kinh doanh không công bằng;
- Gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế: Thuế quan có thể làm giảm số lượng
hàng hóa được xuất khẩu, ảnh hưởng đến nền kinh tế nước xuất khẩu và các doanh
nghiệp liên quan;
- Tạo ra căng thẳng trong quan hệ thương mại: Áp thuế quan có thể gây ra căng
thẳng trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia, đặc biệt là khi các quốc gia phản
đối việc áp thuế quan và áp đặt các biện pháp trả đũa;
- Giảm lợi ích của người tiêu dùng: Thuế quan có thể làm tăng giá thành các sản

phẩm, gây ra sự bất lợi cho người tiêu dùng và có thể giảm động lực tiêu dùng.
Tuy nhiên, các tác động của thuế quan cịn phụ thuộc vào mục đích và ngun
nhân áp dụng của chúng. Nếu áp dụng đúng cách, thuế quan có thể được sử dụng để
bảo vệ các lợi ích quốc gia và ngăn chặn các hoạt động buôn lậu, độc hại.
1.4. Biện pháp thuế quan của EU đối với hàng hóa Việt Nam
Với hơn 500 triệu dân và kinh tế phát triển, EU chiếm khoảng ¼ thị trường tiêu
thụ đồ gỗ thế giới. Nhờ các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới có những cam kết

3


rất sâu để kích thích sản xuất và xuất khẩu. Ngành công nghiệp chế biến gỗ của tăng
trưởng được nhanh như vậy có thể nói là do tác động của các Hiệp định Thương mại tự
do. Sau những Hiệp định Thương mại tự do lớn thì với những thị trường chính như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU... đều có những hiệp định song phương, hoặc ký kết
trong khuôn khổ ASEAN, nên chúng ta được hưởng nhiều lợi ích về thương mại cũng
như giảm thiểu rào cản phi thuế quan. Nhờ đó, ngành gỗ phát triển rất nhanh, đồng
thời phải tự cải tiến, tiếp nhận những thành quả khoa học công nghệ mới của nhân loại
để đáp ứng yêu cầu các sản phẩm theo chuẩn quốc tế mà đã ký kết.
EU đã áp đặt một số biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ nhập khẩu từ
nhiều quốc gia, bao gồm:
- Thuế chống bán phá giá (Anti-Dumping Duty): EU đã áp đặt thuế chống bán
phá giá đối với một số sản phẩm gỗ nhập khẩu từ nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam,
Indonesia và Trung Quốc. Thuế này áp dụng trên các sản phẩm như ván ép và ván sàn.
Mức thuế dao động từ 4,4% đến 29,8% đối với các nhà sản xuất trong các quốc gia
này.
- Thuế chống trợ cấp (Countervailing Duty): EU cũng áp đặt thuế chống trợ cấp
đối với một số sản phẩm gỗ nhập khẩu từ nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam và
Indonesia. Thuế này được áp dụng trên các sản phẩm như gỗ ghép, gỗ dán mỏng, gỗ
lạng và ván ép, với mức thuế dao động từ 0,35% đến 10,6%.

- Luật Gỗ EU (EU Timber Regulation): Luật Gỗ EU được áp dụng để ngăn chặn
việc nhập khẩu gỗ bất hợp pháp vào EU. Theo luật này, tất cả các doanh nghiệp nhập
khẩu gỗ phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường và phải có các hồ sơ chứng
minh nguồn gốc của sản phẩm gỗ. Nếu các doanh nghiệp không tuân thủ luật này, họ
có thể bị phạt hoặc bị cấm nhập khẩu sản phẩm gỗ vào EU.
Các biện pháp thuế quan này nhằm bảo vệ ngành sản xuất gỗ trong khu vực EU
trước sự cạnh tranh không lành mạnh từ các quốc gia xuất khẩu. Tuy nhiên, các biện
pháp này cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu
gỗ của các quốc gia này.

Chương 2: Tác động của biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ Việt Nam xuất
khẩu sang EU
2.1. Thực trạng xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang thị trường EU
Trong những năm qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đẩy
mạnh xuất khẩu vào EU, nhiều mặt hàng đã tìm được chỗ đứng trên thị trường lớn và
4


tiềm năng này. Hiện nay, EU là thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ lớn thứ 2 của Việt
Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ. Gỗ và sản phẩm từ gỗ là các mặt hàng xuất khẩu
quan trọng của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này ngày càng gia tăng
trong suốt thập kỷ qua. Tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng từ
3,4 tỷ USD trong năm 2010 lên 15,85 tỷ USD trong năm 2022, đưa Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu gỗ lớn thứ 2 ở châu Á và thứ 5 trên thế giới.
Thống kê của Cục Lâm nghiệp cho biết, Việt Nam hiện có 3.000 doanh nghiệp
trực tiếp tham gia xuất khẩu, trong đó số doanh nghiệp xuất khẩu sang EU cũng lên tới
hàng trăm. EU là thị trường quan trọng của ngành gỗ, các doanh nghiệp khơng cịn lựa
chọn nào khác, phải đảm bảo tính hợp pháp của nguồn nguyên liệu đưa vào sản xuất
hàng xuất khẩu.
 Về kim ngạch xuất khẩu, năm 2019, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ của

Việt Nam sang các nước EU đạt 864,6 triệu USD, tăng 10% so với năm 2018, chiếm
8,1% trong tổng giá trị xuất khẩu gỗ của Việt Nam. Sau đó, do đại dịch Covid 19 bùng
phát, nửa đầu năm 2020 đã khiến ngành chế biến, xuất khẩu gỗ gặp nhiều khó khăn.
Thêm vào đó, EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 01/08/2020 đã mở ra nhiều cơ
hội và thách thức đối với ngành gỗ của Việt Nam. Tổng cục Thống kê cho biết, trong 6
tháng đầu năm, các sản phẩm chủ yếu của ngành lâm nghiệp bị chững lại và đã đến 2
quý cuối năm đã kịp lấy lại được đà tăng trưởng ngay khi dịch bệnh từng bước được
khống chế. Tính đến cuối năm 2020, kim ngạch xuất khẩu gỗ sang các nước EU giảm
xuống còn 536,69 triệu USD. Năm 2021, theo số liệu thống kê từ Cơ quan Thống kê
châu Âu (Eurostat), EU nhập khẩu từ Việt Nam đạt 136,4 nghìn tấn, trị giá 492,5 triệu
Euro (tương đương 551,6 triệu USD), tăng 3,6% về lượng, tăng 14,7% về trị giá so với
năm 2020. Năm 2022, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang EU giảm nhẹ do tác động
của lạm phát, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu. Nằm trong top 5 thị trường xuất khẩu
lớn, nếu không đáp ứng các quy định mới, lập tức sẽ tác động ngay đến kim ngạch
xuất khẩu của toàn ngành trong dài hạn. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, ước tính,
tháng 3/2022 kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam tới thị trường EU
đạt 71,3 triệu USD, tăng 0,4% so với tháng 3/2021. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng
3/2022, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường EU ước đạt 198,6 triệu USD, tăng
6,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trước những diễn biến phức tạp về tình hình dịch
bệnh và căng thẳng địa chính trị gia tăng, tuy nhiên xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang
thị trường EU vẫn tăng đáng kể trong những tháng đầu năm.
 Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng xuất khẩu chính
trong cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu. Đồ nội thất bằng gỗ là nhóm
hàng chính xuất khẩu sang thị trường này đạt 104,3 triệu USD vào năm 2022, tăng
5,3% so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 82% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ. Tuy nhiên, nhiều thị trường nhập khẩu chính nhóm hàng này như EU đều chịu áp
5


lực lạm phát cao, khiến nhu cầu tiêu thụ nhóm hàng này chậm lại. Các mặt hàng có tốc

độ tăng trưởng mạnh bao gồm dăm gỗ, viên nén. Các mặt hàng có sự tụt giảm về xuất
khẩu bao gồm ván bóc và ghế ngồi. Hầu hết các mặt hàng trong cơ cấu mặt hàng đồ
nội thất bằng gỗ xuất khẩu sang thị trường EU đều có kim ngạch tăng trong đầu năm
2022, trừ mặt hàng đồ nội thất văn phòng. Nhóm hàng đồ nội thất bằng gỗ là những
dịng sản phẩm đem lại giá trị gia tăng cao, do đó các doanh nghiệp ngành gỗ đang tập
trung đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường EU. Ngồi ra, trong đầu
năm 2022, gỗ, ván và ván sàn, đồ gỗ mỹ nghệ, khung gương xuất khẩu sang thị trường
EU tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm 2021. Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị
trường EU tăng trưởng khả quan, do sức mua tại thị trường này đang phục hồi tốt. Tỷ
trọng nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ từ Việt Nam chỉ chiếm 2% tổng lượng nhập khẩu
của EU trong năm 2021, vẫn còn rất thấp so với nhu cầu nhập khẩu của EU. Vì vậy,
các doanh nghiệp ngành gỗ của Việt Nam có nhiều cơ hội mở rộng thị phần tại thị
trường này.
 Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, tập trung chủ yếu vào các nước Đức, Pháp,
Anh, Tây Ban Nha, Italia... Đức luôn là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chính
của Việt Nam trong khối EU. Trong những tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường Đức đạt 27 triệu USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm
2021. Đáng chú ý, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường Bỉ chiếm 10,2% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang EU, tốc độ tăng trưởng sang thị
trường này đang ở mức cao.
 Về tiềm năng thị trường, trong bối cảnh hiện nay, xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản
của Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều bởi xung đột quân sự, căng thẳng địa chính trị
trên thế giới và sự phục hồi tăng trưởng của các nền kinh tế, đặc biệt là những thị
trường chính về xuất khẩu đồ gỗ của nước ta như: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Theo dự báo năm 2023, kinh tế thế giới vẫn phải đối
mặt với không ít rủi ro. Tuy nhiên, thế giới sẽ dần thích ứng được với những thay đổi
và lấy lại tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế của các quốc gia sẽ có nhiều tác động đến
xuất khẩu của ngành gỗ. Mục tiêu chung của Đề án phát triển ngành công nghiệp chế
biến gỗ bền vững là đến năm 2030, ngành công nghiệp chế biến gỗ trở thành một
ngành kinh tế quan trọng; xây dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm gỗ Việt Nam có

uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế; phấn đấu để Việt Nam nằm trong nhóm
các nước hàng đầu thế giới về sản xuất, chế biến, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.
Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thương mại Tự do với EU (EVFTA) vào năm
2020, mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường
EU. Tuy nhiên, để khai thác được cơ hội này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, an tồn và bảo vệ mơi trường của
EU. Trong những năm tới, nếu Việt Nam có thể duy trì và nâng cao chất lượng sản
6


phẩm gỗ của mình, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu tiêu chuẩn của EU về bảo vệ
môi trường và pháp lý, thì cơ hội xuất khẩu gỗ sang EU của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng
trưởng. Ngoài ra, việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới cũng sẽ giúp
các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm những cơ hội xuất khẩu mới và tăng thêm giá trị
cho sản phẩm gỗ của mình.

2.2. Thực trạng các biện pháp thuế quan áp dụng với mặt hàng gỗ của Việt Nam
vào thị trường EU
Mặt hàng gỗ bao gồm nguyên liệu và sản phẩm từ gỗ đều phải chịu thuế nhập
khẩu vào thị trường châu Âu tùy thuộc vào sản phẩm và xuất xứ. Nhằm hỗ trợ việc
xuất khẩu từ các nước đang phát triển, liên minh châu Âu vận hành biểu thuế ưu đãi
GSP nhằm giảm thuế cho các nước đang phát triển và miễn thuế cho các nước chậm
phát triển.
Đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào EU hiện đang hưởng thuế GSP với mức
thuế xuất chủ yếu là 0% (một số mã hàng chịu thuế 2,1%) đã giúp Việt Nam có lợi thế
nhất định khi chen chân vào thị trường EU so với Trung Quốc, Indonesia, Brazil,
Malaysia… do các nước này không được hưởng GSP.
Cơ hội cho ngành gỗ mở rộng thị phần và bứt phá xuất khẩu vào thị trường EU
rất lớn, bởi hiện nay, mức thuế suất cơ bản EU đang áp lên gỗ và sản phẩm gỗ của Việt
Nam từ 2 - 10% (gỗ), 2,7 - 5,6% (sản phẩm gỗ). Khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa

bỏ ngay 83% số dịng thuế đối với gỗ và sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam, khoảng 17%
số dòng thuế đối với gỗ còn lại cũng sẽ xóa bỏ theo lộ trình từ 3 - 7 năm. Ngồi ra,
ngành gỗ Việt Nam cịn được hưởng lợi từ việc cắt giảm thuế nhập khẩu nguyên vật
liệu, máy móc từ EU để phục vụ sản xuất.
Tuy nhiên, theo nhóm phân tích của CTCK SSI, ngành gỗ ít được hưởng lợi về
thuế suất khi nhiều dòng sản phẩm có thuế suất 0% trước EVFTA. Báo cáo "Tác động
EVFTA đối với các ngành và doanh nghiệp niêm yết" mới đây của nhóm phân tích
CTCK SSI cho biết, hiệp định Thương mại Tự do (EVFTA) giữa Việt Nam và EU
chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 được kỳ vọng là một trong những động lực
quan trọng nhằm thúc đẩy mở rộng thị trường cho các hàng hóa của Việt Nam, bao
gồm cả gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu vào EU.
Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu thuộc VIFOREST, FPA Bình Định, HAWA,
BIFA và Forest Trends về “Tác động của Hiệp định EVFTA tới các mặt hàng gỗ của
Việt Nam xuất khẩu và EU”, tạm chia các gỗ ra làm 3 nhóm chính: Các sản phẩm gỗ
đã có mức thuế 0% trước khi EVFTA có khi có hiệu lực; Các sản phẩm gỗ trước đó

7


EU đánh thuế nhưng mức thuế sẽ về 0% ngay khi EVFTA có hiệu lực; Các sản phẩm
gỗ trước đó EU đánh thuế nhưng có thời gian giảm thuế về 0% trong 4-6 năm kể từ khi
EVFTA có hiệu lực.
Các sản phẩm gỗ đã có mức thuế suất 0% trước khi EVFTA có hiệu lực. Hiện
có 117 mặt hàng (tương đương với 46,2% số lượng các mặt hàng xuất khẩu vào EU)
và chiếm 88% kim ngạch xuất khẩu vào EU trong năm 2019, đã có mức thuế nhập
khẩu vào EU ở mức 0%. Trong đó các mặt hàng xuất khẩu chính là gỗ xây dựng, ghế
ngồi, đồ nội thất – chiếm 90% giá trị các sản phẩm gỗ có mức thuế suất 0% trước khi
EVFTA có hiệu lực. Do đó, việc thực thi EVFTA khơng có tác động đối với các mặt
hàng thuộc nhóm này khi xuất khẩu từ Việt Nam vào EU.
Các sản phẩm nội thất gỗ trước đó EU đánh thuế nhưng mức thuế sẽ về 0%

ngay khi EVFTA có hiệu lực. Có 104 sản phẩm gỗ Việt Nam phải chịu thuế các mức
thuế từ 1,7% đến 6% trước khi ký EVFTA (tương đương 41,1% số sản phẩm gỗ theo
EVFTA) – chiếm 11% kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vào EU trong năm 2019. Nhóm
các sản phẩm này sẽ được giảm về mức 0% ngay khi EVFTA có hiệu lực.
SSI nhận thấy, nhóm bộ phận đồ gỗ nội thất (MS 9403 90), thùng tang trống
(MS 4415), ghế ngồi (MS 9401) và nội thất nhà bếp (MS 9403) là những sản phẩm có
lộ trình giảm thuế ngay lập tức về mức 0%. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu nhóm này
chưa nhiều do đó ảnh hưởng ít đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Các mặt hàng gỗ cơng nghiệp thuế giảm cịn 0% trong vịng 4 năm hoặc 6 năm
sau khi EVFTA có hiệu lực. Các mặt hàng có mức thuế về 0% sau 4 năm: Chỉ có 2
dịng sản phẩm trong nhóm hàng gỗ dán/ván ép (MS 4412) - chỉ chiếm 0,4% kim
ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU trong năm 2019. Nhóm sản phẩm này với mức
thuế nhập khẩu 6% vào EU trước đó được giảm dần về 0% sau 4 năm kể từ ngày
EVFTA có hiệu lực.
Nhóm các mặt hàng có mức thuế về 0% sau 6 năm: Có 30 dịng sản phẩm gỗ và
các sản phẩm gỗ (tương đương 11,9% tổng số sản phẩm chịu thuế) - chiếm 1% kim
ngạch xuất khẩu từ Việt Nam xuất sang EU trong năm 2019, có mức thuế 7-10% trước
khi EVFTA có hiệu lực sẽ giảm dần về mức 0% trong vòng 6 năm sau khi EVFTA có
hiệu lực. Các mã sản phẩm bao gồm HS 4410 (ván dăm), 4411 (ván sợi), 4412 (gỗ
dán/ván ép).
Như vậy, có 117 dịng sản phẩm – chiếm 88% kim ngạch xuất khẩu trong năm
2019, đã có mức thuế suất 0% trước khi EVFTA có hiệu lực do đó sẽ khơng ảnh
hưởng đến hoạt động của các dòng sản phẩm này tại thị trường Châu Âu. Đồng thời,
có 104 dịng sản phẩm – chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2019, sẽ
được giảm thuế ngay lập tức từ mức 4-1,7% thuế suất về 0% ngay khi EVFTA có hiệu
lực.
8


Các dòng sản phẩm chiếm tỷ trọng 1% kim ngạch xuất khẩu, sẽ giảm dần thuế

trong 4-6 năm sau khi EVFTA có hiệu lực. Đồng thời, theo chia sẻ của đại diện công
ty cổ phần Phú Tài cho biết hầu hết các sản phẩm gỗ Việt Nam xuất sang EU là các
sản phẩm nội thất thông dụng như bàn, ghế, dụng cụ nhà bếp, đã được mức thuế suất
0% trước khi EVFTA thực thi.
Các sản phẩm nhóm gỗ cơng nghiệp thuộc các sản phẩm khơng thơng dụng do
đó có ít khách hàng đặt sản xuất. Do đó, khó có sự tăng trưởng mạnh các mặt hàng
nhóm 3 trong tương lai khi thuế suất ưu đãi EVFTA có hiệu lực.

9


Cam kết EU
Mặt hàng

Thuế hiện
hành

Lộ trình
xóa bỏ

Gỗ nhiên liệu; vỏ bào hoặc dăm gỗ và mùn cưa, phế liệu

0

-

Than củi

0


-

Gỗ cây dạng thô

0

-

Gỗ đai thùng; cọc chẻ; sào, cột và cọc bằng gỗ, vót nhọn,
nhưng khơng xẻ dọc; gậy gỗ, đã cắt nhưng chưa tiện, uốn
cong hoặc gia công

0

-

Sợi gỗ; bột gỗ, tà vẹt

0

-

Gỗ đã cưa hoặc xẻ theo chiều dọc, lạng hoặc bóc, đã hoặc
chưa bào, chà nhám hoặc ghép nối đầu, có độ dày trên 6
mm

0-2,5%

N1


Tấm gỗ để làm lớp mặt, làm gỗ dán, làm gỗ ghép đã được
xẻ dọc, bóc tách khơng q 6mm

0-6%

N1

0

-

7%

6 năm

6-10%

6 năm

0

-

Gỗ thanh và viền đã được tạo dáng
Ván dăm, ván dăm định hướng (OSB) và các loại ván
tương tự, ván sợi bằng gỗ
Gỗ dán, tấm gỗ váng lạng và các loại gỗ ghép tương tự
Gỗ đã được làm tăng độ rắn, ở dạng khối, tấm, thanh hoặc

10



các dạng hình

Khung tranh, khung ảnh, khung gương và SP tương tự

0-2,5%

N1

Hịm, hộp, thùng thưa, thùng hình trống và các loại bao bì
tương tự, bằng gỗ; tang cuốn cáp bằng gỗ; giá kệ để kê
hàng, giá để hàng kiểu thùng và các loại giá để hàng
khác, bằng gỗ; vành đệm giá kệ để hàng bằng gỗ

3-4%

N1

Thùng tơ nơ, thùng trịn, thùng hình trống, hình trụ, có
đai, các loại thùng có đai khác; Dụng cụ các loại, cốt và
khuông giày hoặc ủng bằng gỗ

0

-

Đồ mộc dùng trong xây dựng, kể cả panel gỗ có lõi xốp,
panel lát sàn và ván lợp đã lắp ghép


0-3%

N1

0

-

Gỗ khảm và dát; tráp và các loại hộp đựng đồ trang sức
hoặc đựng dao kéo, và các sản phẩm tương tự, đồ trang trí

0-4%

N1

Các sản phẩm bằng gỗ khác

0-4%

N1

Nội thất nhà bếp

2,7%

N1

Nội thất văn phòng, phòng ngủ

0


N1

Nội thất bằng gỗ khác

0

Bộ đồ ăn và bộ đồ làm bếp, bằng gỗ

Bảng 1: Biểu thuế xuất khẩu của Việt Nam trong EVFTA

11

N1


2.3. Tác động của biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ của Việt Nam vào thị
trường EU trong bối cảnh thực thi EVFTA
❖ Tác động tích cực:
Việc áp dụng biện pháp thuế quan đối với mặt hàng gỗ Việt Nam giúp kiểm
soát lượng nhập khẩu gỗ từ Việt Nam vào thị trường EU, đảm bảo tính bền vững của
nguồn gỗ nhập khẩu và bảo vệ môi trường sống. Điều này giúp đảm bảo rằng sản
phẩm gỗ của Việt Nam được sản xuất theo các tiêu chuẩn và quy định mơi trường của
EU, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo đà cho việc tăng cường xuất khẩu gỗ
của Việt Nam vào thị trường EU.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp thuế quan cũng có thể giúp các doanh nghiệp
gỗ Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời tạo ra
sự đổi mới và cải tiến công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm gỗ có chất lượng cao hơn.
Những nỗ lực này giúp các doanh nghiệp gỗ Việt Nam tăng cường sức cạnh tranh và
tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU.

Cuối cùng, việc áp dụng biện pháp thuế quan có thể giúp cân đối và đẩy mạnh
sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường EU. Bởi vì các biện pháp
chống bán phá giá và chống trợ cấp đã được áp dụng đối với sản phẩm gỗ Việt Nam,
nên việc áp dụng biện pháp thuế quan giúp đưa ra giá cả hợp lý và công bằng cho sản
phẩm gỗ Việt Nam. Điều này giúp ngành gỗ Việt Nam có thể cạnh tranh với các đối
thủ khác trên thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU.
Những tác động tích cực của biện pháp thuế quan đã được chứng minh qua
những con số tăng trưởng mạnh mẽ năm 2021 và 2022.
➢ Về kim ngạch xuất khẩu
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 3 quý đầu năm 2021, kim
ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường EU đạt 446,9
triệu USD, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các mặt hàng gỗ và sản
phẩm gỗ xuất khẩu tới thị trường EU đều có kim ngạch tăng, trừ mặt hàng cửa gỗ.
Trong đó, đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng xuất khẩu chính, đạt 370,7 triệu USD, tăng
23,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ xuất khẩu,
đồ nội thất phòng khách và phịng ăn là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch dẫn đầu đạt
177,3 triệu USD, tăng 19,9%; tiếp theo là mặt hàng ghế khung gỗ đạt 134,8 triệu USD,
tăng 26,8%; đồ nội thất phòng ngủ đạt 29,6 triệu USD, tăng 10,7%. Đáng lưu ý có
nhóm hàng đồ nội thất nhà bếp và đồ nội thất văn phịng có kim ngạch tăng cao so với
cùng kỳ với kim ngạch đạt lần lượt 15,8 và 13,3 triệu USD, tăng 41,7% và 64,2% so
với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng gỗ, ván và ván sàn cũng đạt tăng trưởng tốt 19,1%
so với 9 tháng đầu năm 2020, với kim ngạch ghi nhận đạt 50,9 triệu USD. Nhóm mặt
12


hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng nổi bật là đồ gỗ mỹ nghệ (đạt 4,4 triệu USD,
tăng 80%).
Trong 10 tháng năm 2022, mặc dù chịu tác động của cuộc chiến Nga - Ukraine,
tình hình lạm phát cao nhưng kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt
Nam sang thị trường thuộc Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu

Âu (EVFTA) vẫn đạt 470,27 triệu USD, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2021.
➢ Về cơ cấu mặt hàng, thị trường
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, so với 9 tháng đầu năm 2020, tỷ trọng xuất khẩu
của các mặt hàng trong nhóm nhìn chung tương đối ổn định. Một số sản phẩm tuy còn
chiếm tỷ trọng nhỏ như đồ nội thất văn phòng (chiếm 3% tổng kim ngạch xuất khẩu),
đồ gỗ mỹ nghệ (chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu) nhưng đã có tăng trưởng rất cao
lần lượt là 64,2% và 80,1% so với cùng kỳ năm trước.

13


Tỷ trọng 9 tháng

9 tháng
Mặt hàng

năm 2021

So với 9 tháng

(nghìn

năm 2020 (%)

USD)

(%)
Năm

Năm


2021

2020

Tổng

446.874

22,4

100,0

100,0

Đồ nội thất bằng gỗ

370.742

23,5

83,0

82,2

177.289

19,9

39,7


40,5

Ghế khung gỗ

134.817

26,8

30,2

29,1

Đồ nội thất phòng ngủ

29.526

10,7

6,6

7,3

Đồ nội thất nhà bếp

15.793

41,7

3,5


3,1

Đồ nội thất văn phòng

13.316

64,2

3,0

2,2

Gỗ, ván và ván sàn

50.851

19,1

11,4

11,7

Đồ gỗ mỹ nghệ

4.439

80,1

1,0


0,7

Cửa gỗ

1.152

-35,2

0,3

0,5

233

6,6

0,11

0,1

Đồ nội thất phòng khách và
phòng ăn

Khung gương

Bảng 2: Mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
EU 9 tháng đầu năm 2021
Trong 10 tháng năm 2022, mặc dù thị trường các nước thuộc Hiệp định EVFTA
đối mặt tình trạng lạm phát cao, nhưng một số mặt hàng đồ gỗ đạt mức tăng trưởng tốt

so với cùng kỳ khi xuất sang thị trường này. Cụ thể, gỗ dán tăng 124%, từ 6,7 triệu
USD 10 tháng 2021 lên con số 15,1 triệu USD; nội thất phòng ngủ đạt 21,4 triệu USD,
tăng 22%; nội thất bằng gỗ khác đạt 181,9 triệu USD, tăng 11%; bộ phận đồ gỗ đạt
30,8 triệu USD, tăng 12%.
Về thị trường xuất khẩu, trong 9 tháng đầu năm 2021, 18/26 thị trường ghi nhận
kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó
14


dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu là thị trường Đức đạt 91,2 triệu USD, tăng 11,7% so
với cùng kỳ năm 2020. Tiếp theo là thị trường Pháp đạt 85,4 triệu USD, tăng 11,1%;
Hà Lan đạt 70 triệu USD, tăng 36,9%; Bỉ đạt 46,4 triệu USD, tăng 39,4%. Xuất khẩu
sang một số thị trường nội khối ghi nhận tăng trưởng ở mức cao có thể kể tới là
Croatia tăng 118%, Rumani tăng 111,3%, Italia tăng 60,2%, Đan Mạch tăng 54,1%.
Tuy tại một số thị trường, kim ngạch xuất khẩu giảm như Manta, giảm 41,7%, Croatia,
giảm 56,8%, nhưng do tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng của những
thị trường này thấp (dưới 0,2%) nên tăng trưởng tích cực của các thị trường xuất khẩu
chủ lực đã đóng góp vào mức tăng cao 22,4%.
Theo Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam, sau khi Hiệp định Thương mại tự do
Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) đi vào thực thi, giá trị xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ vào các thị trường thuộc EVFTA đã tăng 17,1%, từ 510,37 triệu USD năm
2020 lên 597,76 triệu USD vào năm 2021. Trong đó, năm 2021, các thị trường lớn
thuộc EU như Pháp, Đức, Hà Lan đã chi ra lần lượt là 20,2 tỷ USD, 37,4 tỷ USD và
2,6 tỷ USD để nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Điều này càng khẳng định cơ hội tiềm
năng của ngành gỗ Việt đối với thị trường thuộc EU.
➢ Về khả năng cạnh tranh
Với việc áp đặt thuế quan, sản phẩm gỗ Việt Nam sẽ trở nên đắt hơn so với các
sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác, làm giảm khả năng cạnh tranh của
sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường châu Âu. Điều này sẽ khiến cho các doanh
nghiệp xuất khẩu gỗ của Việt Nam gặp khó khăn trong việc giữ vững và phát triển thị

phần của mình trên thị trường này. Tuy nhiên, chính những tác động khó khăn này
cũng là cơ hội, các doanh nghiệp, nhà xuất khẩu gỗ Việt Nam đã chú trọng, quan tâm
hơn đến việc tăng cường chất lượng sản phẩm và đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định
của thị trường châu Âu. Ngoài ra, các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm,
tăng cường giá trị gia tăng của sản phẩm, cũng như tạo ra các giá trị khác như bảo vệ
môi trường và đảm bảo quyền lợi lao động đã tạo ra những khởi sắc mới giúp sản
phẩm gỗ Việt Nam cạnh tranh tốt hơn trên thị trường châu Âu.
❖ Tác động tiêu cực
➢ Về kim ngạch xuất khẩu
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ (G&SPG) của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2021 đạt 11,11 tỷ USD, tăng
30,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường EU đạt 421,9
triệu USD, chiếm 3,8% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ cả nước và tăng
19,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức tăng trưởng khá khiêm tốn so với mức
tăng trưởng bình quân của tất cả các thị trường. Mặc dù EVFTA đã và đang là động
lực tăng trưởng tích cực đối với hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tại thị trường
15


EU trong năm vừa qua, tuy nhiên, trong bối cảnh dịch Covid-19 kéo dài, sức ảnh
hưởng của EVFTA đối với hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU nói chung và mặt
hàng gỗ nói riêng đang tương đối bị hạn chế, gián tiếp tác động đến kết quả hoạt động
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường này.
➢ Về cơ cấu mặt hàng, thị trường
Chuỗi logistics cũng gặp khó khăn, trong khi đó nguyên liệu trong nước phải
giải được bài toán làm sao sử dụng được cả gỗ lớn và gỗ nhỏ, cả gỗ cành ngọn và gỗ
thân.
Gỗ thân dùng cho ngành công nghiệp chế biến ra các sản phẩm lớn, còn gỗ cành
ngọn chủ yếu dùng làm dăm, MDF và viên nén (làm chất đốt, phân vi sinh...).
Hiện nay, ngành dăm gỗ phát triển là kết quả của sự mất cân đối giữa các vùng

nguyên liệu trồng rừng và các cơ sở chế biến sâu. Ngành dăm phát ra những tín hiệu
của sự phát triển khơng bền vững bởi vì ngành sử dụng nguyên liệu đầu vào là gỗ nhỏ
làm hạn chế việc tạo nguồn nguyên liệu gỗ lớn cho ngành chế biến sâu - ngành đem lại
giá trị gia tăng cao hơn ngành dăm. Cùng với đó, các chính sách của chính phủ cũng
hạn chế phát triển ngành này thơng qua “củ cà rốt” (khuyến khích trồng rừng gỗ lớn)
và “cây gậy” (hạn chế xuất khẩu dăm bằng việc áp dụng thuế xuất khẩu). Vì vậy, giá
xuất khẩu dăm có xu hướng giảm thường dao động ở mức 120 - 140 USD/tấn tùy từng
thị trường.
Vùng có diện tích rừng trồng lớn cung cấp đến 80 - 85% nguyên liệu dăm gỗ là
miền Trung nhưng hiện tại lại là vùng đang thiếu các trung tâm chế biến sâu để tinh
chế gỗ giúp nâng cao giá trị gia tăng của gỗ Việt. Đặc biệt để hình thành các trung tâm
này cần phải có các yếu tố nền tảng như hệ thống cơ sở hạ tầng (giao thông, cảng biển),
các dịch vụ (logistics, dịch vụ công), sự hiện diện của ngành cơng nghiệp phụ trợ,
nguồn nhân cơng. Chỉ có Miền Đông Nam Bộ hội tủ đủ các yếu tố này. Tuy nhiên,
việc vận chuyển nguyên liệu đến các doanh nghiệp chế biến sâu tại các vùng Đơng
Nam Bộ thì khơng hiệu quả về mặt kinh tế vì khoảng cách quá lớn
➢ Về khả năng cạnh tranh.
Nhìn rộng hơn, hàng hóa nhập khẩu từ EU cũng tạo ra sức ép không nhỏ buộc
doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực cải thiện năng lực của mình. Cụ thể, sức ép cạnh
tranh khi thị trường Việt Nam mở cửa vừa là động lực, nhưng cũng là khó khăn rất lớn
bởi các doanh nghiệp thuộc EU đều có lợi thế hơn hẳn doanh nghiệp Việt Nam về quy
mô, năng lực cạnh tranh, kinh nghiệm thị trường và khả năng tận dụng các FTA. Mặt
khác, để hưởng các ưu đãi thuế quan trong EVFTA là khơng hề đơn giản vì u cầu về
quy tắc xuất xứ của hiệp định này có thể khó đáp ứng. Theo đó, thơng thường hàng

16


hóa muốn được hưởng ưu đãi thuế quan trong các FTA thì nguyên liệu phải đáp ứng
được tỷ lệ nhất định về hàm lượng nội khối.

Không những vậy, với EVFTA, các doanh nghiệp gỗ Việt Nam phải bảo đảm
sử dụng gỗ nguyên liệu 100% hợp pháp (bao gồm cả gỗ nhập khẩu và gỗ trong nước).
Nhu cầu gỗ nguyên liệu sẽ ngày càng lớn, việc tìm kiếm các nguồn gỗ nguyên liệu hợp
pháp sẽ rất khó khăn trong một vài năm tới. Thêm nữa, EU là một thị trường khó tính,
u cầu cao về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, dù có được hưởng lợi về thuế quan thì
hàng hóa Việt Nam cũng phải cải thiện rất nhiều về chất lượng để có thể vượt qua
được các rào cản này. Các doanh nghiệp gỗ Việt Nam cũng cần có một nguồn kinh phí
lớn để đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm để đủ sức đáp ứng yêu cầu đặt ra cũng như cạnh tranh với các quốc gia khác
xuất khẩu sản phẩm gỗ vào EU.
Thực tế hiện nay, "nút thắt" lớn nhất đối với ngành công nghiệp gỗ Việt Nam
chính là nguyên liệu. Theo đánh giá của GS, TS Trần Văn Chứ, Hiệu trưởng Trường
đại học Lâm nghiệp, phần lớn nguồn nguyên liệu gỗ hiện nay phải nhập khẩu do Chính
phủ khơng cho phép khai thác gỗ rừng tự nhiên. Ðể giải quyết vấn đề này, các doanh
nghiệp gỗ cần nâng cao công tác dự báo nhu cầu nguyên liệu; cần rà soát nguồn
nguyên liệu gỗ trong nước, từ đó có chính sách cụ thể trong việc trồng rừng, khai thác,
xuất khẩu gỗ thô và sử dụng triệt để nguyên liệu gỗ trong nước. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp gỗ Việt Nam phải có ý thức tự vươn lên, khắc phục những hạn chế nội
tại trong các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, đào tạo kỹ năng lao động, đẩy mạnh mơ
hình liên kết giữa doanh nghiệp chế biến gỗ với doanh nghiệp trồng rừng, nâng cao
tính cộng đồng và trách nhiệm xã hội.
Chính phủ và các bộ, ngành cũng cần quan tâm và hỗ trợ cộng đồng doanh
nghiệp gỗ Việt Nam tập trung nguồn lực để đổi mới cơng nghệ, nhất là có kế hoạch cụ
thể để triển khai khâu thiết kế sản phẩm cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm gỗ
Việt Nam. Về chính sách quản lý vĩ mô, Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn việc thực hiện EVFTA ngay trong năm nay để giúp cộng
đồng doanh nghiệp có căn cứ xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh trong
thời gian tới.
2.4. Đánh giá
❖ Cơ hội

Tăng doanh số xuất khẩu: Việt Nam là một trong những quốc gia lớn nhất xuất
khẩu gỗ sang EU. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong năm 2020, giá trị xuất
khẩu gỗ của Việt Nam sang EU đạt 1,4 tỷ USD, chiếm 31% tổng giá trị xuất khẩu gỗ

17


của Việt Nam. Việc giảm thuế quan sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường và tăng doanh số xuất khẩu gỗ sang EU.
Tăng giá trị gia tăng: Biện pháp thuế quan giảm sẽ giúp cho các doanh nghiệp
Việt Nam tăng giá trị gia tăng cho các sản phẩm gỗ xuất khẩu sang EU. Theo dữ liệu
từ Bộ Công Thương, giá trị gia tăng của ngành gỗ Việt Nam chỉ đạt 20-25%, thấp hơn
rất nhiều so với các đối thủ cạnh tranh khác. Tuy nhiên, nếu có thêm cơ hội tiếp cận thị
trường và giảm thuế quan, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng giá trị gia tăng cho
các sản phẩm gỗ của mình, nâng cao chất lượng và giá trị thương hiệu.
Khai thác tiềm năng thị trường: EU là thị trường tiêu thụ gỗ lớn nhất thế giới,
với nhu cầu ổn định và liên tục tăng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, do các mặt hàng
gỗ của Việt Nam phải đối mặt với mức thuế quan khá cao, nên cơ hội tiếp cận thị
trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Với việc giảm thuế quan,
Việt Nam có thể tận dụng tiềm năng của thị trường EU để mở rộng xuất khẩu gỗ, đặc
biệt là các sản phẩm có giá trị gia tăng cao như đồ nội thất.
Nâng cao độ cạnh tranh: Hiện tại, chỉ có Việt Nam và Singapore đã kết thúc
đàm phán FTA với EU, các nước ASEAN khác có tiến trình chậm hơn hoặc thậm chí
đang tạm dừng. Như vậy trong thời gian tới, việc được hưởng mức thuế nhập khẩu
thấp hơn kèm với các cơ chế tạo thuận lợi thương mại ưu đãi hơn từ EVFTA, các
doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ sẽ có lợi thế hơn hẳn các nước trong khối
ASEAN khi tiếp cận thị trường gỗ EU, tạo vị thế, chỗ đứng vững chắc cho hàng gỗ
của mình.
Điều chỉnh cấu trúc sản xuất: Việc giảm thuế quan cũng đồng nghĩa với việc
các sản phẩm gỗ nhập khẩu từ EU có thể trở nên cạnh tranh hơn với các sản phẩm gỗ

nội địa. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam phải điều chỉnh cấu trúc sản
xuất và tăng tính cạnh tranh của mình, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của ngành công
nghiệp gỗ nội địa.
❖ Thách thức
Chứng nhận nguồn gốc gỗ: EU đã áp đặt quy định về chứng nhận nguồn gốc gỗ
(FLEGT) từ năm 2013, để đảm bảo rằng gỗ nhập khẩu vào EU đến từ các nguồn gốc
hợp pháp và không gây ra tác hại cho mơi trường. Điều này địi hỏi các doanh nghiệp
xuất khẩu gỗ phải cung cấp tài liệu chứng minh nguồn gốc của gỗ, bao gồm các giấy
tờ liên quan đến quá trình khai thác, vận chuyển, chế biến và xuất khẩu gỗ. Tuy nhiên,
việc cung cấp chứng nhận nguồn gốc gỗ là một quá trình phức tạp và địi hỏi chi phí
cao, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp gỗ nhỏ và vừa. Ngoài ra, sự thiếu hụt và hạn
chế về thông tin và kỹ năng chứng nhận nguồn gốc gỗ cũng là một vấn đề đang đối
mặt với ngành công nghiệp gỗ Việt Nam.

18


Biện pháp chống trốn thuế và gian lận thương mại: EU đang tăng cường các
biện pháp chống trốn thuế và gian lận thương mại, đặc biệt là trong lĩnh vực nhập khẩu
gỗ. Các biện pháp này bao gồm kiểm tra chặt chẽ việc nhập khẩu gỗ từ các quốc gia
khác, yêu cầu các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ cung cấp tài liệu chứng minh nguồn gốc
của gỗ, và đưa ra các biện pháp phạt nếu phát hiện có dấu hiệu của trốn thuế và gian
lận thương mại. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ phải thực hiện các
quy trình và tiêu chuẩn kiểm tra rất nghiêm ngặt, bao gồm kiểm tra các giấy tờ chứng
với từng giai đoạn trong chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ. Điều này đặc biệt khó khăn đối
với các doanh nghiệp gỗ Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, do họ
thường khơng có đủ tài ngun và kỹ năng để thực hiện các quy trình này. Ngồi ra,
các biện pháp chống trốn thuế và gian lận thương mại cũng địi hỏi các doanh nghiệp
xuất khẩu phải đảm bảo tính minh bạch và chính xác trong việc cung cấp thơng tin về
sản phẩm gỗ, từ việc khai thác đến vận chuyển và chế biến

Yêu cầu về chuẩn mực môi trường và quy định kỹ thuật: EU đặt ra các yêu cầu
khắt khe về chuẩn mực môi trường và quy định kỹ thuật đối với sản phẩm gỗ nhập
khẩu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ phải đảm bảo tính bền vững và
an tồn với mơi trường, cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của EU. Điều này
đặc biệt khó khăn đối với các doanh nghiệp gỗ nhỏ và vừa, do họ thường khơng có đủ
tài nguyên và kỹ năng để đáp ứng các yêu cầu này.
Tỷ lệ hàm lượng nội khối: Thơng thường hàng hóa muốn được hưởng ưu đãi
thuế quan theo FTA thì nguyên liệu phải đáp ứng được một tỷ lệ về hàm lượng nội
khối nhất định (nguyên liệu có xuất xứ tại EU và/hoặc Việt Nam). Đây là một thách
thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam bởi nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng
xuất khẩu hiện nay chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc hoặc ASEAN. Ngồi ra
cịn gặp khó khăn trong việc giám sát hành trình gỗ, buộc chúng ta phải đảm bảo độ
đưa vào chế biến xuất khẩu là hợp pháp, không gây hại môi trường... Và nguyên liệu,
với đòi hỏi bắt buộc là doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đảm bảo 100% gỗ xuất khẩu
vào EU phải là gỗ hợp pháp, điều này dẫn đến nhu cầu nguyên liệu có thể khan hiếm
trong thời điểm cục bộ.
Sau khi Hiệp định Thương mại tự do EVFTA có hiệu lực, phịng vệ thương mại
của Việt Nam có thể sẽ gặp phải những khó khăn: Khi đó thì thương mại hàng hóa
giữa hai nước sẽ gia tăng do đại đa số các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về mức
0%. Từ đó, có thể dự đốn rằng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU sẽ
tăng nhanh, dẫn tới khả năng tăng số lượng vụ việc phòng vệ thương mại giữa hai bên
(để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu). Thơng
thường khi rào cản thuế quan khơng cịn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ nữa, doanh
nghiệp ở thị trường nhập khẩu có xu hướng sử dụng nhiều hơn các biện pháp chống

19


bán phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. Và EU cũng là
một trong những thị trường có “truyền thống" sử dụng các công cụ này.


Chương 3: Kiến nghị và giải pháp
3.1. Đối với Nhà Nước
❖ Kiến nghị
Ngành gỗ của Việt Nam đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của đất
nước. Tuy nhiên, thực tế hiện nay là ngành này đang phải đối mặt với nhiều thách thức,
trong đó có tác động của thuế quan khi xuất khẩu sang thị trường EU.
Do đó, kiến nghị đối với nhà nước như sau:
1. Tăng cường đối thoại và ký kết các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với các
quốc gia trong EU, nhằm giảm thiểu tác động của thuế quan lên mặt hàng gỗ của Việt
Nam;
2. Đặc biệt, nhà nước cần thúc đẩy việc tham gia các hiệp định thương mại tự do
của EU, giúp cho ngành gỗ của Việt Nam có thể truy cập vào thị trường này một cách
dễ dàng hơn, giảm thiểu chi phí vận chuyển, giảm thiểu thuế quan, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp có thể cạnh tranh trên cùng một nền tảng;
3. Ngồi ra, nhà nước cần chủ động đào tạo và nâng cao năng lực cho ngành gỗ,
để tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh
quốc tế;
4. Tạo điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực liên quan đến ngành gỗ, như công nghệ
xử lý gỗ, tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý và bảo vệ môi trường, để tăng cường
sức cạnh tranh của ngành gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế;
Hy vọng nhà nước sẽ đưa ra các chính sách hỗ trợ nhằm giảm thiểu tác động
của thuế quan lên ngành gỗ của Việt Nam, đồng thời cải thiện môi trường kinh doanh
để các doanh nghiệp có thể phát triển bền vững và đóng góp hữu ích cho sự phát triển
kinh tế của đất nước.
❖ Giải pháp
Các giải pháp mà nhà nước có thể áp dụng để giải quyết tác động của thuế quan
đối với mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang EU bao gồm:
1. Tăng cường đầu tư vào việc nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm gỗ:
Việc nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm gỗ là một yếu tố quan trọng để giảm tác


20


động của thuế quan đối với ngành gỗ Việt Nam. Nhà nước có thể đầu tư vào nghiên
cứu và phát triển công nghệ sản xuất gỗ mới, đào tạo nhân lực kỹ thuật cao để cải thiện
chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy các hoạt động tăng cường quản lý
rừng và chăm sóc rừng để tăng nguồn nguyên liệu cho sản xuất gỗ;
2. Tăng cường quảng bá thương hiệu và tiếp cận thị trường mới: Để giảm sự
phụ thuộc vào thị trường EU, Việt Nam cần tìm kiếm và tiếp cận các thị trường mới,
đồng thời tăng cường quảng bá thương hiệu của mình để tăng giá trị sản phẩm và tạo
sự tin tưởng cho khách hàng;
3. Tăng cường hợp tác quốc tế và thương lượng với EU: Việc tăng cường hợp
tác quốc tế và thương lượng với EU là một giải pháp quan trọng để giảm tác động của
thuế quan. Nhà nước có thể đàm phán với EU để giảm thuế quan hoặc thỏa thuận tạo
điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ của Việt Nam;
4. Tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ: Việc hỗ trợ cho các
doanh nghiệp xuất khẩu gỗ cũng là một giải pháp quan trọng. Nhà nước có thể cung
cấp các chương trình giải quyết vốn, tài trợ và đưa ra các chính sách khuyến khích để
giúp doanh nghiệp phát triển sản phẩm và tiếp cận thị trường mới.
3.2. Đối với Doanh Nghiệp
❖ Kiến nghị
Theo thông tin mới nhất, EU đã áp đặt một số mức thuế quan đối với mặt hàng
gỗ của Việt Nam, điều này đang có tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp.
Để giải quyết vấn đề này, kiến nghị cho doanh nghiệp như sau:
1. Tìm kiếm các thị trường khác: Doanh nghiệp có thể tìm kiếm các thị trường
khác để xuất khẩu mặt hàng gỗ để giảm thiểu tác động của thuế quan;
2. Tìm cách cải thiện chất lượng sản phẩm: Doanh nghiệp có thể tìm cách cải
thiện chất lượng sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng và tạo sự khác biệt so với các

sản phẩm cùng loại từ các nước khác;
3. Hợp tác với các đối tác trong EU: Doanh nghiệp có thể hợp tác với các đối tác
trong EU để tìm kiếm các cách giảm thiểu tác động của thuế quan;
4. Tăng cường thông tin và truyền thông: Doanh nghiệp cần tăng cường thông tin
và truyền thông để giới thiệu các sản phẩm của mình tới khách hàng tiềm năng trong
các thị trường khác;

21


×