Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan - Hiện trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------

NGÔ MINH THANH

QUAN HỆ VIỆT NAM – ĐÀI LOAN
HIỆN TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội – 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------

Ngô Minh Thanh

QUAN HỆ VIỆT NAM – ĐÀI LOAN
HIỆN TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN QUANG THUẤN

Hà Nội – 2008



MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................... 2
DANH MỤC BẢNG, BIU ................................................................................ 3
M U ............................................................................................................ 4
Ch-ơng 1. các nhân tố tác động tới quan hệ kinh tế việt nam - ®µi
loan ............................................................................................................... 10
1.1. Tồn cầu hố ........................................................................................... 10
1.2. Khu vực hố và liên kết kinh tế Đơng Á .................................................. 15
1.3. Chính sách “Hướng Nam” của Đài Loan ................................................. 20
1.4. Đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam ........................................... 23
Kết lun chng I .......................................................................................... 32
Ch-ơng 2. Hiện trạng quan hệ kinh tế việt nam - đài loan ........... 34
2.1. Quan hệ thương mại ................................................................................ 36
2.2. Đầu tư trực tiếp của Đài Loan vào Việt Nam: hiện trạng và đặc điểm ..... 46
2.3. Hợp tác lao động Việt Nam - Đài Loan ................................................... 58
2.4. Đánh giá chung về quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan ........................ 75
Kết luận chương II ......................................................................................... 76
Ch-ơng 3. Triển vọng và các giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế
việt nam - đài loan ...................................................................................... 78
3.1. Định hướng phát triển kinh tế Đối ngoại của Việt Nam ........................... 78
3.2. Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan .................................... 81
3.3. Các giải pháp chủ yếu thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam- Đài Loan ..... 86
Kết luận chương III ...................................................................................... 102
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 106
PHỤ LỤC........................................................................................................ 110

1



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFT
APEC
ASEAN

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(Asean Free Trade Area)
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(Asia Pacific Economic Cooperation
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(Association of South-East Asian Nations)

CHNDTH
EC

Hội nghị Thượng đỉnh Á – Âu
(Asian-Euro Meeting)
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
Cộng đồng Châu Âu (European Comunities)

EU

Liên minh Châu Âu (European Union)

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct
Investment)


FTA

Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area)

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
(General Agreement on Tariffs and Trade)

ASEM

IMF
NAFTA
ODA

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund)
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
(North American Free Trade Agreement)
Viện trợ phát triển chính thức
(Official Development Assistance)

ROC

Đài Loan

RPN
RTA

Mạng sản xuất khu vực
(Regional Production Network)

Thương mại khu vực (Regional Trade Area)

TD

Thương mại (Trade)

WB

Ngân hàng Thế giới (World Bank)

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization

2


DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 2. 1 Xuất khẩu của Đài Loan sang Việt Nam ................................... 41
Bảng 2. 2 Xuất khẩu từ Việt Nam sang Đài Loan ..................................... 44
Bảng 2. 3 Vốn đầu tư trực tiếp của Đài Loan vào Việt Nam phân bố theo
ngành năm 2007 ....................................................................................... 48
Bảng 2. 4 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988-200850
Bảng 2. 5 Phân bổ FDI Đài Loan vào Việt Nam năm 2005 ...................... 57
Bảng 2. 6 Đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam theo hình thức đầu tư giai đoạn
1988-2005 ................................................................................................ 56
Bảng 2. 7 Lao động Việt Nam tại Đài Loan.............................................. 63
Biểu đồ 2. 1 Thương mại Đài Loan-Việt Nam .......................................... 37
Biểu đồ 2. 2 Xuất khẩu của Đài Loan sang Việt Nam ............................... 40

Biểu đồ 2. 3 Xuất khẩu của Việt Nam sang Đài Loan ............................... 45
Biểu đồ 2. 4 Phân bố FDI của Đài Loan và tái xuất sang Đài Loan theo ngành
năm 2005 ................................................................................................. 52
Biểu đồ 2. 5 Phân bổ nguồn FDI Đài Loan và nhập khẩu từ Đài Loan theo
ngành năm 2005 ....................................................................................... 54

3


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Cïng lµ thµnh viên của cộng đồng Đông á và mới đây cùng cã mỈt
trong tỉ chøc kinh tÕ lín nhÊt thÕ giíi (WTO), Việt Nam và Đài Loan đang
đứng tr-ớc một t-ơng lai sáng lạn về quan hệ văn hoá xà hội nói chung và
quan hệ kinh tế nói riêng.
Sự sáng tạo và uyển chuyển trong các chính sách phát triển, đặc biệt là
trong chính sách kinh tế đối ngoại đà giúp Đài Loan trở thành con rồng mới
của Châu trong phát triển kinh tế. Cùng với Nhật Bàn, Hàn Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan đang là một trong những nhà đầu t- hàng đầu vào Việt Nam.
Nh ó bit, Việt Nam bắt đầu chấp nhận đầu t- n-ớc ngoài (FDI) từ
năm 1988, nh-ng các doanh nhân Đài Loan thực sự tới Việt Nam chỉ vào
những năm 1990, sau khi Đi Bắc khuyến khích chính sch Nam tiến . Đây
là chính sách cổ vũ các doanh nghiệp địa ph-ơng đầu t- vào các quốc gia
Đông Nam á. Các trọng điểm đầu t- là các ngành công nghiệp sản xuất đòi
hỏi tập trung lao động truyền thống nh- dệt may, chất dẻo, da giày, sản xuất
giấy và sản xuất xe máy. Các hÃng Đài Loan sớm đặt chân tại Việt Nam gồm
công ty Tam D-ơng, tập đoàn Đài Vọng, công ty Cable và điện lực Đại
Đ-ơng, công ty Vedan, tập đoàn Pou Chen, tập đoàn pin công nghiệp Kung
Long Lực lượng lao động chi phí thấp, chất lượng v cần cù l những nhân
tố đầu tiên hấp dẫn các công ty Đài Loan tới thị trường ny, Trần Phương Mĩ,

phát ngôn viên của tập đoàn sản xuất da giày lớn nhất thế giới Pou Chen đÃ
nhận xét nh- vậy.
Về phía Việt Nam, đây là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đất đai màu mỡ, ng-ời lao động cần cù chịu khó. Giai đoạn từ sau
đổi mới 1986 đến nay, nền kinh tế tuy phát triển với tốc độ t-ơng đối cao song
nhìn chung vẫn ở trình độ thấp, các ngành công nghiệp vẫn tập trung vào
nhóm ngành sử dụng nhiều lao động, nhu cầu về vốn rất lớn, mặt hàng xuất
*

Còn gọi là chính sách H-ớng Nam Look south policy”

4


khẩu chủ yếu vẫn là nguyên liệu thô, nông sản cũng nh- các loại hàng hoá có
hàm l-ợng chất xám thấp, sức lao động giá rẻ. Những yếu tố này khiến nền
kinh tế Việt Nam cần các đối tác kinh tế để bù đắp và cân bằng những nh-ợc
điểm, để biến những nh-ợc điểm này thành lợi thế cạnh tranh lợi hại.
Đối với Đài Loan, Việt Nam luụn c gng duy trì mối quan hệ hữu hảo
này, đặc biệt là quan h kinh t. Đài Loan không có nhiều tài nguyên thiên
nhiên và nguồn lực này dng nh b cạn kiệt sau thi k phát triển kinh tế
thần kỳ. Môi trường bị tn ph nặng nề, đất đai, năng lượng b khai thỏc cạn
kit, cơ sở phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động với trình
độ công nghệ thấp khụng cũn. Với những thành tựu kinh tế đà đạt đ-ợc, đời
sống ng-ời dân Đài Loan ngày càng đ-ợc nâng cao và kt quả tất yếu là giá
nhân công tăng lên dẫn đến sự giảm sút sức cạnh tranh của các ngành nghề
cần nhiu lao động. Hàng hoá đ-ợc sản xuất phong phú trong khi thị tr-ờng
tiêu thụ trong n-ớc hạn hẹp. Để khắc phục tình trạng này, Đài Loan đà mở
rộng đầu t- sang các n-ớc có trình độ kém phát triển hơn và Việt Nam là một
trong những điểm đến hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận. Bên cạnh việc các

doanh nghiệp Đài Loan ồ ạt sang Việt Nam mở các công ty con thì cũng ngày
càng nhiều các lao động Việt Nam đ-ợc đ-a sang Đài Loan làm việc với mức
l-ơng t-ơng đối cao và môi tr-ờng làm việc đang dần vào ổn định.
Gần đây, việc Việt Nam và Đài Loan gia nhập WTO, trở thµnh hai thùc
thĨ cđa mét tỉ chøc kinh tÕ toµn cầu lớn đà khiến cho quan hệ kinh tế Việt
Nam - Đài Loan thực sự đứng tr-ớc một t-ơng lai rộng mở. Cùng có những
cam kết theo tiêu chuẩn quốc tế về thuế quan, hỗ trợ hợp tác th-ơng mại và
đầu t- và sự trợ giúp từ các n-ớc thành viên WTO, quan hệ kinh tế giữa hai
bên đang phỏt trin mnh m không ngừng đạt đ-ợc những b-ớc tiến cụ thể.
Tuy nhiên, điểm l-u ý trong quan hệ Vit Nam - Đài Loan là, hiện nay ViƯt
Nam cịng lµ ®iĨm thu hót ®Çu t- cđa rÊt nhiỊu qc gia trên thế giới, cũng có
nghĩa là Đài Loan sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn trong việc sử dụng nguồn lao
động giá rẻ của Việt Nam; bên cạnh đó là xu thế xuất khẩu lao động mạnh mẽ
từ Việt Nam sang Đài Loan và ngày càng nhiều ng-ời lao động Vit Nam bá

5


trốn cũng tiềm ẩn một số nguy cơ ảnh h-ởng đến quan hệ Việt Nam - Đài
Loan.
Bởi vậy, nghiên cứu về quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan, chỉ ra
những thuận lợi, những thách thức và dự báo những xu h-ớng phát triển l hết
sức cần thiết. Nói c²ch kh²c, viƯc t²c gi° chän ®Ị t¯i “Quan hƯ kinh tế Việt
Nam - Đài Loan: hiện trạng và triển vng lm luận văn thc sỹ l có ý nghĩa
thiết thùc.

2. Tình hình nghiên cứu
MỈc dï quan hƯ kinh tÕ Đài Loan - Việt Nam đà bắt đầu từ những năm
90 của thế kỷ XX, song vấn đề nghiên cứu §µi Loan nãi chung vµ quan hƯ
kinh tÕ ViƯt Nam - Đài Loan nói riêng mới chỉ đ-ợc khai thác trong vài năm

gần đây. Ch-a có một cuốn sách hay một công trình nghiên cứu chính thức
nào về Đài Loan, song đà có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu ở Viện
Nghiên cứu Đông Bắc á và một số ViƯn nghiªn cøu trùc thc ViƯn Khoa học
Xã hội (KHXH) Việt Nam tiên phong trong lĩnh vực này, có thể kể ra đây một
số công trình nghiên cứu:
1. Phan Cao Nhật Anh (2007), “Xuất khẩu lao động Việt Nam sang Đài
Loan”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6. Bài viết phân tích thực trạng
người lao động Việt Nam ở Đài Loan, những hệ quả tích cực và tiêu
cực.
2. Ngơ Xn Bình (2007), Hợp tác kinh tế Việt Nam – Đài Loan trong
bối cảnh hội nhập kinh tế Đông Á, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội
3. Trần Mạnh Cát (2007), “Vấn đề cô dâu Việt Nam và chú rể Đài
Loan”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3.
4. Phùng Thị Huệ (2003), “Những kinh nghiệm Việt Nam có thể tham
khảo qua việc tìm hiểu con đường phát triển kinh tế xã hội Đài Loan”,
Nghiên cứu Trung Quốc, số 5.

6


5. Lưu Văn Hưng (2005), Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị
trường Đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ kinh
tế, Hà Nội.
6. Nguyễn Liên Hương (2002), “Bước đầu tìm hiểu về lĩnh vực hợp tác
lao động giữa Việt Nam và Đài Loan”, Nghiên cứu Trung Quốc, số 6.
7. Nguyễn Đình Liêm (2006), Cơng nghiệp hố nơng nghiệp và nơng
thơn Đài Loan, NXB KHXH, Hà Nội.
8. Nguyễn Đình Liêm (1995), “Quan hệ kinh tế Đài Loan – Việt Nam
trong bối cảnh chung của chính sách hướng Nam”, Tạp chí nghiên
cứu Trung Quốc, số 1.

9. Dương Văn Lợi (2002), Nghiên cứu quan hệ mậu dịch Việt Nam –
Đài Loan từ 1993 đến 2002, Đề tài cấp viện, Hà Nội.
10. Phạm Quý Long (2007), “Thúc đẩy và mở rộng cơ hội trao đổi
thương mại Việt Nam – Đài Loan thời kỳ sau khi Việt Nam gia nhập
WTO”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2.
11. Phạm Thị Hồng Phượng (2006), “Tình hình đầu tư trực tiếp của Đài
Loan vào Việt Nam trong giai đoạn từ 1988 đến 2005”, Nghiên cứu
Đông Bắc Á, số 6.
12. Nguyễn Huy Quý (2005), Kỳ tích kinh tế Đài Loan, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Đức Thành (2002), “Quan hệ thương mại, đầu tư Đài Loan và
các nước Đông Nam Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, Hà Nội.
14. Dương Minh Tuấn (2007), “Xuất khẩu lao động Việt Nam sang Đài
Loan”, Hợp tác kinh tế Việt Nam – Đài Loan trong bối cảnh hội nhập
kinh tế Đông Á.

7


Như vậy đây là những cơng trình tiªn phong trong lĩnh vực nghiên cứu
Đài Loan và quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan, đà b-ớc đầu phân tích một
cách khái quát về Đài Loan. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của
quan hệ Việt Nam - Đài Loan trong những năm qua cần có một sự đầu tnghiên cứu sâu, rộng hơn nữa về ng-ời dân Đài Loan, nền kinh tế Đài Loan,
một trong những vùng lÃnh thổ có tầm ảnh h-ởng kinh tế lớn trong khu vực
Đông Bắc á, một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Những hiểu biết
này sẽ giúp Việt Nam và Đài Loan đ-a ra đ-ợc những chính sách phát triển
kinh tế phù hợp đôi bên cùng có lợi.

3. Mc ớch v nhim v nghiờn cu
Mục đích nghiên cứu chủ yếu của luận văn: làm rõ thực chất quan hệ

kinh tế Việt Nam - Đài Loan, từ đó thúc đẩy quan hệ kinhtế Việt Nam Đài Loan phát triển hơn nữa, đồng thời góp phần đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm:
Thứ nhất, phân tích cơ sở hình thành và các nhân tố ảnh h-ởng đến
quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan .
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam
Đài Loan.
Và thứ ba, nêu dự báo xu h-ớng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy
quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan.

4. i tng v phm vi nghiờn cu
Đối t-ợng nghiªn cøu : Quan hƯ kinh tÕ ViƯt Nam - Đài Loan thực chất
là quan hệ th-ơng mại và đầu t- giữa hai bên: Đó là th-ơng mại song
ph-ơng; các hình thức đầu t-; các lĩnh vực thu hút đầu t-.
Phạm vi nghiên cứu: Do đặc điểm quan hệ kinh tế giữa hai n-ớc mới
chỉ đ-ợc chính thức hoá trong những năm gần đây nên luận văn xin
đ-ợc tập trung nghiên cứu mối quan hệ này trong vòng 10 năm trở lại
đây.

8


5. Phng phỏp nghiờn cu
Luận văn sử dụng một số ph-ơng pháp nghiên cứu khoa học thông
dụng, bao gồm: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử thống kê, phân tích, so
sánh, nhận xét đánh giá của các chuyên gia.

6. Những đóng góp mới của luận văn
VỊ mỈt khoa häc: Hệ thống hoá và khái quát hoá về quan hệ kinh tế
giữa Việt Nam và Đài Loan.

Về mặt thực tiễn: Các giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam Đài Loan mà luận văn đề xuất sẽ góp phần t- vấn cho các cơ quan hoạch định
chính sách kinh tế của Việt Nam trong việc hoạch định đối sách kinh tế với
Đài Loan; đồng thời là tài liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề kinh
tế Việt Nam - Đài Loan .

7. B cc ca lun vn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lc,
đề tài gồm ba phần chính sau đây:
Ch-ơng 1 Các nhân tố tác động tới quan hệ Việt Nam - Đài Loan.
Ch-ơng 2 Thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam - Đài Loan
Ch-ơng 3 Triển vọng và các giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế
Việt Nam - Đài Loan

9


Ch-ơng 1. các nhân tố tác động tới quan hệ
kinh tế việt nam - đài loan
Có thể nói có bốn yếu tố tác động trực tiếp tới quan hệ kinh tế Việt
Nam - Đài Loan. Những yếu tố này tác ®éng nhiỊu chiỊu tíi quan hƯ kinh tÕ
ViƯt Nam - Đài Loan song những tác động đó là tích cực và nổi bật. Sau đây
chúng ta sẽ xem xét những yếu tố này.

1.1. Ton cu hoỏ
Toàn cầu hoá là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xà hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế trên
quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu nh- đ-ợc
dùng để chỉ các tác động của th-ơng mại nói chung và tự do hoá th-ơng mại
hay tự do th-ơng mại nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, ng-ời ta thấy các

dòng chảy t- bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy th-ơng mại, kỹ
thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
Những dấu hiệu ca ton cầu ho, đặc biệt l ton cầu ho kinh tế,
hiện diện ở khắp nơi trên thế giới: Gia tăng th-ơng mại quốc tế với tốc độ cao
hơn tốc độ tăng tr-ởng kinh tế thế giới; Gia tăng luồng t- bản quốc tế bao
gồm cả đầu t- trực tiếp từ n-ớc ngoài; Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới
thông qua việc sử dụng các công nghệ nh- internet, và vệ tinh liên lạc và điện
thoại; Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu; Gia tăng thị phần thế giới của
các tập đoàn đa quốc gia; Gia tăng số l-ợng các chuẩn áp dụng toàn cầu về
kinh tế Các rào cản đối với th-ơng mại quốc tế đà giảm bớt khá nhiều kể từ
Chiến tranh Thế giới thứ hai thông qua c¸c hiƯp -íc nh- HiƯp -íc chung vỊ
th quan và mậu dịch (GATT).
Toàn cầu hoá không bỏ quan một n-ớc nào, với những đặc điểm trên,
có thể dễ dàng nhận thấy những lợi ích mà toàn cầu hoá mang lại cho hầu hết
những thành viên tham gia. Trong hơn một thập kỷ qua, các quốc gia trên thế
giới nói chung và các n-ớc trong khu vực Châu nói riêng đà đạt đ-ợc tốc độ

10


tăng tr-ởng khá ấn t-ợng và đà giải quyết đ-ợc nhiều vấn đề khó khăn d-ới
tc động ca ton cầu ho. Thực tế cho thấy, tăng trưởng ca cc quốc gia
này chủ yếu dựa vào xuất khẩu, điều này có nghĩa rằng các quốc gia này đÃ
lợi dụng thị tr-ờng thế giới để xuất khẩu, gia tăng th-ơng mại, đầu t- hai
chiều và nâng tầm sử dụng công nghệ của mình lên ngang bằng với các n-ớc
phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó, giữa các n-ớc Châu vẫn luôn tồn tại
một khoảng cách t-ơng đối về vốn, các nguồn lực và kiến thức và họ đà khôn
khéo tận dụng được ton cầu ho kiến thức để thu hẹp kho°ng c²ch n¯y.
Tồn cầu hóa gắn liền với sự phát triển và mở rộng thị trường thế giới
diễn ra trong hơn hai thế kỷ gần đây. Chủ nghĩa Tự do trong thế kỷ 19 được

coi là “kỷ nguyên vàng đầu tiên của tồn cầu hóa”. Đặc trưng của tồn cầu
hóa thời kỳ này là sự gia tăng nhanh chóng của thương mại và đầu tư quốc tế
giữa các cường quốc đế quốc Châu Âu với các thuộc địa và sau đó là với Hoa
Kỳ. Kỷ nguyên Vàng chấm dứt từ khi nổ ra cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
nhất. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế cho rằng, Kỷ nguyên Vàng đã bị
sụp đổ từ đó cho đến trước Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Tiến trình tồn cầu hóa được tiếp tục kể từ sau cuộc chiến tranh này mà
đặc trưng của nó là gia tăng trao đổi thương mại và đầu tư quốc tế kết hợp với
việc hình thành các định chế quốc tế và khu vực. Điều lưu ý là, sự gia tăng
của các loại giao dịch quốc tế đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và đầu tư
là nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học và cơng nghệ. Chính điều này đã
tạo cơ sở giảm bớt chi phí giao dịch, tạo ra các công cụ và phương tiện mới,
thúc đẩy giao lưu quốc tế lên một trình độ cao hơn và có hiệu quả hơn. Như
chúng ta biết, để thúc đẩy thương mại quốc tế sau Chiến tranh Thế giới thứ
hai các nước phát triển đã hình thành thể chế GATT nhằm phá vỡ những rào
cản quan thuế và phi quan thuế; người ta hy vọng bằng cách này thương mại
quốc tế sẽ gia tăng cả khối lượng và chất lượng. Thực tế cho thấy, thông qua
GATT các nước tư bản chủ nghĩa đã đạt tới mục tiêu đó nhờ tạo ra một sân
chơi tương đối bình đẳng cho các thể nhân, đặc biệt là đối với các nước có
nền kinh tế phát triển ở châu Mỹ, châu Âu, kể cả châu Á.Cho dù mục tiêu tối
hậu là tự do hóa thương mại tồn cầu họ chưa đạt tới. Trong khi đó, các nước

11


xã hội chủ nghĩa cũng thúc đẩy giao lưu thương mại nội khối thông qua tổ
chức hợp tác và tương trợ kinh tế (SEV) (khối SEV tồn tại cho đến lúc Đông
Âu sụp đổ) và bằng cách này các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã góp phần
thúc đẩy tiến trình tồn cầu hóa thời kỳ đó. Tiếp theo vịng đàm phán
Uruguay (1984 - 1995), Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO đã hình thành.

Có thể nói đây là một định chế quốc tế lớn nhất và có thể là hồn hảo nhất để
thúc đẩy tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu. Với 150 thành viên
(Việt Nam thứ 150), tổ chức này thực sự là một sân chơi có luật lệ và là hiện
thân cho tồn cầu hóa kinh tế trong thực tế. Đài Loan cũng đã xúc tiến quyết
liệt để trở thành thành viên của tổ chức này sớm hơn Việt Nam. Điều lưu ý
đây là một định chế quốc tế đa phương mà khởi nguồn là các nước tư bản
phát triển và các nước có trình độ phát triển cao. Do vậy khi nói đến tồn cầu
hóa mà hiện thân là WTO thì người ta cho rằng đây là tồn cầu hóa mang tính
chất tư bản chủ nghĩa. Hiểu như vậy cũng không sai bởi như chúng ta biết thị
trường thế giới hình thành và phát triển mang tính liên tục gắn liền với sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản từ nhiều thế kỷ nay. Và nó bắt đầu từ chỗ
khơng có định chế, ép buộc thậm chí cướp bóc và xâm lược tới chỗ hình
thành nên các định chế điều tiết “các cuộc chơi” mang tính tồn cầu. Tất
nhiên các định chế này được xây dựng dựa trên cơ sơ nhận thức, quan điểm
và lợi ích của các nước thành viên, ở đó các nước có thực lực như nhóm G7
có vai trị chi phối. Và thực tế cho thấy, trong các cuộc thương lượng song
phương để gia nhập tổ chức WTO thì việc thương lượng với một số nước
thuộc G7, nhất là Hoa Kỳ thường gặp khó khăn nhiều nhất. Việc này đã gây
ra một nhận thức rằng WTO là sân chơi của các nước lớn. Và điều đó tạo cơ
sở cho những người khơng ủng hộ tồn cầu hóa hoặc các nhóm lợi ích khác
tìm cách chống lại q trình tồn cầu hóa.
Đồng thời với tiến trình thiết lập các định chế đa phương, các định chế
song phương cũng được xúc tiến ở nhiều khu vực. Chẳng hạn, ở Châu Âu là
cộng đồng Châu Âu (EC) sau chuyển thành Liên minh Châu Âu (EU); ở Châu
Mỹ là Khối Mậu dịch Tự do bắc Mỹ (NAFTA); ở Châu Á là ASEAN, APEC
và ở Châu Phi là cộng đồng Châu Phi (AC). Có người cho rằng, tiến trình vận

12



động của các định chế song phương là ngược với tồn cầu hóa hay người ta
cịn gọi đó là tiến trình khu vực hóa. Nói như vậy cũng có lý bởi thực chất của
các định chế song phương chính là khu vực hóa hay cịn gọi là liên kết khu
vực. Tiến trình này khơng chống lại tồn cầu hóa mà vận động song hành với
tồn cầu hóa và thúc đẩy tồn cầu hóa. Bởi tồn cầu hóa ở một phương diện
nào đó là sự đối mặt và cách thức đối phó với một vấn đề có tính tồn cầu
hoặc trên quy mơ tồn cầu và sự phức tạp thể hiện thơng qua các giải pháp
mang tính đa phương cho nên đơi khi người ta khó đạt tới một sự đồng thuận
kịp thời; và bổ sung cho điều này là các thỏa thuận song phương hay các hiệp
định song phương hay các hiệp định mang tính khu vực. Với quy mơ nhỏ hơn
và dựa trên những tương đồng về kinh tế hay về chính trị hay về văn hóa…,
các đối tác dễ đạt tới sự đồng thuận với nhau.
Thực tế cho thấy trong thời đại ngày nay một quốc gia dù có tiềm lực
đến mấy nếu khơng có một chiến lược phù hợp về hội nhập quốc tế và gia
tăng sự can dự của mình vào tiến trình tồn cầu hóa kinh tế thì họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Bởi vì khi tham dự vào tiến trình này thì những lợi thế và bất
lợi thế hay như người ta nói là khả năng cạnh tranh quốc gia sẽ được bộc lộ và
sẽ được nhận diện; thậm chí có người cho rằng nếu không nhận dạng được
đặc điểm này và chủ động tham gia vào tiến trình tồn cầu hóa thì quốc gia đó
khơng thể phát triển được.
§èi víi nỊn kinh tế Việt Nam, tác động của toàn cầu hoá kinh tế đà đ-ợc
nhìn nhận đúng đắn thể hiện trong những chiến l-ợc phát triển kinh tế kể từ
năm 2000 đến nay. Chóng ta ®· cã mét chiến lược ngoại giao tích cực, chủ
động, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ; làm bạn với tất cả các
quốc gia trên thế giới trên cơ sở tơn trọng quyền bình đẳng, đóng góp tích cực
cho hịa bình và phát triển của cả nhân loại. Đường lối đối ngoại đó sẽ được
cụ thế hóa rõ nét nhất bằng việc tham gia vào các tổ chức kinh tế - chính trị
trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị
quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),... Ở cấp liên khu vực, chúng ta là thành viên tích


13


cực của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn
đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN)... Và sự kiện vô cùng quan trọng là chúng ta ó chính thức gia nhập
Tổ chức Th-ơng mại Thế giíi (WTO).
Hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho đất nước phát triển, nhưng
cũng đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một nội lực đủ mạnh. Chúng
ta sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước phát triển. Chúng
ta cÇn kÕt hỵp những nội lực mạnh mẽ của Việt Nam, trước hết là tinh thần
hội nhập, tinh thần đoàn kết; sau là nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế nước nhà, song song với việc phát triển văn hóa - xã hội, nhằm tạo
nên một mơ hình phát triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững.
Trong quá trình gia nhập WTO chúng ta sẽ phải mau chóng dỡ bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng nhập khẩu. Vậy nếu muốn đảm
bảo, duy trì và phát triển nội lực kinh tế của nước nhà, nhà sản xuất trong
nước phải mau chóng tự hồn thiện, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu
dùng trong và ngoài nước. Đồng thời, cộng đồng người tiêu dùng Việt Nam
phải ý thức được việc ủng hộ ngành sản xuất, thương mại, dịch vụ trong nước
là trách nhiệm và vinh dự của một người công dân Việt Nam. Chúng ta hợp
sức tạo ra một số thương hiệu Việt, doanh nghiệp Việt, tập đồn kinh tế Việt
mang tính tiên phong, đủ sức cạnh tranh ở tầm mức khu vực và thế giới, nhằm
tạo ra điển hình, khơi dậy niềm tin, khát vọng, lịng tự hào của tồn thể dân
tộc trong sự nghiệp thi đua phát triển kinh tế với thế gii.
Có thể nhận ra một số đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam trong thời
gian gần đây trong bối c¶nh héi nhËp kinh tÕ qc tÕ. Thø nhÊt, ViƯt Nam đÃ
giành đ-ợc uy tín trên tr-ờng quốc tế thông qua việc tích cực thúc đẩy quá
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới - tiêu biểu là việc gia nhập ASEAN,

phê chuẩn Hiệp định Th-ơng mại Việt - MÜ, gia nhËp WTO… Thø hai, ViƯt
Nam thóc ®Èy mËu dịch với n-ớc ngoài với trọng tâm là xuất khẩu các sản
phẩm là nguyên liệu nh- dầu thô, gạo, cà phê và các mặt hàng công nghiệp

14


nhẹ nh- sản phẩm dệt may, daThứ ba, thâm hụt mậu dịch phát sinh do nhập
khẩu thiết bị máy móc sản xuất và nguyên vật liệu không phải từ các ngn
vèn trong n-íc mµ tõ ngn vèn n-íc ngoµi bao gồm vốn đầu t- trực tiếp
n-ớc ngoài (FDI) và tài trợ phát triển chính thức (ODA). Thứ t-, sự phát triển
của ngành sản xuất công nghiệp mỏ và khai khoáng có vốn đầu t- n-ớc ngoài
là động lực phát triển nỊn kinh tÕ ViƯt Nam. Tuy nhiªn, ChÝnh phđ thùc hiện
mô hình kinh tế nhiều thành phần, từng b-ớc mở cửa thị tr-ờng trong n-ớc,
nới lỏng dần thị tr-ờng trong n-ớc với mục tiêu phát triển các ngành công
nghiệp có hàm l-ợng vốn cao.
Đối với Đài Loan, chính thức gia nhập WTO tạo cho Đài Loan thế và
lực mới trên tr-ờng quốc tế. Đài Loan sẽ giữ vai trò và tuân thủ các nguyên tắc
giống nh- 143 thành viên khác của WTO và cạnh tranh một cách bình đẳng
trên tr-ờng quốc tế mà không bị phân biệt đối xử nh- tr-ớc khi gia nhập
WTO. Tham gia vào WTO đem lại nhiều cơ hội cho Đài Loan hơn cả về mặt
chính trị cũng nh- kinh tế. Đài Loan có rất nhiều lợi thế trong ngành công
nghiệp chế tạo. Giờ đây các doanh nghiệp của Đài Loan có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn trong việc xây dựng chiến l-ợc toàn cầu của mình v mở rộng
các quan hệ kinh tế quốc tế. Đây là con đ-ờng ngắn nhất, có hiệu quả nhất để
Đi Loan vượt qua ro cn không có quan hệ ngo³i giao” víi nhiỊu n­íc.
Nh- vËy, cã thĨ nãi, toµn cầu hóa đ-ợc nhận diện và vận động thông
qua các định chế quốc tế lớn, đặc biệt là WTO. Việc tham gia các định chế
này là một đòi hỏi tất yếu của các nền kinh tế, trong đó có Việt Nam và Đài
Loan. Điều này không chỉ giúp Việt Nam và Đài Loan có thêm cơ hội tham

gia sâu hơn vào tiến trình liên kết kinh tế toàn cầu mà nó còn tạo cơ hội tốt để
hai đối tác này mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế song ph-¬ng.

1.2. Khu vực hố và liên kết kinh tế Đơng
Châu á đà và đang trở thành trung tâm tăng tr-ởng năng động nhất của
thế giới. Là thành viên của cộng đồng Châu á, Việt Nam và Đài Loan đ-ơng
nhiên chịu ảnh h-ởng của sự phát triển kinh tế thần kỳ này, bao gồm cả những
tác động tích cực và tiªu cùc.

15


Khái niệm khu vực hóa hay chủ nghĩa khu vực là chỉ sự phụ thuộc lẫn
nhau tăng lên của các nền kinh tế trong một khu vực địa lý nhất định do kết
quả của sự gia tăng mậu dịch, của đầu tư, của chuyển giao công nghệ và sự di
chuyển nguồn nhân lực trong khu vực. Vì các nền kinh tế càng ngày càng từ
bỏ chiến lược và chính sách hướng nội, ủng hộ chính sách hướng ngoại nhiều
hơn nhằm cải thiện tình hình cạnh tranh nâng cao hiệu quả kinh tế, cho nên
nhu cầu hội nhập khu vực cũng gia tăng. Như vậy về thực chất, khu vực hóa
chỉ các thỏa thuận hợp tác kinh tế và liên kết kinh tế với mục tiêu thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thơng qua tự do hóa và tạo điều kiện thúc đẩy tự do hóa
thương mại và đầu tư. Ngày nay khu vực hóa được mở rộng sang cả lĩnh vực
chính trị, an ninh và xã hội chứ không chỉ thuần túy về phương diện kinh tế.
Tất nhiên, cốt lõi vẫn là khu vực hóa về kinh tế, chính điều này tạo cơ sở cho
các liên minh khu vực củng cố các quan hệ chính trị và an ninh.
Và khi đề cập tới khu vực hóa về kinh tế người ta thường nói tới một số
kiểu thỏa thuận ưu đãi khu vực theo mức độ hội nhập về thương mại và kinh
tế.
Thỏa thuận mậu dịch ưu đãi khu vực: đây là hình thức liên kết khiêm tốn
nhất gắn với thuế quan ưu đãi trong các lĩnh vực và hàng hóa được lựa chọn.

Chẳng hạn, cộng đồng than và thép Châu Âu, tiền thân của Liên minh Châu
Âu ngày nay; Hội đồng Tương trợ kinh tế của các nước Xã hội chủ nghĩa
trước đây; ở Đơng Á, ASEAN có hiệp định mậu dịch ưu đãi chọn lọc sau năm
1977, đến 1992 họ thỏa thuận xây dựng khu vực mậu dịch tự do.
Hiệp định mậu dịch tự do (FTA): các thành viên của nhóm xóa bỏ thuế quan
đối với tất cả các sản phẩm được mua bán giữa họ (ngoại trừ một danh mục
chung hay một số mặt hàng tạm thời loại trừ); đồng thời mỗi quốc gia duy trì
một chính sách mậu dịch độc lập và thuế quan riêng đối với các nước không
phải thành viên.
Liên minh thuế quan: bên cạnh hiệp định mậu dịch tự do giữa các thành
viên, nhóm này chấp nhận một chính sách thuế quan bên ngồi chung đối với
các nước khơng phải thành viên, do vậy xóa bỏ xảy ra khả năng gian lận
thương mại. Các thành viên của liên minh thuế quan nói chung hành động

16


như một cơ quan duy nhất trong tất cả các cuộc thương lượng mậu dịch với
các nước không phải là thành viên. Liên minh thuế quan ít phổ biến hơn FTA
vì các thành viên phải chịu sự phụ thuộc vào chính sách mậu dịch chung.
Thị trường chung: ngồi mậu dịch tự do giữa các thành viên và một chính
sách thuế quan bên ngồi chung đối với các nước khơng phải thành viên, tất
cả rào cản đối với việc chuyển dịch lao động và vốn giữa các thành viên được
xóa bỏ.
Liên kết kinh tế: giai đoạn cao nhất này bao gồm tất cả các đặc điểm của một
thị trường chung, cũng như sự thống nhất của những thể chế kinh tế và phối
hợp chính sách kinh tế giữa các nước thành viên. Các cơ quan liên kết quốc
gia với những quyết định áp dụng bắt buộc cho tất cả các thành viên. Điều
này gắn với sự nhượng bộ đáng kể chủ quyền quốc gia. Khi một liên minh
kinh tế chấp nhận một đồng tiền chung, nó cũng trở thành một liên minh tiền

tệ.
Có thể nói cơ sở liªn kÕt kinh tÕ chính là RPN đã kÕt nối hệ thống cơng
ty giữa các quốc gia. Được gọi là "Mạng lưới sản xuất", vì RPN phân cơng
lao động dựa trên hoạt động sản xuất. Nhà kinh tÕ NhËt Bản Ippei Yamazawa
đã gọi mạng lưới này là "Kokusai Bungyo Nettewaku" (Mạng lưới phân công
lao động quốc tÕ). Các công ty đa quốc gia (Multinational CorporationsMNCs) của các nền kinh tÕ cơng nghiệp chính là trọng tâm của mạng lưới
này. RPN là nhân tố cơ bn liên kết kinh tế Đông á. Mng li ny được thực
hiện dưới sự đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản và dựa trên cơ
sở của sự phân công lao động nhiều tầng. RPN đã gắn nối cỏc nn kinh tế
khỏc nhau ca Chõu á, liên kết, đan xen chúng với nhau. Chính nhờ RPN đã
hình thành nên các nền kinh tÕ công nghiệp mới (EANIEs-East Asian Newly
Industrialized Economies) và sau đó là các nền kinh tÕ công nghiệp mới của 4
nước ASEAN (Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia và Philippin) và Trung Quốc.
RPN đã tạo ra Tam giác Thng mi Nht Bn - Đông á v Bc M. Trong
tam giác tăng trưởng này, Nhật Bản với vai trò là người cung cấp vốn và kỹ

17


thut; cỏc nc Đông á xut khu hng hoỏ tiờu dùng tới Bắc Mỹ; Bắc Mỹ là
thị trường quan trọng ca c Nht Bn v Đông á.
RPN Đông á là một kiểu liªn kÕt kinh tÕ khơng chính thức (Informal
Economic Integration). Liên kết không chớnh thc Đông á dựa trên 3 mối
quan hệ đặc biệt, đó là: quan hệ chủng tộc, liªn kÕt cơng nghiệp và sự gần gũi
về địa lý. Mạng lưới đã biến tính khơng đồng nhất trong khu vực, từ một nhân
tố cản trở sự liªn kÕt thành cơ sở, động lực của sự liªn kÕt. RPN đã gắn kÕt
mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau ca cỏc nn kinh tế Đông á v bin Đông ¸
thành một khu vực kinh tÕ.
Hình thức phổ biến nhất của FTA là khu vực mậu dịch tự do (NAFTA,
AFTA…) và liên minh thuế quan. Về bản chất một FTA địi hỏi mức độ thể

chế hóa thấp hơn một liên minh thuế quan. Nhiều trong số FTA này đi xa hơn
tự do hóa mậu dịch và bao gồm cả các hợp tác chức năng trong các lĩnh vực
như phát triển nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng và trao đổi khoa học
cơng nghệ…
Làn sóng đầu tiên của khu vực hóa xuất hiện trong những thập niên
1950, 1960 với sự ra đơid khu mậu dịch tự do Châu Âu năm 1959 và sau đó
là hình thành cộng đồng kinh tế Châu Âu (EC). Chẳng bao lâu sau đó, các
nước đang phát triển ở khu vực Mỹ La Tinh và Châu Phi đã xây dựng các khu
vực mậu dịch riêng của họ - Khu mậu dịch tự do Châu Phi (RTA). Tuy
nhiên, những RTA này không thành công ngoại trừ khu vực mậu dịch tự do
Châu Âu. Lý do thất bại chủ yếu được người ta nói đến nhiều là do sự can
thiệp của Mỹ, bởi thời kỳ đó Mỹ chỉ ủng hộ thương mại đa phương thông qua
GATT; Mỹ lo sợ các RTA này kìm hãm thương mại đa phương.
Làn sóng thứ 2 của khu vực hóa xuất hiện vào cuối những năm 1980 với sự
hình thành Liên minh Châu Âu (EU), một thị trường duy nhất. Hoa Kỳ xúc
tiến xây dựng khu vực thương mại tự do Mỹ - Canada, sau đó các nước bắc
Mỹ thỏa thuận xây dựng khu vực thương mại tự do (NAFTA). Việc hình
thành EU và NAFTA đã tạo ra một hiệu ứng Domino, giúp khôi phục các

18


RTA cũ và khuyến khích các RTA mới ở Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và
Châu Á, chẳng hạn Hiệp định Thương mại Tự do khu vực Mỹ La Tinh
(MERCOSUR) và Andean. Châu Á Thái Bình Dương đến muộn hơn với sự
hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN bắt đầu vào năm 1992 (AFTA).
Tuy nhiên, có nhiều đặc điểm khác nhau giữa làn sóng thứ nhất và làn
sóng thứ hai của khu vực hóa. Làn sóng đầu tiên là sự hội nhập hướng vào
bên trong và chưa có độ sâu, người ta chỉ chú trọng giảm thuế quan. Trong
khi đó, làn sóng thứ 2 mang tính mở, thúc đẩy tự do hóa nhanh hơn, hội nhập

sâu hơn, đi xa hơn trong việc cắt giảm thuế quan; và loại trừ ưu đãi vì một
quốc gia có thể đồng thời là thành viên của nhiều hơn một RTA.
Như đã nói ở trên, người ta cho rằng làn sóng thứ hai của RTA tạo ra tự do
hóa nhanh hơn và sâu sắc hơn, nhất là ở cấp độ đa phương và rằng tự do hóa
ở cấp khu vực có thể trở thành điều kiện thuận lợi hoặc hỗ trợ cho việc đạt
được sự nhất trí cao ở cấp độ đa phương trong tổ chức WTO.
Có người đã nói “Khu vực hóa là một nửa bánh lái hướng con tàu tự do
hoá đi quanh tồn cầu”. Hiệp định Cơng nghệ thơng tin (ITA) của WTO minh
hoạ tốt nhất điều này và như đã biết, Hiệp định này được khởi động bởi Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) trước khi nó chuyển
sang WTO.
Tuy nhiên, khi một quốc gia có thể là một thành viên của hơn một
RTA, thì sự chồng chéo có thể gia tăng, rủi ro cũng gia tăng và điều này có
thể dẫn tới những xung đột mậu dịch. Bên cạnh đó, những bất cập như vậy có
thể gây phương hại đến việc thực hiện các chức năng của WTO.
Vẫn còn một câu hỏi chưa có câu trả lời đó là liệu các RTA có thể phối
hợp có hiệu quả cùng với hệ thống mậu dịch đa phương. Cho dù câu hỏi này
còn bỏ ngỏ, song ở thời kỳ làn sóng thứ hai thì dường như việc tham gia các
RTA trở thành những lựa chọn chính sách của nhiều quốc gia đang phát triển.
Khi RTA được dự đoán sẽ tiếp tục lan rộng trên quy mơ tồn cầu, khơng ít
nước đang phát triển cho rằng họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi nếu họ không tham
gia. Mối quản ngại này trở nên rõ hơn khi xem xét những đối tác mậu dịch
chính và nguồn FDI của họ là tác nhân dẫn đến hình thành RTA và những đối

19


thủ cạnh tranh của họ đã là thành viên của một hoặc nhiều hơn một RTA.
Thực tế cho thấy, một quốc gia đang phát triển sẽ phải đối mặt với các thương
vụ bị phân biệt đối xử từ một RTA bất kỳ ở đó nó khơng là thành viên nhưng

đối thủ cạnh tranh và đối tác mậu dịch chính lại là thành viên của RTA đó.

1.3. Chính sách “Hƣớng Nam” ca i Loan
Năm 1981, Tổng thống Mahathir, trong công cuộc khởi đầu công
nghiệp hoá Malaysia, đ lần đầu tiên tuyên bố về chính sch Hướng Đông
nhằm thu hút dòng vốn và công nghệ cao từ các quốc gia ph-ơng Đông, đó là
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Mặc dù chính sách này đ-ợc phát minh lần
đầu tiên tại Malaysia nh-ng sau đó một số n-ớc Đông Nam , nh- Singapo,
Thái Lan, Indonesia và Philippin cũng đà học tập Malaysia để có đ-ợc sự trao
đổi và hợp tác về chính trị và kinh tế đối với các n-ớc Đông Bắc á.
Chính sch Hướng Đông l kế hoch chiến lược về kinh tế ca cc
n-ớc Đông Nam . Nhờ nó, họ có thể giảm sự lệ thuộc quá mức vào các n-ớc
ph-ơng Tây và tái thiết mối quan hệ kinh tế gần gũi với các quốc gia ở Đông
. Bắt đầu từ thời điểm này, Malaysia và các n-ớc Đông Nam khác đà phục
hồi nhanh những mối quan hệ chính trị và kinh tế với Đài Loan. Tất cả các
bên cùng thiết lập những cơ quan đại diện nửa chính thức nhằm giải quyết
những công việc mang tầm quốc gia.
Tuy nhiên, Đài Loan không phải là một nhà xuất khẩu vốn lớn vào thời
điểm đó. Bởi Đài Loan đang tập trung vào việc củng cố nền kinh tế và sắp xếp
lại hệ thống các nguồn vốn chồng chéo nhau nhằm đầu t- vào thị tr-ờng nội
địa. Đài Loan không có vốn d- để đầu t- ra n-ớc ngoài. Thêm vào đó, Chính
phủ cũng có những luật định giới hạn ng-ời dân Đài Loan đem vốn ra n-ớc
ngoài tự đầu t-. Cho tới tháng 5 năm 1987, Chính phủ Đài Loan mới nới lỏng
các qui định về th-ơng mại với n-ớc ngoài và cho phép các cá nhân mang vốn
ra n-ớc ngoài và hệ quả của việc này là đầu t- ra n-ớc ngoài của Đài Loan lên
tới 5 triệu USD. Ngay sau đó, một l-ợng lớn FDI từ Đài Loan vào các n-ớc
Đông Nam đà tăng lên rõ rệt.

20



Theo thống kê của Chính phủ Đài Loan , tổng số vốn đầu t- đ-ợc phê
duyệt từ 1952 đến tháng 2 năm 1992 là 4,96 tỷ USD. Cùng thời điểm đó, tổng
số vốn đầu t- vào Singgapo, Philippin, Indonesia, Thái Lan và Malaysia là
1,74 tỷ USD, chiếm 35% vốn đầu t- ra n-ớc ngoài của Đài Loan. Nh-ng tổng
số vốn đầu t- chính thức vào các quốc gia Đông Nam đà lên tới 40 tỷ USD
vào đầu 1999.
Nhằm bảo vệ dòng vốn khổng lồ vào Đông Nam , Chính phủ Đài Loan
đà đồng ý ký kết Hiệp định bảo vệ đầu t- lần l-ợt với Singapo, Indonesia, Thái
Lan, Philippin, Malaysia và Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ 20.
Chính phủ Đài Loan cũng đà kế kết một Hiệp định tránh đánh thuế gấp đôi và
tránh trốn thuế với Singapo, Indonesia và Việt Nam.
Trong lĩnh vực tài trợ công nghệ và viện trợ kinh tế, Đài Loan là một
trong những nhà tài trợ mang tầm quốc tế đối với Đông Nam . Mặc dù Đài
Loan chỉ l một vïng l±nh thỉ nhá bÐ nh­ng víi t­ c²ch l¯ một Con Rồng
Châu , Đi Loan đ gửi cc chuyên gia kỹ thuật tới các quốc gia Đông Nam
từ năm 1965. Từ thời điểm đó đến năm 1991, Đài Loan đà gửi 1080 chuyên
gia tới Đông Nam , bao gåm: 510 ng-êi tíi miỊn Nam ViƯt Nam (19651974), 107 ng-êi tíi Philippin (1965-1974), 97 ng-êi tíi Th¸i Lan (19691974), 351 ng-êi tíi Indonesia (1967-1991) vµ 15 ng-êi tíi Papua New
Guinea (1991).
Việc hỗ trợ chuyên gia kỹ thuật của Đài Loan tới các quốc gia Đông
Nam có thể chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ những năm 1960 đến
đầu những năm 1980 khi việc tài trợ công nghệ, kỹ thuật nông nghiệp nhằm
tăng c-ờng các mối quan hệ song ph-ơng. Giai đoạn thứ hai từ đầu những
năm 1980 đến nay, khi công nghệ, các quỹ tài chính, đầu t- đ-ợc sử dụng
nhằm phát triển và duy trì các mối quan hệ này. Hai giai đoạn trên phản ánh
rõ nét sự phát triển kinh tế của Đài Loan vào nửa cuối thế kỷ 20.
Nhằm mở rộng nền tảng kinh tế, Đài Loan tiếp tục phát triển chính sách
Hướng Nam vo thng 7 năm 1994. Mục tiêu v nội dung cða chÝnh s²ch
n¯y ho¯n to¯n kh²c víi chÝnh s²ch Hướng Đông ca Malaysia. Do sự tăng
vọt của giá đất đai, mức tiền l-ơng và sự d- thừa dòng vốn vµo Trung Quèc,


21


thêm vào đó là sự điều chỉnh khu vực th-ơng mại tự do (FTA) của ASEAN
năm 2002, Chính phủ Đài Loan cố gắng đa dạng hoá các nguồn tài nguyên và
vốn tới các n-ớng láng giềng ở Đông Nam . Về cơ bản, nội dung kinh tế của
chính sch hương Nam” bao gåm: 1) Cung cÊp viƯn trỵ kinh tÕ cho cc quốc
gia để xây dựng khu kinh tế; 2) Tạo môI tr-ờng đầu t- và xuất khẩu thuận lợi
cho các doanh nghiệp i Loan tại Đông Nam á; 3) Thành lập các văn
phòng đại diện của các tổ chức kinh tế i Loan tại các n-ớc sở tại [10,
tr.70]. Đài Loan đà xuất khẩu một l-ợng vốn lớn và công nghệ vào Đông Nam
. Họ đang chờ đợi sự xuất hiện của một khu vực công nghiệp ở đây để từ đó
có thể hợp tác nhiều hơn nữa trong các lĩnh vực công nghiệp với các chính phủ
ở khu vực này.
Mặc dù vậy, giữa chính sch Hướng §«ng” v¯ “H­íng Nam” cđng cã
sù gièng nhau. Cơ thĨ là, cả hai chính sách đều đà đạt đ-ợc những mục tiêu
của mình, thúc đẩy kinh tế và mối liên kết kinh tế nhiều hơn trong khu vực.
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu vào giữa năm 1997 đà gây ảnh h-ởng
nặng nề tới kinh tế Đài Loan nh-ng liên kết kinh tế giữa Đài Loan và Đông
Nam vẫn đ-ợc duy trì. L-ợng vốn của Đài Loan đầu t- vào các quốc gia
Đông Nam vẫn lớn hơn so víi ngn vèn tõ c¸c qc gia kh¸c. Trong thêi
gian sắp tới, luồng vốn này có khả năng sẽ tập trung vào Malaysia, Thái Lan
và Việt Nam, bởi những quốc gia này duy trì đ-ợc một môi tr-ờng đầu t- ổn
định và điều đó thu hút các nhà đầu t- Đài Loan.
ở một chừng mực no đó, chính sch Hướng Đông khuyến khích cc
doanh nghiệp trong n-ớc đổi mới công nghệ và kỹ năng quản lý trong khu vực
công nghiệp, tăng c-ờng kỷ luật lao động. Đây cũng là những néi dung chđ
u trong chÝnh s¸ch ph¸t triĨn kinh tÕ của Đài Loan vào những năm 1970.
Giờ đây với chính sch Hướng Nam, Đi Loan li rót vốn, công nghệ, qun

lý lao động của các công ty công nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là các nhà máy,
vào các quốc gia Đông Nam . Ng-ời ta tin rằng, sự hợp tác, trao đổi lẫn nhau
này sẽ tiếp tục phát triển trong nh÷ng thÕ kû tíi.

22


1.4. Đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam
Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho đất
nước khởi sắc về mọi mặt, trong đó có sự đóng góp của mặt trận ngoại giao.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về các văn kiện Đại
hội X do Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh trình bày nêu rõ: "Vị thế nước ta trên
trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia
đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp".
Để thấy rõ hơn ý nghĩa lịch sử của những thành tựu hiện nay về mặt đối
ngoại, cần nhớ lại tình hình khó khăn của ta về ngoại giao trước khi tiến hành
đổi mới. Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, tuy cịn gặp
nhiều khó khăn do 30 năm chiến tranh gây ra, nhưng Việt Nam đã tạo lập
được vị thế và uy tín rất cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, do những sai lầm
chủ quan, duy ý chí, nóng vội, chúng ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội và bị cô lập về ngoại giao. Nhân tình hình đó, các thế lực
chống đối đã lợi dụng những khó khăn của Việt Nam để câu kết với nhau,
chống phá. Việt Nam cịn rất ít bạn bè. Một số nước trước đây ủng hộ Việt
Nam trong kháng chiến chống Mỹ đã xa lánh ta. Quan hệ giữa nước ta với các
nước ASEAN và các nước lớn (trừ Liên Xô và Ấn Độ) gặp nhiều vướng mắc
và không giải tỏa được khiến cho nền an ninh nước ta bấp bênh khi phải đối
phó với sự căng thẳng ở cả hai đầu biên giới. Trong lúc đó, những khó khăn
về kinh tế lại càng chồng chất vì phải chi tiêu rất lớn cho qn sự, quốc

phịng.
Để thốt ra khỏi tình hình khó khăn, tháng 7-1986, Bộ Chính trị đã họp
và ra Nghị quyết 32 xác định rõ chủ trương và điều chỉnh chính sách ngoại
giao và tiến tới giải pháp về Cam-pu-chia. Nghị quyết nêu rõ:
- Nhiệm vụ đối ngoại của Việt Nam là kết hợp tốt sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, chủ động tạo thế ổn định để tập
trung xây dựng kinh tế.

23


×