Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Sự chuyển hóa từ vị từ tĩnh sang vị từ động trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HƢỜNG

SỰ CHUYỂN HÓA TỪ VỊ TỪ TĨNH
SANG VỊ TỪ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Ngôn ngữ học

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HƢỜNG

SỰ CHUYỂN HÓA TỪ VỊ TỪ TĨNH
SANG VỊ TỪ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HỒNG CỔN


Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng cơng bố
trong bất kỳ một cơng trình nào khác.

Hà Nội, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hƣờng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô và các
cán bộ khoa Ngôn ngữ học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu tại
đây.
Tơi cũng xin cảm ơn phịng Đào tạo sau đại học của khoa và trường đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong khi làm thủ tục bảo vệ luận văn.
Cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Hồng
Cổn, người đã định hướng và cho tôi những chỉ dẫn khoa học quý giá trong
suốt thời gian học tập cũng như trong quá trình thực hiện đề tài này.

Hà Nội, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hƣờng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

5

1. Đặt vấn đề

5

2. Tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài

6

3. Mục đích nghiên cứu

9

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

9

5. Đối tượng nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

9

6. Phương pháp nghiên cứu

11


7. Ý nghĩa của luận văn

11

8. Bố cục của luận văn

12

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

13

1. 1. Các khái niệm tiền đề

13

1.1.1. Về khái niệm vị từ và các thuật ngữ liên quan

13

1.1.2. Khái niệm và phân loại các kiểu sự tình

22

1.1.3. Về khái niệm “vị từ động” và “vị từ tĩnh”

27

1.2. Về sự phân biệt động-tĩnh của vị từ tiếng Việt


28

1.2.1. Những nhận xét mở đầu

28

1.2.2. Các dấu hiệu hình thức phân biệt vị từ động và vị từ từ tĩnh

30

1.3. Cơ sở lý thuyết về sự chuyển hóa của vị từ

33

1.3.1. Những nghiên cứu tiên phong

33

1.3.2. Phân biệt hiện tượng chuyển hóa của vị từ với các hiện tượng khác

37

1.3.3. Quan điểm của tác giả luận văn

40

1.4. Tiểu kết

43


CHƢƠNG 2. SỰ CHUYỂN HÓA TỪ TĨNH SANG ĐỘNG CỦA VỊ TỪ TIẾNG
VIỆT TRONG KẾT CẤU CÓ YẾU TỐ CHỈ HƢỚNG

45

2.1 Dẫn nhập

45

2.2. Nhắc lại một số kết quả phân loại vị từ tiếng Việt

45

2.2.1. Nhóm vị từ động

46
1


2.2.2. Nhóm vị từ tĩnh

48

2.3. Về nhóm từ chỉ hướng trong tiếng Việt

50

2.3.1. Hoạt động ngữ pháp của nhóm từ chỉ hướng


50

2.3.2. Cương vị cú pháp của từ chỉ hướng khi đứng sau các từ loại khác

55

2.3.3. Cương vị ngữ nghĩa của từ chỉ hướng đứng sau vị từ

56

2.4. Các con đường chuyển hóa từ tĩnh sang động của vị từ tiếng Việt có sự hỗ trợ
của yếu tố chỉ hướng

57

2.4.1. Nhận xét

57

2.4.2. Sự chuyển hóa vị từ trạng thái thành vị từ q trình

58

2.4.3. Sự chuyển hóa vị từ tư thế thành vị từ hành động

60

2.5. Đặc điểm ngữ nghĩa ngữ pháp của câu với tổ hợp “vị từ tĩnh + từ chỉ hướng” 63
2.5.1. Đặc điểm ngữ nghĩa của vị từ chuyển hóa


63

2.5.2. Vai nghĩa của tham thể trong sự chuyển hóa của vị từ

65

2.5.3. Cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu

67

2.5.4. Ngữ nghĩa của tổ hợp “vị từ tĩnh + từ chỉ hướng”

69

2.6. Những ghi nhận khác về khả năng kết hợp của vị từ tĩnh và từ chỉ hướng

73

2.6.1. Khả năng tham gia vào kết cấu gây khiến từ vựng tính

73

2.6.2. Khả năng có sự tham gia của các yếu tố cực cấp của vị từ

74

2.6.3. Những trường hợp vị từ tĩnh không thể kết hợp với từ chỉ hướng

75


2.7. Tiểu kết

76

CHƢƠNG 3. SỰ CHUYỂN HOÁ TỪ TĨNH SANG ĐỘNG CỦA VỊ TỪ TIẾNG
VIỆT TRONG CÁC KẾT CẤU GÂY KHIẾN – KẾT QUẢ

78

3.1. Cấu trúc gây khiến - kết quả trong tiếng Việt

78

3.1.1. Về khái niệm cấu trúc gây khiến - kết quả

78

3.1.2. Nhận diện kết cấu gây khiến - kết quả

79

3.2. Đặc điểm chung của cấu trúc gây khiến - kết quả trong tiếng Việt

84

3.2.1. Đặc điểm ngữ nghĩa

84

3.2.2. Đặc điểm ngữ pháp


87
2


3.3. Sự chuyển hoá vị từ tĩnh thành vị từ động trong kết cấu gây khiến - kết quả

89

3.3.1. Vai trò của vị từ trung tâm trong kết cấu gây khiến - kết quả

89

3.3.2. Kết cấu gây khiến - kết quả có vị từ biểu thị những hành động làm cho đối
tượng biến đổi trạng thái

90

3.4. Sự chuyển hóa vị từ tĩnh sang vị từ động có sự tham gia của các yêu tố ngữ pháp
hóa

93

3.4.1. Hiện tượng ngữ pháp hóa một số vị từ gây khiến trong tiếng Việt

93

3.4.2. Trường hợp “đánh” và “làm”

94


3.5. Tiểu kết

97

CHƢƠNG 4. SỰ CHUYỂN HÓA TỪ TĨNH SANG ĐỘNG CỦA VỊ TỪ TIẾNG
VIỆT TRONG CÁC KẾT CẤU CĨ YẾU TỐ THỜI THỂ - TÌNH THÁI

98

4.1. Dẫn nhập

98

4.2. Nhóm phụ từ chỉ tốc độ - bất ngờ trong vai trị hỗ trợ sự chuyển hóa của vị từ 99
4.2.1. Vị trí của nhóm từ này trong hệ thống từ loại tiếng Việt

99

4.2.2. Về khái niệm nhóm phụ từ biểu thị tốc độ - bất ngờ

100

4.2.3. Vai trị hỗ trợ cho sự chuyển hóa vị từ tĩnh thành vị từ động

101

4.2.4. Ngữ nghĩa của vị từ chuyển hóa

106


4.3. Sự chuyển hóa vị từ tĩnh thành vị từ động có sự hỗ trợ của các yếu tố thời-thể,
tình thái

107

4.3.1. Điểm luận các yếu tố thời-thể, tình thái trong tiếng Việt

107

4.3.2. Vai trị hỗ trợ sự chuyển hóa vị từ tĩnh thành vị từ động của một số yếu tố thời,
thể, tình thái

109

4.4. Tiểu kết

119

KẾT LUẬN

121

THƢ MỤC THAM KHẢO

124

NGUỒN TƢ LIỆU TRÍCH DẪN

131


3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTCP

Cấu trúc cú pháp

CTNBH

Cấu trúc nghĩa biểu hiện

KCVN

Kết cấu vị ngữ

NPCN

Ngữ pháp chức năng

Ss

So sánh

VTĐ

Vị từ động


VTHĐ

Vị từ hành động

VTQT

Vị từ quá trình

VTT

Vị từ tĩnh

4


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Sự phân biệt động – tĩnh trong nội bộ vị từ của một ngôn ngữ là một trong
những sự phân biệt căn bản và quan trọng nhất, và có thể coi là phổ qt cho mọi
ngơn ngữ trong đó có tiếng Việt. Vấn đề thú vị này đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà ngôn ngữ học trong nước và cả quốc tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến chưa
thống nhất. Bản thân sự phân biệt động – tĩnh đã phức tạp, nhưng nó kéo theo các vấn
đề như sự chuyển hoá từ tĩnh sang động (và ngược lại) của vị từ có phần còn phức tạp
hơn nhiều. Phần lớn các tác giả khi bàn về vấn đề này, bằng nhiều cách tiếp cận khác
nhau đã đưa ra các giải pháp và kết quả nghiên cứu khá phong phú song các tác giả
vẫn tập trung chủ yếu vào việc xác lập các tiêu chí nhận diện nhằm đi đến sự phân
loại các vị từ hơn là xác định các phương thức chuyển hoá. Sự chuyển hóa của vị từ
từ đặc trưng này sang đặc trưng khác đối lập với nó là một vấn đề mới chưa được các
nhà nghiên cứu quan tâm nhiều, đặc biệt là trong ngữ pháp truyền thống, chính điều
đó đã thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài này.

Đường hướng và cách tiếp cận vấn đề của chúng tôi về căn bản là kế thừa các
kết quả nghiên cứu đã được thừa nhận của ngữ pháp chức năng, mà ở đây là khảo sát
vị từ trong cái khung cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu. Đó là nghĩa đề cập đến một sự
tình nào đó trong hiện thực khách quan. Mỗi sự tình có một cấu trúc, thường bao gồm
lõi là một vị tố và các tham thể. Vị tố là hạt nhân của sự tình, cịn các tham thể là các
thực thể tham gia vào biểu đạt sự tình. Trong thực tế có nhiều loại sự tình, sự khác
nhau của chúng được phân biệt dựa trên đặc điểm của vị từ hạt nhân và số lượng, đặc
điểm của các tham thể. S. C. Dik có thể nói là người đầu tiên sử dụng các đặc trưng
cơ bản là [động] và [chủ ý] để phân biệt các sự tình. Dựa trên thông số [động], một
mặt là phân biệt giữa những sự thể “động” tức là những “biến cố”, những sự việc,
những sự thay đổi có thể xảy ra, diễn ra như bay, đi, chạy, nhảy, hát, nổ, đánh, rơi,
v.v. với những sự thể “tĩnh” tức là những tình thế, trạng thái, những tính chất có thể
kéo dài, nghĩa là tồn tại các sự vật trong một thời gian được tri giác là có chiều dài, có
kích thước, có màu sắc, có trọng lượng như to, nhỏ, xấu, đẹp, đen, trắng, béo, gầy,
v.v. Theo thông số [chủ ý], sự phân biệt giữa những sự thể diễn ra hay tồn tại do sự
chủ ý có sự tự điều khiển của con người hay động vật, tức những hành động như
chạy, nhảy, đánh, đập, v.v., những tư thế như đứng, ngồi, nằm, quỳ, v.v. với những sự
tình khơng do sự chủ ý mà ra, những quá trình hay trạng thái của những bất động vật
như rơi, khô, héo, cong, v.v. hay của những động vật, nhưng khơng có sự tự điều
5


khiển, tự kiểm soát của chúng như ngã, đau, ốm, khỏe, yếu, v.v. Cách phân loại này
của Dik được coi là có hiệu lực cho mọi ngơn ngữ. Khi ứng dụng vào tiếng Việt, ta
cũng thấy có sự phân biệt rất rõ giữa các vị từ trên cả hai thông số, ở cả hai bình diện
ngữ pháp và ngữ nghĩa, trong đó sự phân biệt theo thơng số [động] có thể nói là được
đánh dấu rõ nét nhất.
Sau S.C. Dik, một số tác giả đã bổ sung thêm một số sự tình khác như sự tình
quan hệ, sự tình tồn tại. Đây là sự phân loại sự tình, cũng là sự phân loại nghĩa biểu
hiện của câu, chứ không phải là sự phân loại từ ngữ thể hiện các sự tình, dù rằng các

sự tình đều phải biểu hiện bằng hình thức từ ngữ (vị tố biểu hiện bằng vị từ, còn các
tham thể thường biểu hiện bằng danh từ, danh ngữ hay đại từ, v.v.). Có một vấn đề rất
quan trọng là các đặc trưng nói trên của sự tình biểu lộ như thế nào ở các ngơn ngữ cụ
thể. Chẳng hạn như tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, trong nhiều trường hợp, cùng
một vị từ nhưng tùy theo ngữ cảnh lại có thể biểu hiện những sự tình khác nhau, thể
hiện những đặc trưng trái ngược nhau. Khi vị từ có sự chuyển hóa về ý nghĩa, sắc
thái, đặc trưng để diễn đạt các loại sự tình khác nhau, thì các tham thể cũng có sự
thay đổi về số lượng, đặc điểm và vai nghĩa. Đồng thời, sự kết hợp của vị từ với các
yếu tố khác như phó từ hay hư từ, tình thái từ, và/hoặc các vị từ khác trong các loại
kết cấu đặc biệt được thể hiện trong khung vị ngữ chính là những dấu hiệu hình thức
của sự chuyển hóa vị từ, ở đây là sự chuyển hóa từ đặc trưng tĩnh sang đặc trưng
động. Đó là các vấn đề mà nghiên cứu ngữ pháp – ngữ nghĩa nói chung và nghiên
cứu vị từ tiếng Việt nói riêng vẫn cịn bỏ ngỏ.
2. Tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
Vị từ và những vấn đề ngữ nghĩa – ngữ pháp của vị từ vốn là đối tượng kinh
điển trong nghiên cứu ngữ pháp. Vai trò quan trọng của vị từ trong hoạt động ngữ
pháp, mà cụ thể là trong sự chi phối các thành phần câu là điều đã được các nhà ngữ
pháp thừa nhận.
Trong bối cảnh nghiên cứu cú pháp thuần túy hình thức cuối cùng cũng bộc lộ
nhiều hạn chế không thể khắc phục được, việc chuyển hướng nghiên cứu vào ngữ
nghĩa, chức năng, vào sự kết hợp ngữ nghĩa – ngữ pháp trong khảo sát vị từ - với tư
cách là trung tâm tổ chức cú pháp – ngữ nghĩa của câu tỏ ra có hiệu lực và phù hợp
với lí luận đổi mới trong ngơn ngữ học ngày nay. Hướng đi này đã gợi mở và chứng
kiến những thành tựu đáng ghi nhận. Đầu tiên phải kể đến cơng trình Éléments de
syntaxe structural của L. Tesnière xuất bản năm 1959 ở Paris được coi là đặt nền
móng cho nghĩa học cú pháp. Theo đó, tổ chức của câu bao gồm một đỉnh là vị từ
6


trung tâm và các tham tố quây quần chung quanh vị từ đó. Tham tố có thể chia làm

hai loại, dựa trên tiêu chí bắt buộc hay khơng bắt buộc để có thể cùng với vị từ trung
tâm tạo thành một câu trọn vẹn. Thậm chí, theo lý thuyết của Tesnière, khái niệm chủ
ngữ của ngữ pháp truyền thống bị hạ cấp, chủ ngữ khơng cịn đóng vai trị là một
trong hai thành phần trung tâm của câu nữa mà chỉ có vai trị tương đương như các bổ
ngữ, mà ở đây là các diễn tố của vị từ, bị quy định bởi bản chất ngữ pháp của vị từ.
Các nhà ngữ pháp sau đó như C.J. Fillmore, W.L. Chafe, S.C. Dik, M.A.K. Halliday,
v.v. cũng thể hiện quan điểm coi vị từ là hạt nhân ngữ pháp – ngữ nghĩa của câu trong
các nghiên cứu của mình. Chẳng hạn, W.L. Chafe trong cuốn Ý nghĩa và cấu trúc của
ngôn ngữ đã nói rằng: “tồn bộ thế giới khái niệm của con người ngay từ đầu đã chia
ra làm hai phạm vi chính. Một là phạm vi động từ bao gồm các trạng thái (tình trạng,
chất lượng) và sự kiện; phạm vi kia là danh từ bao gồm các “sự vật” (…). Tôi chấp
nhận rằng trung tâm của chúng là động từ, cịn ngoại diên là danh từ. Có hàng loạt
nhân tố có thể giải thích được một cách hồn hảo nhất nếu thừa nhận rằng động từ
chiếm vị trí trung tâm” [6, tr.124]. Ở Việt Nam, các nhà ngôn ngữ học theo hướng
chức năng luận khi nghiên cứu vị từ tiếng Việt cũng củng cố quan điểm đó. Cao Xuân
Hạo cho rằng “chức năng của vị từ chính là làm thành vị ngữ (ngữ đoạn vị từ) hay
làm trung tâm của ngữ đoạn này, cho nên chính nó đảm đương việc mang những đặc
trưng ngữ pháp-ngữ nghĩa đánh dấu sự phân biệt giữa các loại sự tình” [42, tr.258].
Điều này có nghĩa là nó đảm nhận gánh nặng ngữ pháp-ngữ nghĩa của câu. Sở dĩ sự
tình này khác biệt với sự tình khác là do sự khác biệt về tính chất của các vị từ. Cũng
xuất phát từ nhận định đó, Nguyễn Thị Quy lập luận rằng: “Trong câu, nội dung của
sự thể thường được biểu hiện bằng một vị ngữ (hay ngữ vị từ); còn các tham tố của sự
thể thường được biểu hiện bằng những danh ngữ (hay ngữ danh từ). Nội dung của sự
thể quyết định cách tổ chức của các tham tố và quan hệ giữa các tham tố của nó, và
do đó cũng quyết định cấu trúc ngữ nghĩa của toàn câu”. Tác giả kết luận “Nghĩa của
các vị từ có một tác dụng quyết định đối với ngữ pháp của câu” [91, tr.9].
Mặc dù nhất qn trong việc cơng nhận vai trị trung tâm của vị từ trong tổ
chức cú pháp – ngữ nghĩa của câu, nhưng việc phân loại vị từ thì mỗi tác giả bằng các
cơ sở, tiêu chí và phương pháp nghiên cứu khác nhau đã dẫn đến những kết quả phân
loại khác nhau. Việt ngữ học trong khoảng mấy chục năm trở lại đây đã có nhiều

cơng trình viết về ngữ pháp tiếng Việt nói chung và về vị từ tiếng Việt nói riêng mà
trong đó chú trọng việc đi sâu miêu tả một nhóm vị từ nhất định. Ở đây, liên quan đến
đề tài, chúng tôi chỉ xin kể ra một số tác phẩm tiêu biểu như Động từ trong tiếng Việt
7


của Nguyễn Kim Thản (1977), Tiếng Việt-Sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao
Xuân Hạo (xuất bản lần đầu năm 1991), Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố
của nó, so với tiếng Nga và tiếng Anh của Nguyễn Thị Quy (1995), Kết trị của động
từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc (1996), Cấu trúc nghĩa biểu hiện của c u với
nh m vị từ trao t ng của Lâm Quang Đơng (2008). Ngồi ra cịn phải kể đến một số
luận án tiến sĩ như Khảo sát các động từ t nh thái trong tiếng Việt của

ùi Trọng

Ngoãn (2004), Vị từ trạng thái trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh) của Trần Thị
Minh Phượng (2008), Đ c điểm ngữ nghĩa – ngữ pháp của vị từ quá trình tiếng Việt
của Trương Thị Thu Hà (2013), và nhiều luận văn thạc sĩ đi theo hướng khảo sát
chuyên sâu vào một nhóm vị từ cụ thể trong tiếng Việt. Việc nhận diện, phân loại và
miêu tả các nhóm vị từ có ý nghĩa tiền đề quan trọng trong việc khảo sát sự chuyển
hóa trong nội bộ vị từ cũng là vấn đề mà chúng tôi hết sức quan tâm.
Khảo sát sự chuyển hóa của vị từ tiếng Việt nằm trong định hướng nghiên cứu
những hiện tượng ngôn ngữ cụ thể rất được chú trọng trong những năm gần đây. Tuy
nhiên theo quan sát của chúng tôi, vấn đề này chưa được các nhà nghiên cứu quan
tâm một cách thỏa đáng. Đây đó trong các cơng trình mà chúng tơi vừa kể đến ở trên,
mới chỉ có một số tác giả manh nha khơi gợi đến hiện tượng chuyển hóa của vị từ,
chứ chưa có một tác phẩm nào thực sự đi sâu khai thác và khảo sát một cách có hệ
thống. Ngay cả những cơng trình dày dặn về ngữ pháp tiếng Việt như của Cao Xuân
Hạo, Diệp Quang an, Đinh Văn Đức, các tác giả cũng mới chỉ nhắc đến vấn đề này
với một dung lượng rất hạn chế. Về sau này có thêm nhiều bài nghiên cứu liên quan,

chẳng hạn Nguyễn Đức Dương với bài Thử giải nghĩa hai từ ra và đi (trong các tổ
hợp kiểu “đẹp ra/xấu đi” (2002), Phạm Thị Hoà với bài Sự chuyển biến ý nghĩa của
các động từ biểu thị hành động vật lí sang biểu thị hành động n i năng (2002),
Nguyễn Đức Dân với loạt bài Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ
(2005), Con đường chuyển nghĩa của từ cơ bản: Trường hợp của “lại” (2010), Con
đường chuyển nghĩa của từ “đi” (2013), Bùi Minh Toán với bài Vai nghĩa của các
tham thể trong sự chuyển hố của vị từ (2010). Như vậy, có thể thấy, vấn đề chuyển
hóa của vị từ đã được nhiều nhà ngôn ngữ học thừa nhận, tuy nhiên các quan điểm
phần nhiều chưa thống nhất, đồng thời mới chỉ có một vài khía cạnh được đề cập đến,
hoặc mới chỉ là những nhận xét ban đầu đối với một số hiện tượng lẻ tẻ chứ chưa có
những khảo sát tồn diện, miêu tả cụ thể và nghiên cứu hệ thống, đặc biệt là việc giải
thích cơ chế chuyển hóa và xác lập các con đường của sự chuyển hóa, theo chúng tơi
chính là những u cầu cấp thiết của đề tài này.
8


3. Mục đích nghiên cứu
Với định hướng là khảo sát sự chuyển hóa vị từ tĩnh sang vị từ động trong
tiếng Việt, mục đích nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu vị từ tiếng Việt theo các đặc trưng đối lập [+ động] và [- động],
phân loại và miêu tả hai nhóm vị từ tĩnh và vị từ động theo các tiêu chí khả năng kết
hợp và vai nghĩa của chúng trong câu nhằm góp phần tìm hiểu thêm về sự phân biệt
động – tĩnh của vị từ tiếng Việt.
- Khảo sát và miêu tả sự chuyển hóa từ tĩnh sang động của vị từ trong các tổ
hợp cụ thể như vị từ kết hợp với từ chỉ hướng, với các hư từ hay các yếu tố ngữ pháp
hóa, các yếu tố tình thái, các yếu tố thời-thể và trong kết cấu gây khiến - kết quả.
- Góp phần làm sáng tỏ đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của vị từ trong sự
chuyển hóa và vai trị của chúng với tư cách là hạt nhân tổ chức cấu trúc ngữ nghĩa và
cú pháp của câu.
- Phân tích, giải thích các con đường chuyển hóa của vị từ trong tiếng Việt

nhằm góp phần vào việc biên soạn từ điển tiếng Việt và sách dạy tiếng Việt.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn phải hoàn thành
những nhiệm vụ sau:
- Thảo luận những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài trên cơ sở làm rõ các
khái niệm cơ bản.
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về sự chuyển hóa vị từ trên thế giới và ở
Việt Nam, giới thiệu quan điểm của các tác giả đồng thời xác định rõ hướng nghiên
cứu của đề tài.
- Nhận diện, phân tích, mơ tả các dấu hiệu hình thức và đặc điểm ngữ nghĩa –
cú pháp của các nhóm vị từ trong các kiểu tổ hợp cụ thể có sự tham gia của các yếu tố
dẫn đến sự chuyển hóa và vai trị của các vị từ đó trong việc tổ chức cấu trúc vị từtham tố cũng như cấu trúc ngữ nghĩa của câu.
- Miêu tả sự chuyển hóa từ tĩnh sang động ở các nhóm vị từ cụ thể như vị từ
trạng thái, tính chất, hồn cảnh thành vị từ q trình, vị từ tư thế, cảm giác thành vị từ
hành động, v.v., từ đó mơ hình hóa các con đường chuyển hóa của vị từ tiếng Việt.
- Bàn thêm và gợi mở những định hướng nghiên cứu tiếp theo cho những vấn
đề có liên quan đến đề tài.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
Từ việc quan sát các câu sau:
9


(0.1) M t Bích thoạt đầu đỏ bừng lên, sau tái đi. (VTP, TSĐĐ)
(0.2) Hai má phịu xuống, Bích chỉ cịn biết lấu nhấu. [VTP, TSĐĐ]
(0.3) Anh thật khơng ngờ, một việc xấu xa của anh mà lại cũng được vợ hiểu
ra như thế. [TL, TNCL]
(0.4) Thị trẻ ra mười tuổi. [NC, TTTN]
(0.5) Rồi anh ngồi xuống ghế nghiêm trang tiếp. [NC, TTTN]
(0.6) M t ông đồ xám lại… [NC, TTTN]
(0.7) Hai má hóp vào để tiếp sức cho hai cái lưỡng quyền. [NC, TTTN]

(0.8) Một mối lo ngại bỗng nhiên đến ám ảnh tâm trí làm tan nát cái n tĩnh
tơi đã giữ gìn trong mấy năm nay. [TL, TNCL]
(0.9) Gió mạnh dán chặt quần áo vào người chàng, khiến cái lạnh thêm thấm
thía và ẩm ướt. [TL, TNCL]
(0.10) Tôi lỡ tay đánh vỡ một chén, bà ấy đánh tôi đau quá. [TL, TNCL]
(0.11) Hắn biết đ u hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh
yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của biết bao
nhiêu người lương thiện. [NC, TTTN]
(0.12) Tơi cũng thấy những ngộ nhận giới tính và đạo đức giết chết vẻ diễm lệ
trên các khuôn m t thiếu nữ. [NHT, TN]
(0.13) Trời đất đang sáng, bỗng dưng sầm tối.
Chúng tôi nhận thấy các vị từ đỏ, tái, phịu, hiểu, trẻ, ngồi, xám, hóp bản chất
là vị từ tĩnh chỉ tính chất, trạng thái, tư thế, cảm giác, nhưng trong các ví dụ từ (0.1)
đến (0.7), ý nghĩa của chúng đã chuyển hóa, trở thành các vị từ động chỉ q trình,
hành động. Sự chuyển hóa này đến từ sự kết hợp của chúng với các từ chỉ hướng ra,
vào, lên, xuống, đi, lại phía sau. Tình hình tương tự đối với các vị từ tan nát, ch t, vỡ,
nát, đổ, chết trong các ví dụ từ (0.8) đến (0.12) khi ý nghĩa của chúng cũng có sự
chuyển hóa từ tĩnh sang động, do kết hợp với các vị từ gây khiến hay các yếu tố ngữ
pháp hóa đặt trước vị từ. Cịn trong ví dụ (0.13), các vị từ sáng, sầm tối vốn chỉ đặc
trưng tĩnh, nhưng do có sự tham gia của một yếu tố thời-thể đang, hay một yếu tố chỉ
tốc độ bỗng dưng, đã có sự chuyển hóa thành đặc trưng động. Các tổ hợp như đỏ lên,
tái đi, xám lại, ngồi xuống, hóp vào, làm tan nát, dán ch t, đánh vỡ, đập nát, đạp đổ,
giết chết, đang sáng, bỗng (sầm) tối…. chính là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Nguồn ngữ liệu mà luận văn sử dụng chủ yếu là từ các tác phẩm văn học nổi
tiếng của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Bùi Hiển, Tơ Hồi,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, v.v., trong các văn bản báo chí, ngồi ra là tư
10


liệu tiếng Việt khẩu ngữ. Bên cạnh đó, các loại từ điển tiếng Việt cũng là nguồn tư

liệu quan trọng được luận văn sử dụng để khảo sát, thống kê và đối chiếu.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong luận văn này là phương pháp miêu tả
đồng đại. Cụ thể luận văn đã sử dụng các thủ pháp khác nhau của phương pháp miêu
tả như: thủ pháp trường nghĩa, thủ pháp phân tích phân bố (phân tích ngữ cảnh, phân
tích ngữ trị, thay thế, cải biến, v.v.), các thủ pháp phân loại và hệ thống hoá, phân tích
vị từ-tham tố, phân tích thành tố cú pháp và thành phần câu, các thủ pháp phân tích
nghĩa tố v.v. nhằm tập trung vào việc phân tích các ngữ đoạn và các kiểu kết cấu,
miêu tả cấu trúc nghĩa biểu hiện của các sự tình được thể hiện trong các biểu thức
ngơn ngữ học. Ngồi ra, luận văn cũng sử dụng nhiều phương pháp khác như so sánh,
mơ hình hóa, thống kê... nhằm minh họa cho các nhận xét, kết luận bằng các cứ liệu
định lượng.
7. Ý nghĩa của luận văn
Sự hiện thực hóa các đặc điểm hệ thống của vị từ tiếng Việt trong hoạt động là
hướng nghiên cứu có thể cho nhiều kết quả có ích cho q trình lĩnh hội và sản sinh
ngơn bản. Do đó có thể khẳng định việc thực hiện đề tài nghiên cứu này có ý nghĩa về
mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Luận văn là sự tiếp thu và ứng dụng những xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ
học mới trên thế giới vào tiếng Việt trong lĩnh vực ngữ pháp – ngữ nghĩa. Đó là xu
hướng nghiên cứu ngữ nghĩa chức năng với cách tiếp cận từ ngữ nghĩa, chức năng
đến hình thức, cấu trúc, tức là đi từ nghĩa học đến cú pháp.
Hiện tượng chuyển hóa của vị từ tiếng Việt là một vấn đề mới chưa được
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống, cho nên đối tượng của luận văn không hề
bị trùng lặp. Đây là một hiện tượng phức tạp trong ngôn ngữ đồng thời cũng có
những biểu hiện rất đa dạng. Luận văn lựa chọn khảo sát chiều chuyển hóa từ tĩnh
sang động, nhưng chắc chắn sự chuyển hóa diễn ra trong cả chiều ngược lại. Do vậy
có thể nói, đề tài có ý nghĩa gợi mở những hướng nghiên cứu sâu và rộng hơn trong
tương lai.
Với nhiệm vụ là miêu tả, phân tích cấu trúc ngữ pháp – ngữ nghĩa của các vị từ
và giải thích ý nghĩa của sự chuyển hóa vị từ, luận văn sẽ góp phần giúp người dạy,

học tiếng Việt hiểu rõ hơn về những kiểu tổ hợp rất thơng dụng diễn đạt tinh tế sự
chuyển hóa. Những kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần vào việc biên
soạn các cơng trình tham khảo về ngữ pháp tiếng Việt và sách dạy tiếng Việt cho
11


nhiều đối tượng học viên. Ngoài ra, cũng với hướng đi đó, luận văn có thể giúp ích
cho việc miêu tả các nét nghĩa hết sức tế vi của vị từ cũng như khả năng kết hợp của
chúng trong từ điển tiếng Việt cỡ lớn.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chúng tôi dự kiến sẽ trình bày luận văn
trong 4 chương với nội dung như sau:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
Cơng việc chính của chương này sẽ tập trung trình bày khái quát những vấn đề
lí thuyết có liên quan đến đề tài khảo sát về sự chuyển hoá vị từ tĩnh thành vị từ động
trong tiếng Việt. Thảo luận về các khái niệm cơ bản: khái niệm vị từ, sự tình, việc
phân loại các sự tình tiêu biểu, các tiêu chí phân biệt động/ tĩnh của vị từ và những ý
kiến xung quanh vấn đề sự chuyển hoá từ tĩnh sang động của vị từ tiếng Việt. Trên cơ
sở xác lập một khung lý thuyết cho phạm vi của đề tài, chúng tơi cũng sẽ trình bày
quan điểm riêng của mình và đường hướng mà luận văn sẽ đi theo trong quá trình
nghiên cứu.
Chương 2. Sự chuyển hố từ tĩnh sang động của vị từ tiếng Việt trong các kết
cấu có yếu tố chỉ hướng
Xuất phát từ hệ thống phân loại vị từ tiếng Việt, những vấn đề chung về nhóm
từ chỉ hướng trong tiếng Việt, chúng tôi miêu tả sự chuyển hoá vị từ tĩnh thành vị từ
động trong kiểu tổ hợp có “vị từ tĩnh + từ chỉ hướng”, trong đó sự chuyển hố tiếp tục
được phân chia ở nhóm vị từ tư thế chuyển thành vị từ hành động và vị từ trạng thái
thành vị từ quá trình.
Chương 3. Sự chuyển hoá từ tĩnh sang động của vị từ tiếng Việt trong các kết
cấu gây khiến - kết quả

Từ việc điểm qua tình hình nghiên cứu vấn đề này trên thế giới và trong nước,
chúng tơi phân tích vai trò của vị từ trung tâm trong kết cấu gây khiến – kết quả và
lần lượt đi vào các trường hợp chuyến đổi ý nghĩa từ tĩnh sang động của các vị từ đó
trên các phương diện biến đổi tính chất vật lí và biến đổi trạng thái, tính chất của đối
tượng.
Chương 4. Sự chuyển hóa từ tĩnh sang động của vị từ trong các kết cấu có yếu
tố thời thể - tình thái
Khảo sát khả năng hỗ trợ cho sự chuyển hóa từ tĩnh sang động của vị từ tiếng
Việt của các phụ từ chỉ tốc độ, bất ngờ, các yếu tố chỉ thời-thể và các yếu tố tình thái.

12


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. 1. Các khái niệm tiền đề
1.1.1. Về khái niệm vị từ và các thuật ngữ liên quan
1.1.1.1. Các quan niệm về vị từ trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt
Khái niệm vị từ (predicate) xuất hiện trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt từ
những năm 60 của thế kỷ trước, trong tương quan với thể từ, được xem là hai phạm
trù từ vựng - ngữ pháp quan trọng nằm trong phạm vi thực từ. Việc đề xuất hai phạm
trù này, theo Nguyễn Văn Hiệp, xét về lai nguyên, là chịu ảnh hưởng của Nga ngữ
học. Trong tiếng Nga, một ngơn ngữ biến hình, thể từ phân biệt với vị từ theo khả
năng biến đổi hình thái: thể từ là những từ biến đổi theo giống, số, cách (và như vậy
sẽ gồm danh từ, tính từ, số từ); còn vị từ là những từ biến đổi theo ngơi, thời, thể,
thức, dạng (chỉ gồm có động từ). Tiếng Việt khơng biến đổi hình thái, vì vậy sự phân
biệt giữa thể từ và vị từ được điều chỉnh theo tiêu chí kết hợp (khả năng kết hợp được
coi là một kiểu hình thức: hình thức phân tích tính, để phân biệt với các biến tố, vốn
được coi là hình thức tổng hợp tính). Sự phân biệt này là như sau: thể từ là những từ
khi làm vị ngữ trong câu phải có hệ từ là đứng trước, cịn vị từ thì khơng. Theo đó,

thể từ tiếng Việt gồm có danh từ, số từ, đại từ. Cịn vị từ sẽ gồm động từ và tính từ.
Chủ trương này chỉ được các nhà từ pháp học tán thành khi nó nhấn mạnh vào khả
năng làm vị ngữ trực tiếp của động từ và tính từ trong các ngơn ngữ đơn lập như tiếng
Việt, tiếng Hán, tiếng Thái. Tuy nhiên, từ loại khơng phải là những phạm trù hình
thành chỉ trên chức vụ vị ngữ. Trong thực tế, quan niệm về vị từ giữa các tác giả cũng
có nhiều điểm khác biệt.
a/ Đầu tiên là Lê Văn Lý, từ rất sớm (1948), bằng phương pháp mà ông gọi là
“chứng tự”, đã nhận định rằng hai phạm trù này (động từ và tính từ) trong tiếng Việt
gần nhau vì chúng có một danh sách các từ kiểm chứng khá gần nhau nhưng đồng
thời chúng vẫn là hai lớp hạng khác nhau. Đây là khuynh hướng dựa vào hình thức
ngữ pháp, chủ yếu là khả năng kết hợp của từ.
b/ Cho đến khoảng thập niên 70-90 của thế kỉ trước, trên tinh thần của ngữ
pháp cổ điển và cấu trúc luận, nhiều cuốn sách viết về ngữ pháp tiếng Việt đã được
xuất bản trong đó chuyên luận “Động từ trong tiếng Việt” của Nguyễn Kim Thản
(1977) có thể coi là cơng trình viết kĩ nhất về vị từ. Tác giả dựa vào những đặc trưng
phân bố (“khả năng kết hợp”) để phân xuất từ thành các nhóm và xác định từng từ
loại. Điểm khác biệt của Nguyễn Kim Thản so với Lê Văn Lý là ơng đã gọi tên nhóm
13


từ loại gồm động từ và tính từ là vị từ, đối lập với thể từ và cùng thuộc nhóm thực từ.
Đặc điểm của vị từ được tác giả bàn đến như sau: 1/ Về mặt ý nghĩa: chúng là những
từ “biểu thị q trình hay tính chất của sự vật”; 2/ Về mặt hình thức: vị từ là những
từ có khả năng trực tiếp làm vị ngữ; trực tiếp đặt sau đều, chẳng, sẽ; có thể đặt trước
những từ phủ định không, chưa để tạo thành câu nghi vấn và khơng có khả năng đặt
trước những từ chỉ định như này, kia, ấy, nọ. Tiếp theo, ông lại chia vị từ làm động từ
và tính từ vì cho rằng giữa chúng vẫn có những nét khu biệt tương đối cả về ý nghĩa
lẫn hình thức [97, tr.24].
Mặc dù khắc phục được nhược điểm chỉ dựa vào hình thức để nhận diện động
từ và tính từ tiếng Việt của các tác giả trước đó, nhưng phương pháp phân loại vị từ

trên của Nguyễn Kim Thản cũng được chính tác giả thừa nhận là gặp phải những khó
khăn đáng kể, đó là ranh giới phân loại không phải lúc nào cũng rõ ràng, dứt khoát,
cả về mặt ý nghĩa lẫn mặt hình thức. Phương pháp đó về sau cũng đã bị Nguyễn Thị
Quy phê phán trong cuốn Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (Vị từ hành động). Tác giả
này cho rằng các tiêu chí mà Nguyễn Kim Thản dùng để phân loại khơng hẳn đáng
tin cậy khi có đến hàng trăm trường hợp ngoại lệ, khơng phù hợp với tiêu chí. Chẳng
hạn, bà đã tìm ra 662 từ trong từ điển được chú là tính từ, vốn có khả năng kết hợp
với hãy, đừng, chớ, là tiêu chí nhận diện của động từ nhưng hồn tồn khơng thấy
trong số các dẫn chứng về động từ mà Nguyễn Kim Thản nêu ra. Bên cạnh đó, khi
phân chia nhóm động từ thành những nhóm nhỏ hơn đã xảy ra tình trạng lẫn lộn vị trí
phân bố cũng như đặc điểm ngữ nghĩa của nhiều động từ. Có những động từ có đặc
trưng ngữ nghĩa giống nhau lại được xếp vào các nhóm khác nhau cũng như có những
động từ rất khác nhau về ngữ nghĩa lại được xếp vào cùng một nhóm. Chẳng hạn, các
động từ như ra, vào, lên, xuống vốn là những động từ hành động biểu thị những hành
động cụ thể lại được xếp vào nhóm “động từ trừu tượng” bên cạnh các động từ như
yêu đương, say đắm. Hay vin, la ó, ngoi cũng là những động từ hành động biểu thị
những hành động cụ thể lại được xếp vào nhóm “động từ trạng thái” bên cạnh sệ,
lắng, uất. Rõ ràng, những phân tích trên cho thấy cần thiết phải có sự đánh giá lại và
bổ sung thêm các tiêu chí nhận diện và phân loại vị từ tiếng Việt.
c/ ước sang những năm 90 của thế kỉ 20, việc công bố cuốn Tiếng Việt – Sơ
thảo ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo (1991) đã mang đến một luồng gió mới
trong nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, trong đó có quan niệm về vấn đề vị từ. Trên tinh
thần phê phán cái nhìn châu Âu đối với tiếng Việt, Cao Xuân Hạo đã bày tỏ quan
điểm của mình về hai khái niệm thường được gọi là động từ và tính từ trong tiếng
14


Việt. Chỉ riêng về tên gọi, tác giả giải thích rằng hai thuật ngữ này được dùng để dịch
hai từ verbe và adjectif của tiếng Pháp, vốn bắt nguồn từ hai thuật ngữ của ngữ pháp
La Tinh cổ đại verbum và (nomen) adjectivum. Hai thuật ngữ được dịch ra bằng

những từ La Tinh sẵn có hoặc mới được cấu tạo: λογος „lời‟ „từ‟ và ρημα „thuyết‟
được dịch bằng verbum „lời nói‟, hay bằng praedicatum „cái được nói ra‟; ονομα
„tên‟, „danh từ‟, được dịch thành nomen „tên‟, „danh từ‟, ονομα’ επιθητον „tên phụ
gia‟ được dịch thành nomen adjectivum „tên đặt bên cạnh‟, „danh từ phụ gia‟. Đến khi
được mượn dùng trong các thứ tiếng Âu châu, những từ ngữ La tinh nói trên vẫn giữ
nguyên cái nghĩa gốc tương ứng với nghĩa của các từ ngữ Hi Lạp: Verbe có nghĩa là
„lời‟, là „điều được nói ra‟, là „vị từ‟ (trong đó vị có nghĩa là „nói‟), chứ khơng phải là
„một cái gì động‟; adjectif bao giờ cũng chỉ là một cách nói tắt của ngữ đoạn cũ nom
adjectif có nghĩa là „danh từ phụ gia‟ chứ không chứa đựng chút nào cái ý “tĩnh” hay
“tính chất” (đối lập với “động” và “trạng thái”). Tuy nhiên, trong giới Việt ngữ học,
hầu như mọi người, một mặt đều nghĩ rằng động từ và tính từ hồn tồn tương ứng
với verbe và adjectif, và mặt khác, cũng một phần do đó mà nghĩ rằng sự phân chia từ
loại này là phổ quát. Sự phân biệt giữa verbe và adjectif là một trong những nét đặc
trưng của tiếng Âu châu và một số ngôn ngữ khác có hình thái học, chứ khơng phải
như sự phân biệt hầu như phổ quát giữa danh từ với vị từ.
Sau khi đối chiếu các thuật ngữ hữu quan, Cao Xuân Hạo cho rằng, “lịch sử du
nhập các thuật ngữ này vào ngữ pháp tiếng Việt là một loạt những sự ngộ nhận kết
chuỗi và kéo dài vô tận”. Những vị từ của tiếng Việt bị coi là tính từ khơng có chút
nào giống với các adjectifs, vốn là những „danh từ phụ gia‟ và do đó khơng bao giờ
có thể làm vị ngữ.
Tác giả đã chứng minh các “tính từ” của tiếng Việt hồn tồn giống với các
“động từ” ở chức năng tự mình làm vị ngữ, hay làm trung tâm vị ngữ. Ông cho rằng
chỉ riêng điều đó thơi cũng q đủ để bác bỏ quan điểm coi “động từ” và “tính từ”
như hai từ loại riêng biệt.
Mặc dù vậy, Cao Xuân Hạo cũng cho rằng “bên trong một từ loại bao giờ cũng
có thể vạch biên giới giữa những tiểu loại khác nhau về một số nét thứ yếu, khơng
căn bản bằng những thuộc tính định nghĩa của toàn từ loại”. Cũng bằng phương pháp
“chứng tự”, tác giả đã làm việc một cách nghiêm túc, tỉ mỉ trên từ điển, “kiểm tra
từng từ xem thử các “động từ” và “tính từ” như thế nào về thái độ cú pháp (trong đó
có khả năng kết hợp)”, kết quả cho thấy bên cạnh hàng ngàn thuộc tính chung về khả

năng kết hợp, chỉ có mấy điểm khác biệt giữa động từ và tính từ sau đây:
15


1. “Tính từ” có thể đi sau (làm bổ ngữ cho) trở thành, thành ra và đi trước ra,
lên, đi, lại được dùng như trạng ngữ chỉ sự thay đổi tính chất hay trạng thái (chứ
khơng phải chỉ hướng di chuyển hoặc kết quả của hành động hay sự cố); cịn “động
từ” (kể cả “động từ” chỉ trạng thái) thì không. Chẳng hạn, so sánh:
a. trở thành chăm chỉ, thành ra khôn ngoan,
đẹp ra, hoạt bát lên, già đi, xỉn lại
b. *trở thành khâm phục, *thành ra nịnh hót,
những tổ hợp như nở ra, teo lại, bớt đi, phồng lên đều chỉ hướng theo nghĩa
đen (nghĩa không gian thể chất).
2. Một tổ hợp hai “tính từ” trở lên hay có trung tâm là một “tính từ” và do đó
mà có nghĩa chung như một “tính từ” đều có thể đi sau một cách để cùng với từ tổ
này làm thành một trạng ngữ chỉ phương thức cho một vị ngữ (a); một tổ hợp hai
“động từ” trở lên không thể dùng như vậy (b), trừ khi tổ hợp đó có nghĩa thành ngữ
gần với tính từ, hay tổ hợp đó cịn gồm có một tính từ (c). So sánh:
a. (một cách - ) vui vẻ, buồn rầu, hăng hái, đỏm dáng, lẳng lơ, bừa bãi, rôm rả,
ngon lành, háo hức, nhanh chóng, xởi lởi, tận tuỵ, hăm hở, hằn học, d m đãng, v.v.
b. *(một cách - ) ăn năn, thèm ăn, ham lời, ôm ấp, chơi bời, đi lại, khuyến
khích, thương hại, an ủi, u mến, ghét bỏ, nói mỉa, sợ vợ, trăn trở, móc ngo c, trêu
ghẹo, áp bức, doạ nạt, v.v.
c. (một cách - ) thèm thuồng, ham hố, ơm đồm, phục thiện, trìu mến, bức bách,
mỉa mai, sợ sệt, cưỡng bức, tự phát, bất thình lình, có tình, biết điều, giận dữ, trớ
trêu, v.v.
Cái mà Cao Xuân Hạo chủ trương thực chất là tìm ra những sự phân biệt thực
sự quan yếu trong nội bộ từ loại vị từ đối với ngữ pháp của ngữ đoạn và của câu trong
tiếng Việt. Đó là “một sự phân biệt về nghĩa được ngữ pháp hố và do đó mà trở
thành bắt buộc đối với ngôn ngữ ấy, ngay cả khi nó khơng cần thiết chút nào cho việc

giao tiếp và thơng tin. Nói một cách khác, những ý nghĩa có thể được diễn đạt trong
ngơn ngữ là vơ số, nhưng chỉ có những ý nghĩa được ngữ pháp hố, nghĩa là những ý
nghĩa mà ngơn ngữ đang xét bị bắt buộc phải phân biệt bằng những phương tiện ngữ
pháp, khiến cho khơng riêng gì những từ ngữ (những phương tiện từ vựng), mà cả
cấu trúc ngữ pháp của câu và của các ngữ đoạn cũng bị chi phối theo, mới làm thành
những phạm trù nghĩa học - ngữ pháp mà nhà ngôn ngữ học nhất thiết phải miêu tả
trong khi viết về cấu trúc ngữ pháp của thứ tiếng được khảo sát” [42, tr.257-258].

16


Theo ơng, bên trong vị từ tiếng Việt có những ranh giới phân chia tiểu loại rõ
ràng, có giá trị ngữ pháp thực sự, có thể kiểm nghiệm một cách dễ dàng, và, quan
trọng hơn nữa, tương ứng với những sự phân biệt ngữ nghĩa – ngữ pháp phổ quát, có
thể tìm thấy, dưới dạng này hay dạng khác, trong tất cả các ngơn ngữ của hành tinh.
Đó là những sự phân biệt giữa:
a. Vị từ “động” và vị từ “tĩnh” ([± Động])
b. Vị từ “chủ ý” và vị từ “khơng chủ ý” ([± Chủ ý])
c. Vị từ “hữu đích” và vị từ “vơ đích” ([± Hữu đích]) [42, tr.258].
Nói một cách chính xác hơn, đây là sự phân biệt phổ quát giữa những sự tình
khác nhau, nhưng vì chức năng của vị từ chính là làm thành vị ngữ (ngữ đoạn vị từ)
hay làm trung tâm của ngữ đoạn này, cho nên chính nó đảm đương việc mang những
đặc trưng ngữ pháp – ngữ nghĩa đánh dấu sự phân biệt giữa các loại sự tình. Quan
điểm của Cao Xuân Hạo đã mở ra một khuynh hướng mới, một cách tiếp cận mới
trong nghiên cứu vị từ tiếng Việt nói riêng và ngữ pháp tiếng Việt nói chung.
d/ Tiếp thu quan điểm của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy trong chuyên luận
về Vị từ hành động tiếng Việt cũng đã trình bày khá chi tiết các vấn đề liên quan đến
hai thuật ngữ verbe và adjectif và sự chuyển dịch sang tiếng Việt. Tác giả thấy rõ sự
cần thiết phải “đi tìm những sự phân biệt có thật, nghĩa là những sự phân biệt cả về
hai mặt nội dung và hình thức giữa các tiểu loại vị từ, những sự phân biệt về nét

nghĩa đi đơi với những thuộc tính cú pháp được thể hiện trong những quy tắc kết hợp
có hiệu lực rõ rệt trong những ngữ đoạn vị từ (vị ngữ)” [91, tr.57].
Thuộc tính ngữ pháp – ngữ nghĩa quan trọng nhất của vị từ là nó “có chức
năng tự mình làm thành một vị ngữ ho c làm trung tâm ngữ pháp, hay làm hạt nhân
ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung của sự thể”. Chức năng ngữ nghĩa của
vị từ cũng quy định đặc trưng ngữ pháp chủ yếu của nó, đó là “khả năng được tình
thái hố bằng những từ hình thái như c , không, đang, đã, chưa, c thể, hãy, đừng,
phải, nên, ắt, sẽ, trót, nỡ, dám,...”
Về việc phân loại vị từ tiếng Việt, Nguyễn Thị Quy triệt để áp dụng cách phân
loại của S.C.Dik dựa trên hai thông số [± Động] và [± Chủ ý], kết quả là phân ra bốn
nhóm vị từ sau đây:
1/ Vị từ hành động:

[+ Động] [+ Chủ ý]

2/ Vị từ tư thế:

[- Động] [+ Chủ ý]

3/ Vị từ quá trình:

[+ Động] [- Chủ ý]

4/ Vị từ trạng thái:

[- Động] [- Chủ ý] [91, tr.89-90]
17


e/ Ngồi các tác giả trên, cịn rất nhiều tác giả khác cũng thể hiện quan điểm

riêng của mình khi nghiên cứu vị từ tiếng Việt như Diệp Quang an, Đinh Văn Đức,
Nguyễn Văn Hiệp, Bùi Minh Toán. Chẳng hạn, theo Đinh Văn Đức, vị từ là một khái
niệm chức năng thuần tuý. Vị từ là một từ loại chức năng, khơng phải ngữ pháp. Nó
là siêu từ loại chứ khơng phải từ loại. Một thực từ bất kì của tiếng Việt, ở trong câu,
nếu có tham gia vào cái khung vị ngữ thì nó liền được “sự tình hố” và có vai một vị
từ. Vị từ thiên về một vai nghĩa, một “sự kiện” ngữ dụng, một mối liên hệ tình thái.
Nó gắn với thái độ và cách ứng xử của người nói. Chủ trương khái niệm vị từ, theo
Đinh Văn Đức, là có lí một khi chỉ nhấn mạnh vào khả năng làm vị ngữ trực tiếp của
động từ và tính từ trong các ngơn ngữ như tiếng Việt, tiếng Hán. Tuy nhiên, đứng
trên quan điểm từ loại, tác giả cho rằng việc tách bạch động từ và tính từ vẫn có cơ sở
cần thiết, mặc dù chúng có khả năng nằm trong cùng một khơng gian của chức năng
vị ngữ [25, tr.154].
Như vậy, mặc dù giới Việt ngữ học vẫn tồn tại hai khuynh hướng nghiên cứu
vị từ, một theo quan điểm từ loại và một theo quan điểm chức năng, nhưng rõ ràng
sau những hạn chế rất khó có thể khắc phục của xu hướng nghiên cứu thuần túy hình
thức, đồng thời cùng với sự nở rộ mạnh mẽ trong nghiên cứu ngữ pháp gắn liền với
ngữ nghĩa, hầu hết các nhà ngôn ngữ đều thống nhất trong việc thừa nhận cương vị
của vị từ là trung tâm tổ chức ngữ pháp và hạt nhân ngữ nghĩa của câu. Đây cũng
đường hướng mà chúng tôi xác định cho luận văn này. Mặt khác, nhân đây, chúng tơi
cũng muốn thể hiện rõ quan điểm của mình, ở chỗ chúng tôi không phủ nhận phạm
trù từ loại của động từ và tính từ. Đó là một khía cạnh khác thuộc từ pháp học, tồn tại
độc lập trong ngữ pháp.
1.1.1.2. Vị tố trong cấu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc cú pháp
Vị tố (predicator) là khái niệm nằm trong “khung câu” (sentence frame), với tư
cách như là một trong các yếu tố có thể được mơ tả về chức năng biểu hiện, liên nhân,
văn bản và về mặt tổ chức ngữ pháp thuộc những bậc khác nhau. Khái niệm này đã
được Diệp Quang Ban (2005) trình bày như sau: “Vị tố là yếu tố chính của câu, về cả
phương diện nghĩa biểu hiện (chỉ sự việc) và phương diện cú pháp (trừ trường hợp
trước vị tố có động từ tình thái hoặc trợ động từ bị động). Về nghĩa biểu hiện vị tố
nêu đặc trưng hoặc quan hệ của sự thể được nói đến trong câu; về vị trí, vị tố đứng

trực tiếp sau chủ ngữ (nếu có chủ ngữ). Về cú pháp, các yếu tố cú pháp khác trong
câu quây quần xung quanh vị tố [2, tr.55]. Lập luận của tác giả đã khẳng định vai trò
trung tâm của vị tố trong khung câu. Vị tố gắn bó với các yếu tố xung quanh nó theo
18


những mức độ khác nhau, và trên cơ sở đó mà phân định những lớp yếu tố xét theo
mối quan hệ với các chức năng cú pháp trong câu: các yếu tố nằm trong cấu trúc cú
pháp của câu và trực tiếp diễn đạt sự thể, các yếu tố không nằm trong cấu trúc cú
pháp và nhìn chung khơng diễn đạt sự thể trong câu chứa chúng. Trong tiếng Việt, vị
tố có thể do một từ hoặc một cụm từ làm thành, cũng có khi do một dãy động từ, một
dãy tính từ, hoặc một câu bị bao (giáng cấp) đảm nhiệm.
Ví dụ (vị tố được in đậm, tiếng phụ trong vị tố được gạch dưới):
(1.1) Giáp ngủ. (động từ không chuyển tác)
(1.2) Giáp đưa tờ báo cho Tị. (động từ chuyển tác)
(1.3) Giáp ngồi xem báo đằng kia. (dãy động từ)
(1.4) Quyển sách ấy hay lắm. (cụm tính từ)
(1.5) Anh này thợ mộc. Anh kia thợ nề. (danh từ)
(1.6) Anh ấy là thợ mộc. (từ chỉ quan hệ dùng không độc lập)
(1.7) Cây này lá vàng. (câu bị bao)
(1.8) Giáp được nhà trường khen. (câu bị bao)
Về mặt nghĩa, vị tố chi phối (ấn định) các chức năng chủ ngữ, tân ngữ, tân ngữ
gián tiếp, bổ ngữ [2, tr.55]
Vị tố là một chức năng cú pháp trong quan hệ với chủ ngữ và các loại bổ ngữ.
Về mặt từ loại, vị tố có thể do yếu tố có tính chất động từ, hoặc yếu tố có tính chất
tính từ, hoặc yếu tố có tính chất danh từ đảm nhiệm. Ngữ pháp chức năng đã thừa
nhận điều này (xem A. Siewierska, 1991, tr.22).
Về mặt cấu trúc nghĩa biểu hiện, theo ông, bao gồm các sự thể và các vai nghĩa.
Sự thể nêu đặc trưng hay quan hệ của sự việc được nêu trong câu. Các sự thể
được phản ánh trong câu rất đa dạng, phong phú và không tách biệt nhau một cách

rạch rịi. Tuy nhiên, ơng cho rằng có ba kiểu sự thể khái quát và ba kiểu sự thể
chuyển tiếp sau:
- Các sự thể vật chất (material), phản ánh thế giới vật lí.
- Các sự thể tinh thần (mental), phản ánh thế giới ý thức.
- Các sự thể quan hệ (relational), phản ánh các mối quan hệ trừu tượng.
- Các sự thể hành vi (behavioural), chuyển tiếp giữa các sự thể vật chất và các
sự thể tinh thần.
- Các sự thể ngôn từ (verbal - tức sử dụng ngơn từ, bao gồm nói năng và cảm
nghĩ), chuyển tiếp giữa các sự thể tinh thần và các sự thể quan hệ.

19


- Các sự thể tồn tại (existential - gồm sự tồn tại, sự xuất hiện, sự tiêu biến),
chuyển tiếp giữa các sự thể vật chất và các sự thể quan hệ [2, tr.24-25].
Các vai nghĩa là các yếu tố nghĩa quây quần xung quanh vị tố. Các vai nghĩa là
bộ phận tạo nên sự thể được gọi là các tham thể (participant) còn các vai nghĩa chỉ đi
kèm với sự thể thì được gọi là cảnh huống (circumstance).
Tham thể là “những thực thể tham gia vào sự thể (sự việc) như là bộ phận cần
thiết của sự thể, bộ phận nằm trong sự thể.” Cảnh huống “là yếu tố nghĩa chỉ phương
tiện, cách thức, hồn cảnh, khơng gian, thời gian và các kiểu quan hệ trong tình
huống, đi kèm với sự thể (sự việc)” [2, tr.25-26].
Các tham thể và các cảnh huống tác giả nêu trên chủ yếu là tiếp thu có điều
chỉnh và bổ sung cho phù hợp với tiếng Việt các thuật ngữ của M.A.K. Halliday.
Về mặt CTCP, Diệp Quang an cho rằng quan hệ của vị tố với các yếu tố có
quan hệ chặt chẽ về nghĩa và cú pháp với nó, hợp lại làm thành cấu trúc cơ sở của câu
(clause basic structure). Theo đó, các yếu tố nằm trong cấu trúc cơ sở của câu gồm có
chủ ngữ, vị tố, tân ngữ và bổ ngữ. Các yếu tố này cùng với đề ngữ và gia ngữ (còn gọi
là trạng ngữ) làm thành cấu trúc cú pháp của câu (clause syntactic structure) [2, tr.63].
Diệp Quang


an còn cho rằng CTCP và cấu trúc nghĩa biểu hiện có sự quan

hệ qua lại lẫn nhau. Các kiểu sự thể, các tham thể và các cảnh huống là những yếu tố
giải thích nghĩa cho chức năng cú pháp và ngược lại các chức năng cú pháp là những
yếu tố diễn giải mặt hình thức cho các sự thể, các tham thể và các cảnh huống.
1.1.1.3. Khung vị từ và kết cấu vị ngữ (KCVN)
Lý thuyết NPCN của Dik bắt đầu với cấu trúc của kết cấu vị ngữ hạt nhân
(nuclear predications). Khái niệm “vị ngữ hạt nhân” nói đến sự gắn kết một vị từ với
một số thích hợp các từ ngữ đóng vai trị là các tham tố của vị từ đó. Từ ngữ (terms)
là các biểu thức có tiềm năng sở chỉ, tức là các biểu thức có thể dùng để chỉ những
thực thể trong một thế giới nào đó; vị từ (predicates) chỉ thuộc tính của các thực thể
hay mối quan hệ giữa các thực thể với nhau. Thơng qua việc chèn các từ ngữ thích
hợp vào vị trí các tham tố của một vị từ nào đó mà KCVN hạt nhân được hình thành.
Vị từ có thể hoặc là cơ bản, hoặc là phái sinh. Một vị từ được xem là cơ bản
nếu nó khơng hình thành theo q trình sản sinh đồng đại nào đó, cịn ngược lại nó
được xem là phái sinh. Vị từ cơ bản nằm trong vốn từ vựng; vị từ phái sinh được tạo
thành bằng những quy tắc cấu tạo vị từ.
Những đơn vị từ vựng có „tính nội dung‟ đơn giản được cho sẵn trong vốn từ
vựng, và ở đó được cung cấp tất cả những thông tin quan yếu đối với thái độ ngữ
20


nghĩa và cú pháp của chúng trong các biểu thức ngôn ngữ học. Những thông tin này
được chứa đựng trong cái gọi là „khung vị từ‟ (predicate-frame). Mỗi khung vị từ
cung cấp các thông tin sau đây về một vị từ:
(i) hình thức từ vựng của vị từ.
(ii) phạm trù cú pháp của vị từ: Được chỉ định bằng một nhãn (V(erbal),
A(jectival), N(ominal)) trên vị từ.
(iii) số tham tố mà vị từ địi hỏi: Mỗi khung vị từ có số lượng các tham tố khác

nhau. Số lượng tham tố tuỳ thuộc vào đặc điểm của vị từ. Có vị từ chỉ có một tham tố
nhưng có vị từ có thể có hai hay ba tham tố. Theo kinh nghiệm của Dik, một kết cấu
vị ngữ hạt nhân khó có thể có hơn bốn tham tố.
(iv) những hạn định mà vị từ địi hỏi ở các vai nghĩa của nó: Những hạn định
chọn lựa mà vị từ nêu ra đảm bảo sự tương hợp giữa vị từ và các ngữ định danh được
điền vào các vị trí tham tố trong kết cấu vị ngữ hạt nhân.
(v) các chức năng ngữ nghĩa mà các tham tố thực hiện [17, tr.44-45].
S.C. Dik đã nêu một số chức năng ngữ nghĩa hạt nhân sau: 1/ Tác thể (Agent),
2/ Đích (Goal), 3/ Tiếp thể (Recipient), 4/ Hướng (Direction), 5/ Nguồn (So), 6/ Kẻ
mang tư thế (Positioner), 7/ Vị trí (Location), 8/ Kẻ chịu tác động của quá trình
(Processed), 9) Lực (Force), 10/ Zero (Ø), 11/ Thời gian (Time), 12/ Lợi thể
( eneficiary), 13/ Công cụ (Instrument), 14/ Kẻ trải nghiệm (Experiencer).
Minh hoạ cho quan điểm của mình ơng đã đưa ra khung vị từ cơ bản sau:
(1) givev (x1: human (x1))Ag (x2)Go (x3: animate (x3))Rec
Ở biểu thức (1), “v” cho biết give là một vị từ-động từ (verbal predicate); các
biến x1 đánh dấu vị trí các tham tố; Ag (Agent: Tác thể), Go (Goal: Đích), Rec
(Recipient: Tiếp thể) đánh đấu chức năng ngữ nghĩa của các tham tố. Các biểu thức
“human (x1)” và “animate (x3)” (người và động vật) chỉ định những hạn lệ chọn lựa ở
Tác thể và Tiếp thể [17, tr.29].
NPCN hướng đến một thành phần phân lập để hình thành vị từ phái sinh. Vị từ
phái sinh, ví dụ, là các vị từ bổ nghĩa (modified predicates) chẳng hạn như (be)
extremely interesting, walk nicely (nói về giày dép); các vị từ gây khiến make, give,
let,

go v.v.; các vị từ này được phái sinh từ các ngữ định danh (terms), chẳng hạn

như (be) teacher. Sản phẩm của các quy tắc hình thành vị từ là là một tập hợp các vị
từ phái sinh, được cho sẵn ở hình thức của khung vị từ kiểu khái quát như được minh
họa trong (1) [17, tr. 30].


21


×