Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Trình bày sự phát triển của chế định pháp luật về công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp của Việt Nam. Cho ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.63 KB, 9 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI 1
ĐỀ BÀI: TL TM1.02

HỌ TÊN
MSSV
LỚP

:
:
:

VŨ TUẤN ĐẠT
K19ACQ037
K19ACQ

HÀ NỘI – 2021
1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường phát triển từng ngày, từng giờ. Kéo theo đó là sự
đa dạng của các loại hình cơng ty nhằm thích ứng với sự thay đổi nhanh


chóng của thị trường. Ở Việt Nam có nhiều loại hình doanh nghiệp có thể kể
đến như: cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần,
doanh nghiệp tư nhân,…. Trong đó cơng ty hợp danh là loại hình cơng ty đối
nhân, được thành lập dựa trên cơ sở sự tin cậy, tín nhiệm nhau giữa các thành
viên. Để hiểu rõ hơn về loại hình doanh nghiệp này em xin được lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “Trình bày sự phát triển của chế định pháp luật về công
ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp của Việt Nam. Cho ví dụ minh họa”.
NỘI DUNG
I.
Pháp luật về công ty hợp danh.
1. Khái niệm
Theo Điều 177 Luật Doanh nghiệp năm 2020, công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên
chung (thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, cơng ty có thể có thêm thành viên
góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng tồn bộ của mình về các nghĩa vụ
của cơng ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã
góp vào cơng ty.

2. Đặc điểm
2.1. Về thành viên công ty hợp danh
Công ty hợp danh có ít nhất hai thành viên là cá nhân thỏa thuận góp vốn với nhau, cùng
chịu trách nhiệm vơ hạn và liên đới (gọi là thành viên hợp danh). Ngồi thành viên hợp danh, cơng
ty có thể có thêm thành viên góp vốn, chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp/ cam
kết góp. Đây được xem là “biến thể của cơng ty hợp danh, đó là loại hình hợp danh trách nhiệm
hữu hạn.

2.2.


Về chế độ chịu trách nhiệm tài sản của các loại thành viên

Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Các thành viên hợp danh phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Trách nhiệm
này không thể bị giới hạn đối với bất kì thành viên nào. Nếu họ có thỏa thuận khác, lập tức cơng ty
sẽ chuyển sang loại hình cơng ty hợp vốn đơn giản. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty.

3


2.3.

Về quyền quản lí, đại diện cho cơng ty hợp danh.

Về cơ bản, các thành viên hợp danh có quyền thỏa thuận về việc quản lý, điều hành công ty.
Trong q trình hoạt động của cơng ty, các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp
luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành
viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hàng ngày của cơng ty chỉ có hiệu lực đối với
bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó.

2.4.

Về tư cách thương nhân:

Pháp luật của rất nhiều quốc gia coi thành viên hợp danh của công ty hợp danh có tư cách
thương nhân. Có nghĩa là, đồng thời với việc trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh,
các thành viên Hợp danh có ngay từ cách thương nhân mà không phải qua bất cứ một thủ tục đăng
ký khác. Như vậy, một thành viên hợp danh vừa có thể cống hiến cho cơng ty hợp danh trong một
nỗ lực chung cùng các thành viên hợp danh khác, lại vừa có thể tự mình tiến hành các hoạt động

thương mại của riêng mình. Điểm này cũng làm cho thành viên của công ty hợp danh khác hẳn với
thành viên của các loại hình cơng ty khác.
Tuy nhiên, theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, tư cách thương nhân thuộc về công ty hợp
danh, các thành viên chỉ là các đồng chủ sở hữu trong cơng ty có quyền và nghĩa vụ tương ứng với
tư cách thành viên và phần vốn góp của mình.

2.5.

Về phát hành chứng khốn:

Cơng ty hợp danh không được phát hành bất kỳ một loại chứng khốn nào, khả năng huy
động vốn của cơng ty hợp danh là rất hạn chế.

2.6.

Về tư cách pháp lý:

Cơng ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Cơng ty hợp danh có sự tách bạch rõ ràng giữa tài
sản của công ty và tài sản của các thành viên công ty. Các thành viên công ty phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn sang cơng ty và tài sản hình thành trong q trình công ty
hoạt động là tài sản của công ty.

II.

Chế định pháp luật về công ty hợp danh theo Luật doanh

nghiệp của Việt Nam.
Tại Việt Nam thì loại hình cơng ty hợp danh này ra đời muộn so với thế
giới bởi vì do điều kiện kinh tế, lịch sử xã hội. Vốn là một nước trọng về nông
nghiệp nên trước kia lịch sử phát triển kinh tế nước ta mang đặc trưng là kinh

tế nơng nghiệp chiếm giữ vị trí chủ đạo, hoạt động thương mại vốn không
phải là thế mạnh. Thương mại Việt Nam chủ yếu diễn ra ở các chợ, tổ chức sơ
sài, quan hệ kinh doanh mang tính chất gia đình. Bởi vậy, các loại hình cơng
ty ra đời muộn so với các nước trên thế giới, trong đó có cơng ty hợp danh.
4


Mãi đến tận thế kỷ XIX, theo chân thực dân Pháp, người dân Việt Nam được
làm quen với các mô hình cơng ty. Cùng với luật dân sự và thương mại, người
Pháp đã mang luật công ty của họ vào Việt Nam như một sự cấy ghép pháp
luật cưỡng bức trong điều kiện bóc lột và phân biệt đối xử hà khắc của kẻ
xâm lược với người bị thống trị. Vì thế, chỉ một bộ phận rất nhỏ các nhà kinh
doanh ở các đô thị lớn, mà chủ yếu là người nước ngồi, mới được biết đến
luật cơng ty thời pháp thuộc. Các tòa án ở Nam Kỳ sử dụng Bộ luật Thương
mại (1987), Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn (1925) làm nguồn khi giải
quyết vụ án kinh tế.
Các bộ Dân luật: Dân luật Bắc Kỳ (1931), Dân luật Trung Kỳ (1936) đã
dịch các mơ hình cơng ty dưới tên gọi "hội buôn", "hội người", "hội vốn",
"hội đồng lợi"… nhằm phân biệt chúng với các hội khác không kinh doanh.
Theo "Dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc Kỳ" năm 1931, công ty hợp
danh dưới tên gọi "Hội người" được chia làm hai loại Hội hợp danh và Hội
hợp tư. “Hội người” tức là hình thức cơng ty chú trọng yếu tố con người, khác
với “hội vốn” quan tầm đến vốn góp nhiều hơn. Hội người được chia thành
hai loại là hội hợp danh và hội hợp tư. Hội hợp danh là hội gồm nhiều hội
viên chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới kết hợp một hoặc nhiều hội viên chịu
trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đóng góp vào hội.
Dưới thời chính quyền vua Bảo Đại, Bộ luật thương mại Trung phần
năm 1944 được ban hành và áp dụng tại miền Trung, tuy có sửa đổi bổ sung
nhưng về cơ bản những quy định về công ty hợp danh vẫn giống so với quy
định trong luật Thương mại Pháp áp dụng tại Việt Nam.

Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam áp dụng Bộ luật thương mại Sài
Gịn, cơng ty hợp danh được gọi đúng như tên gọi hiện nay, và những quy
định tương tự quy định trong luật thương mại Pháp. Công ty hợp danh là một
hội đoàn thương sự ( nhằm phân biệt với hội đoàn dân sự) được thành lập giữ
hai người, hay một số người nhiều hơn để làm thương mại dưới một hội danh.
Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954, chủ trương của Nhà
nước là thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lấy kinh tế quốc doanh
5


làm chủ đạo nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa
nhận. Bắt đầu từ hiến pháp 1959, mơ hình kinh tế Xơ- viết được từng bước áp
dụng ở Việt Nam. Ngồi các cơng ty tư sản, tay sai và phản động được quốc
hữu hóa, thì các công ty và cơ sở kinh doanh tư nhân của người Việt Nam
(chủ yếu hình thành sau 1954 khi thực dân Pháp rút về nước) được chuyển
sang hình thức cơng ty công – tư hợp doanh. Nhưng do nhiều nguyên nhân,
các cơ sở kinh doanh trên dần dần biến mất vào năm 1960 theo thống kê của
Viêt Nam. Một nền kinh tế khép kín với việc khơng cơng nhận sở hữu tư
nhân, bên cạnh đó quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nên cơ cầu ngành nghề không đa dạng, kém
phát triển cả về chất và lượng. Thuật ngữ “công ty” vẫn được dùng để chỉ một
số nhà máy, xí nghiệp quốc doanh. Các loại hình cơng ty theo đúng nghĩa
thương mại đã bị lãng quên trong các văn bản pháp luật và không xuất hiện
trong giai đoạn từ sau năm 1960 đến trước năm 1990.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) Nghị quyết của Đảng đã định hướng lại chủ
trương phát triển kinh tế đất nước, đó là chuyển nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng các thành phần kinh tế , ghi nhận hình thức
sở hữu tư nhân.
Sự ra đời của luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 đánh dấu sự ghi nhận
chính thức của pháp luật về công ty. Tuy nhiên, Luật công ty 1990 có nhiều hạn chế do được ban

hành trong những năm đầu của công cuộc đổi mới. Các quy định của cơng ty chưa cụ thể và chưa
có cơng ty hợp danh trong các văn bản pháp luật trên.
Luật doanh nghiệp 1999 ra đời trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm trên thế giới,
đồng thời khắc phục những hạn chế của các văn bản luật trước đó, đã có sự phát triển vượt bậc về
chất lượng. Một trong những điểm mới của văn bản này là ghi nhận sự tồn tại của hai loại hình
cơng ty mới, công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên . Đây là thời điểm
công ty hợp danh được ghi nhận chính thức của nhà nước Việt Nam. Mặc dù được phổ biến trên thế
giới nhưng vì loại hình cơng ty hợp danh nay ở Việt Nam còn mới mẻ nên ban đầu các quy định
của luật còn chung chung và chưa đầy đủ. Trong luật doanh nghiệp 1999 chỉ có 4 điều luật quy
định về công ty hợp danh ( từ điều 95 đến điều 98), những quy định này chưa đáp ứng được sự phát
triển cũng như quy chế quản lý của pháp luật đối với công ty hợp danh.
Luật Doanh nghiệp 2005 thay thế Luật Doanh nghiệp 1999 hoàn thiện các quy định về cơng
ty hợp danh, tạo cho nó một chỗ đứng vững vàng hơn trong môi trường pháp lý, từ chỗ chỉ được

6


quy định khiêm tốn trong bốn điều khoản tại Luật Doanh nghiệp 1999, đã được nâng lên mười điều
khoản trong Luật Doanh nghiệp 2005 (sửa đổi bổ sung 2009). Mô hình cơng ty này đã được quy
định chi tiết rõ ràng hơn, phù hợp với tình hình kinh tế đất nước. Tuy nhiên, những quy định ấy
dường như vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, chưa phát huy được hết những điểm mạnh
vốn có của loại hình cơng ty hợp danh khi thực tế cho thấy tỉ lể cơng ty thành lập tại Việt Nam vẫn
rất ít.
Luật Doanh nghiệp 2005 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung bởi luật doanh nghiệp 2014, đánh
dấu những quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của luật cũ, tiếp tục tạo môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi. Trong đó, mặc dù quy định cơng ty hợp danh vẫn giữ nguyên 11 điều
khoản ( từ điều 172 đến điều 182) nhưng luật doanh nghiệp 2014 được soạn thảo và thông qua với
nhiều thay đổi đột phá về quyền kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, cải cách con dấu, bảo vệ
lợi ích của nhà đầu tư, dễ dàng trong tái cơ cấu doanh nghiệp đã gián tiếp thúc đẩy q trình phát
triển cơng ty hợp danh tại Việt Nam.

Ngày 01/7/2020 Luật doanh nghiệp 2020 ra đời thay thế Luật Doanh nghiệp 2014 đã có
những điểm mới và khắc phục được những hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2014. Vẫn dành 11 điều
khoản ( từ điều 177 đến điều 187) nhưng Luật Doanh nghiệp đã có những thay đổi, bổ sung.
Tại điều 177 Luật doanh nghiệp năm 2020 đã quy định “Thành viên góp vốn là tổ chức, cá
nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong số vốn đã cam kết vào công ty”.
Nội dung này đã được sửa đổi so với nội dung được quy định trong Luật doanh nghiệp năm 2014
cụ thể là: “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào cơng ty”. Đây là thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của thành
viên góp vốn, bởi lẽ nếu thành viên góp vốn trong cơng ty hợp danh mới chỉ thực hiện việc dự kiến
góp vốn qua cam kết mà chưa góp trên thực tế thì khi đó thành viên hợp danh chỉ phải chịu trách
nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn đã góp. Xét dưới góc độ đối tác, khách hàng của công
ty hợp danh cũng cần phải lưu ý vấn đề vốn thực góp và vốn cam kết góp để tránh trường hợp khi
phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà phạm vi số vốn góp của cơng ty hợp danh khơng đủ sẽ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Luật doanh nghiệp 2020 đã có những bổ sung thêm trường hợp chấm dứt tư cách thành viên
hợp danh Theo khoản 1 Điều 185 Luật Doanh nghiệp 2020, thành viên hợp danh bị chấm dứt tư
cách trong trường hợp sau đây: “ a, Tự nguyện rút vốn khỏi công ty; b, Chết, mất tích, bị hạn chế
hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; c, Bị khai trừ
khỏi công ty; d, Chấp hành hành phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định theo quy định của pháp luật; đ, Trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định”. So với Luật
Doanh nghiệp 2014, thêm trường hợp "có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi" và "chấp
hành hành phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của
pháp luật".

7


III.

Ví dụ minh họa cho sự phát triển chế định pháp luật công ty

Hợp danh theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam.

Để minh họa cho sự phát triển của chế định pháp luật về công ty hợp danh theo Luật Doanh
nghiệp Việt Nam thì có thể kể đến vấn đề tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Tại Luật Doanh
nghiệp năm 1999, công ty hợp danh không được quy định tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, kể từ Luật
Doanh nghiệp năm 2005 cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và
Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 thì cơng ty hợp danh được quy định có tư
cách pháp nhân.
Mặc dù vậy, vấn đề có nên quy định hay khơng nên quy định tư cách pháp nhân cho công ty
hợp danh đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận trong một thời gian khá dài. Bởi lẽ, nếu căn cứ các điều
kiện để trở thành pháp nhân theo Điều 84 của Bộ luật Dân sự năm 2005 hay Điều 74 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 hiện nay, thì cơng ty hợp danh khơng đủ điều kiện để trở thành một pháp nhân.
Trên thực tế, khó có thể phân tích được tính độc lập tài sản của cơng ty hợp danh là có hay không.
Bởi lẽ không phải tất cả thành viên của công ty hợp danh đều phải chịu trách nhiệm về các nghĩa
vụ của cơng ty bằng tồn bộ tài sản của mình mà trong đó có các thành viên góp vốn của công ty
hợp danh chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn góp vào cơng ty.
Như vậy, rõ ràng cơng ty hợp danh có tính độc lập về tài sản nhưng ở đây tồn tại một khái
niệm độc lập chưa triệt để. Chính lẽ đó, việc quy định tư cách pháp nhân cho công ty hợp danh
nhưng kèm theo điều kiện về trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của
loại hình doanh nghiệp này là cách để chan hịa lợi ích của cơng ty cũng như đối tác, khách hàng
của công ty. Với tư cách pháp nhân, công ty dễ dàng gia nhập vào thị trường, thực hiện các giao
dịch với đối tác, tạo điều kiện thuận lợi để chủ doanh nghiệp thực hiện các thủ tục kinh doanh,đời
sống pháp luật ổn định lâu dài. Bên cạnh đó, luật doanh nghiệp quy định việc chịu trách nhiệm vô
hạn của thành viên hợp danh nhằm nâng cao hiệu quả làm việc, trách nhiệm của mỗi thành viên
trong cơng ty, tăng độ tín nhiệm của cơng ty trước đối tác, khách hàng cũng như bảo vệ lợi ích của
khách hàng.

KẾT LUẬN
Công ty hợp danh là một trong những loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ lệ khơng lớn so với
các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên cơng ty hợp danh khá phù hợp với các thành viên có

quan hệ thân quen, mật thiết với nhau nên vẫn được các chủ thể lựa chọn kinh doanh. Chế định
pháp luật về Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp đã có những sự phát triển nhất định, quy
định ngày càng phù hợp hơn và chặt chẽ hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật dân sự 2005
2. Bộ Luật dân sự 2015
8


3.
4.
5.
6.
7.

Luật doanh nghiệp năm 1999
Luật doanh nghiệp năm 2005
Luật doanh nghiệp năm 2014
Luật doanh nghiệp năm 2020
Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, tập 1, Trường Đại học Luật Hà

Nội, nxb Tư pháp, 2018
8. Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, tập 2, Trường Đại học Luật Hà
Nội, nxb Tư pháp, 2018
9. />10.
/>
9




×