Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

(Luận văn thạc sĩ) ảnh hưởng của việc luân chuyển kiểm toán viên đến chất lượng hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính tại việt nam luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.87 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---ooOoo---

LÂM HUỲNH PHƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUÂN CHUYỂN
KIỂM TOÁN VIÊN ĐẾN CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG KIỂM TOÁN B ÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI VIỆT NAM

Chun ngành: Kế tốn
Mã số

: 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2012

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---ooOoo---

LÂM HUỲNH PHƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUÂN CHUYỂN
KIỂM TOÁN VIÊN ĐẾN CHẤT LƯỢNG HOẠT


ĐỘNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI VIỆT NAM

Chun ngành: Kế tốn
Mã số

: 60.34.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
\
TP. HỒ CHÍ MINH - 2012

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN ANH HIỀN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN
-----☼☼۩☼☼-----

Tôi xin cam đoan đề tài này dựa trên quá trình nghiên cứu trung thực và nghiêm túc dưới
sự cố vấn của người hướng dẫn khoa học. Đây là đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên
ngành Kế toán – Kiểm toán. Luận văn này chưa được ai cơng bố dưới bất kỳ hình thức
nào và tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ.

TPHCM, ngày 19 tháng 6 năm 2013
Tác giả

Lâm Huỳnh Phương



MỤC LỤC
-----☼☼۩☼☼-----

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐẾ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Dẫn nhập ...................................................................................................................... 5
1.2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu ........................................................................................ 9
1.2.1. Tổng quan thị trường kiểm toán Việt Nam ....................................................... 9
1.2.2. Quy định về luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam ..................................... 10
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Tổng quan về chất lượng kiểm toán ............................................................................ 14
2.1.1. Một số định nghĩa về chất lượng kiểm toán ...................................................... 14
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán ............................................. 17
2.2. Phương pháp định lượng chất lượng kiểm tốn ......................................................... 19
2.2.1. Các khoản dồn tích trong lợi nhuận và thước đo chất lượng kiểm toán ............ 19
2.2.2. Sự điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và trách nhiệm của kiểm tốn viên .... 20
2.2.3. Mơ hình định lượng chất lượng kiểm tốn ........................................................ 26


2.3. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài....................................................................... 33
2.3.1. Các nghiên cứu ủng hộ việc luân chuyển kiểm tốn viên bắt buộc .................... 35
2.3.2. Các nghiên cứu khơng ủng hộ việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc ......... 37
CHƯƠNG 3: MƠ HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
3.1. Mơ hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 42
3.1.1. Mơ hình nghiên cứu ......................................................................................... 42
3.1.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 43

3.2. Phương pháp chọn mẫu và mô tả mẫu ....................................................................... 45
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích sơ bộ kết quả nghiên cứu thông qua bảng thống kê mơ tả các biến ......... 47
4.2. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính đơn biến ................................. 50
4.3. Phân tích kết quả hồi quy tuyến tính đa biến ............................................................. 52
4.4. Một số nghiên cứu bổ sung về chất lượng kiểm toán ................................................. 55
4.4.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên với chất lượng
kiểm toán khi phân biệt dấu của DA ..................................................................................... 55
4.4.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc luân chuyển công ty kiểm toán và chất
lượng kiểm toán .................................................................................................................... 56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Kết luận và kiến nghị ................................................................................................... 57
5.2. Những đóng góp và hạn chế của đề tài ....................................................................... 59


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh sách 39 công ty trong mẫu nghiên cứu
Phụ lục 2: Kết quả thống kê mô tả các biến và bảng tần số hai biến APT và AFT
Phụ lục 3: Kết quả kiểm định Lavene về sự khác nhau của các giá trị trung bình
Phụ lục 4: Kết quả phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính giữa hai biến APT và DA
Phụ lục 5: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi APT có giá trị nhỏ hơn hay bằng 3
Phụ lục 7: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi APT có giá trị nhỏ hơn hay bằng 5
Phụ lục 8: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi DA dương
Phụ lục 9: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi DA âm
Phụ lục 10: Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT vào phương trình
nghiên cứu



DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
-----☼☼۩☼☼-----

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Quy định về luân chuyển kiểm toán viên và ln chuyển cơng ty kiểm tốn
tại một số quốc gia châu Á.
Bảng 4.1:Bảng kết quả thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong phương trình
Bảng 4.2:Giá trị trung bình của biến APT ứng với từng năm
Bảng 4.3: Bảng kết quả kiểm định Lavene về sự khác biệt của giá trị trung bình
Bảng 4.4: Bảng kết quả phân tích tương quan giữa APT và DA
Bảng 4.5: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đơn biến giữa APT và DA
Bảng 4.6: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến
Bảng 4.7: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính với hai biến APT3 và APT5
Bảng 4.8: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi phân biệt dấu của DA
Bảng 4.9: Bảng kết quả hồi quy tuyến tính đa biến khi thêm biến AFT

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1: Biểu đồ thể hiện sự biến thiên của giá trị DA trung bình qua các năm


MỞ ĐẦU
-----☼☼۩☼☼-----

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kiểm tốn đã có một q trình hình thành và phát triển lâu dài. Quá
trình này gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của xã hội loài người. Và để phục
vụ cho nhu cầu khá đa dạng từ phía người sử dụng, các loại hình kiểm tốn khác
nhau cũng từng bước được hình thành, trong đó có hoạt động kiểm tốn báo cáo tài
chính. Với vai trị nhằm cung cấp một sự đảm bảo về sự trung thực, hợp lý của báo

cáo tài chính, hoạt động kiểm tốn độc lập đã góp một phần khơng nhỏ đảm bảo thị
trường tài chính phát triển một cách lành mạnh, đặc biệt trong bối cảnh các thị
trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ trên thế giới như hiện nay.
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán cũng đã hình
thành và phát triển.Và một trong những điều kiện đảm bảo cho thị trường này hoạt
động ổn định và trở thành một kênh cung cấp vốn hữu ích cho doanh nghiệp đó là
các thơng tin tài chính được cơng bố phải minh bạch. Tuy nhiên, do có sự xung đột
lợi ích giữa nhà quản trị và chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như các bên thứ ba mà
các thông tin này có thể bị bóp méo theo những mục đích mà nhà quản trị mong
muốn. Do đó, ngành kiểm tốn báo cáo tài chính với vai trị đặc biệt của mình góp
phần giải quyết những xung đột lợi ích trên và đảm bảo các thông tin công bố phản
ánh đúng thực chất tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Chất lượng dịch vụ kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng phần lớn tùy
thuộc vào trình độ chun mơn và tính độc lập của kiểm tốn viên. Nếu như những
u cầu về trình độ có thể đạt được thơng qua q trình đào tạo và tích lũy kinh
nghiệm làm việc thì tính độc lập của kiểm tốn viên là một vấn đề khá nhạy cảm.
1


Nó tùy thuộc vào tính cách cũng như ý thức của từng kiểm toán viên trước yêu cầu
về đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm đối với toàn xã hội. Và vấn đề này đã trở
nên nóng bỏng hơn do sự phá sản một trong các tập đoàn hàng đầu trên thế giới là
ENRON, trong đó có liên quan đến sai phạm nguyên tắc độc lập, khách quan của
công ty kiểm toán Authur Andersen, một trong số các BIG5 lúc bấy giờ.
Từ đây, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã đưa ra nhiều quy
định nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm tốn viên cũng như cơng ty kiểm tốn,
trong đó có quy định về việc luân chuyển bắt buộc kiểm toán viên sau một khoảng
thời gian nhất định. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn cịn gây ra nhiều tranh luận giữa việc
nên hay khơng nên đưa ra quy định này và thời hạn luân chuyển là bao nhiêu năm là
hợp lý. Vì vậy, nhằm kiểm định tính hữu hiệu của quy định này có thực sự làm gia

tăng chất lượng kiểm toán tại Việt Nam hay không, tác giả đã chọn thực hiện đề tài:
“Ảnh hưởng của việc luân chuyển kiểm toán viên đến chất lượng báo cáo tài chính
tại Việt Nam.”

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định mối quan hệ giữa việc luân chuyển
kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Qua đó xem xét những
quy định hiện hành về việc luân chuyển này có thực sự làm gia tăng chất lượng
kiểm tốn hay khơng và đưa ra các khuyến nghị trong việc xây dựng và sửa đổi các
văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này trong tương lai.

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng kiếm toán báo cáo tài chính và
ảnh hưởng của yếu tố nhiệm kỳ kiểm toán viên đến chất lượng kiểm toán. Do hạn
chế về khả năng tiếp cận nguồn tài liệu của các doanh nghiệp nên phạm vi nghiên
cứu chỉ bao gồm các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khốn, bởi vì
báo cáo tài chính và báo cáo kiểm tốn của các cơng ty này được cơng bố định kỳ
và đầy đủ theo luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp kế thừa kinh nghiệm được thực hiện theo phương thức tìm hiểu và
hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt Nam cũng
như trên thế giới.
- Phương pháp phân tích định lượng như thống kê mơ tả, phân tích tương quan, hồi
quy tuyến tính… nhằm định lượng chất lượng kiểm tốn và xem xét mối quan hệ
giữa nhiệm kỳ kiểm toán viên và chất lượng kiểm tốn.
5. Bố cục của đề tài
Ngồi phần mở đầu, bố cục của đề tài gồm có 5 chương:

Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết
Chương 3: Mơ hình nghiên cứu thực nghiệm
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận, kiến nghị và những giới hạn của đề tài

3


6. Những đóng góp của đề tài
► Về mặt lý luận
- Hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề này tại Việt
Nam cũng như trên thế giới.
- Xác định hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và tổng hợp một số biện
pháp mà họ có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
- Giới thiệu phương pháp định lượng chất lượng kiểm tốn thơng qua các khoản dồn
tích (accrual earnings management), một trong những phương pháp đã được sử
dụng trên thế giới để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý và đo
lường gián tiếp chất lượng kiểm toán.
► Về mặt thực tiễn
Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đánh giá tính hữu hiệu của quy định hiện
hành về việc luân chuyển kiểm toán viên trong việc tăng cường sự độc lập và nâng
cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. Từ đó đưa các kiến nghị
cho các nhà lập pháp về vấn đề này trong tương lai. Bên cạnh đó, một phần kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy những rủi ro kiểm toán mà các cơng ty kiểm tốn phải
gặp trong việc kiểm tốn cho khách hàng năm đầu tiên.Vì vậy, tác giả cũng đưa ra
một số kiến nghị về kiểm soát chất lượng dịch vụ đối với Hiệp Hội Kiểm Toán Viên
Hành Nghề Việt Nam (VACPA) và các cơng ty kiểm tốn nhằm gia tăng chất lượng
kiểm tốn báo cáo tài chính tại Việt Nam.


4


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Dẫn nhập
Sự sụp đổ của các tập đồn cơng nghiệp hàng đầu của Mỹ như ENRON,
WORLDCOM… trong những năm đầu thế kỷ 21 đã gây chấn động dư luận Hoa Kỳ và
thế giới. Qua những sự kiện này, nhiều bài học quý giá đã được rút ra liên quan đến
lĩnh vực kế tốn, quản trị cơng ty và đặc biệt là kiểm tốn. Nhiều nhà phân tích cho
rằng những sự đổ vỡ bất ngờ này đã xảy ra xuất phát từ việc các kiểm tốn viên đã
khơng hồn thành tốt cơng việc của mình trong việc phát hiện các gian lận sai sót
trọng yếu trên báo cáo tài chính của cơng ty và báo cáo chúng với cổ đông và các bên
liên quan. Mặt khác, họ lại cịn có quan hệ khá mật thiết với khách hàng của mình,vừa
cung cấp dịch vụ tư vấn vừa thực hiện dịch vụ kiểm toán. Rất nhiều các biện pháp đã
được đưa ra nhằm khắc phục, ngăn chặn các sai phạm đó và đảm bảo chúng sẽ khơng
lặp lại trong tương lai. Trong số đó có quy định về bắt buộc luân chuyển kiểm toán
viên định kỳ nhằm tăng cường tính độc lập, khách quan trong dịch vụ kiểm tốn độc
lập, qua đó nâng cao chất lượng kiểm tốn.
Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra giữa các nhà
lập pháp, các học giả nghiên cứu, nhà quản lý cũng như các kiểm tốn viên đang trực
tiếp hành nghề.
Nhóm ủng hộ (thường là các nhà lập pháp) thì cho rằng quy định này sẽ đảm
bảo sự độc lập của kiểm toán viên và mục tiêu kiểm toán. Theo họ, khi mối quan hệ
giữa các kiểm toán viên với khách hàng trở nên gắn bó lâu dài thì sự khách quan trong
các xét đoán của kiểm toán viên sẽ giảm xuống, một phần là do có sự thỏa hiệp với
khách hàng để giữ chân họ trong thời gian lâu dài. Ngoài ra, khi được giao kiểm tốn
cho một cơng ty trong một thời gian dài, kiểm toán viên thường rơi vào tư tưởng “lối
mòn” do làm mãi các thủ tục quen thuộc và dễ mắc sai lầm do sự chủ quan, không duy
5



trì được tính hồi nghi nghề nghiệp. Bằng cách ln chuyển bắt buộc, kiểm tốn viên
sẽ có cơ hội đối mặt với những thử thách mới. Qua đó, họ cũng có cái nhìn mới mẻ
hơn về khách hàng và sẽ tìm thấy những gian lận sai sót mà có thể nhóm kiểm tốn
trước khơng phát hiện được. Vì vậy, các nhà lập pháp thường cho rằng việc luân
chuyển kiểm toán viên sẽ làm tăng chất lượng kiểm toán.
Tuy nhiên, các học giả trong ngành lại cho thấy một sự thật trái ngược. Bằng
các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực nghiệm, họ cho rằng việc luân chuyển kiểm
toán cả ở cấp độ cơng ty và cấp độ kiểm tốn viên sẽ chỉ gây ra sự tốn kém không cần
thiết khi các cơng ty kiểm tốn phải thực hiện kiểm tốn năm đầu tiên cho khách hàng.
Mặt khác, sự phụ thuộc quá nhiều của kiểm toán viên vào báo cáo kỳ trước cũng như
những ước tính chủ quan của ban giám đốc trong những năm đầu sẽ làm gia tăng rủi ro
kiểm tốn chứ khơng làm tăng chất lượng kiểm tốn như mong đợi. Bên cạnh đó, việc
thiếu kiến thức chuyên biệt về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh cũng như tình hình
hoạt động của khách hàng trong năm đầu kiểm tốn sẽ gây ra khơng ít khó khăn cho
kiểm tốn viên; và sau khi họ đã nắm bắt rõ tất cả các rủi ro kinh doanh của khách
hàng thì họ lại phải bị luân chuyển; và quy trình trên lại tiếp tục. Vì vậy, khi nhiệm kỳ
kiểm tốn viên dài sẽ tạo ra thuận lợi cho kiểm toán viên do họ đã hiểu rõ về khách
hàng của mình qua đó giúp việc kiểm tốn dễ dàng hơn chứ khơng ảnh hưởng gì đến
tính độc lập. Nhóm phản đối cịn cho rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán bị cố định theo luật,
chất lượng kiểm tốn cịn có thể bị giảm đi do các cơng ty kiểm tốn muốn giữ chân
khách hàng đủ lâu để họ bù đắp các chi phí đã bỏ ra trong năm đầu tiên vì vậy sẽ xuất
hiện nguy cơ thông đồng với khách hàng. Các nhà quản trị công ty cũng không ủng hộ
quy định này khi cho rằng họ phải mất quá nhiều thời gian và chi phí trong việc lựa
chọn cơng ty kiểm tốn mới và giúp đỡ các kiểm toán viên hiểu rõ về đặc điểm hoạt
động của họ trong khi lợi ích tăng thêm lại khơng có.

6



Mặc dù các cuộc tranh luận vẫn còn đang tiếp tục diễn ra và chưa có hồi kết,
nhiều nước trên thế giới đã áp dụng quy định luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc.
Các quy định nghề nghiệp ở Mỹ khuyến nghị nhóm kiểm tốn viên cho một cơng ty
nên được thay thế sau mỗi 7 năm. Và sau đó đạo luật Saxbanes-Oxley (2002) đã đưa ra
quy định bắt buộc luân chuyển sau mỗi 5 năm. Còn tại Anh, kể từ tháng 11 năm 2003
nhiệm kỳ tối đa của các kiểm toán viên đã bị rút ngắn từ 7 năm xuống còn 5 năm. Các
quy định tương tự cũng được áp dụng tại Hà Lan và Đức. Ở Nhật, các kiểm toán viên
bị pháp luật nghiêm cấm thực hiện kiểm tốn cho cùng một cơng ty niêm yết 7 năm
liên tiếp.
Cịn về vấn đề ln chuyển ở cấp độ cơng ty, một số nước cũng đã có những
quy định bắt buộc. Có thể kể đến đó là Italia và Brazil, những nước đã ban hành luật
về luân chuyển công ty kiểm tốn đối với các cơng ty niêm yết. Một số nước châu Á
cũng có những điều luật tương tự như: Hàn Quốc đối với các công ty trên sàn chứng
khoán (nhiệm kỳ tối đa là 6 năm); Singapore đối với các nhân hàng thương mại (tối đa
5 năm); và Ấn Độ đối với ngân hàng, công ty bảo hiểm và tất cả các tập đoàn nhà
nước (tối đa 4 năm). Bảng (1.1) trình bày tóm tắt quy định về luân chuyển kiểm toán
tại một số quốc gia châu Á.

7


Tên quốc
gia
Bangladesh
Trung Quốc
Hồng Kông
Ấn Độ

Indonesia
Nhật

Malaysia
Pakistan
Phillipines
Singapore
Srilanka
Hàn Quốc

Đài Loan
Thái Lan

Luân chuyển công ty kiểm
toán bắt buộc

Luân chuyển kiểm toán viên
bắt buộc

Sau mỗi 3 năm đối với các Sau mỗi 3 năm đối với các công ty
công ty niêm yết
niêm yết
Sau mỗi 5 năm đối với các Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
công ty nhà nước
niêm yết
Không quy định
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
niêm yết
Sau mỗi 4 năm đối với ngân Sau mỗi 4 năm đối với các ngân
hàng,công ty bảo hiểm và công hàng, công ty bảo hiểm và công ty
ty nhà nước
nhà nước
Sau mỗi 5 năm đối với tất cả Sau mỗi 3 năm đối với tất cả công ty

công ty
Không quy định
Sau mỗi 7 năm đối với các công ty
niêm yết
Không quy định
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
niêm yết
Sau mỗi 5 năm đối với các Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
công ty niêm yết
niêm yết
Không quy định
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
niêm yết và ngân hàng
Sau mỗi 5 năm đối với các Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
ngân hàng
niêm yết
Không quy định
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
niêm yết
Sau mỗi 6 năm đối với các Sau mỗi 6 năm đối với các công ty
công ty niêm yết KSE hoặc niêm yết KSE hoặc KOSDAQ ngoại
KOSDAQ ngoại trừ các công trừ các cơng ty nước ngồi và các
ty nước ngồi và các công ty công ty niêm yết trên thị trường quốc
niêm yết trên thị trường quốc tế
tế
Không quy định
Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
niêm yết
Sau mỗi 5 năm đối với các Sau mỗi 5 năm đối với các công ty
công ty niêm yết

niêm yết

Bảng 1.1: Quy định về ln chuyển kiểm tốn viên và ln chuyển cơng ty kiểm toán tại một
số quốc gia châu Á. (Nguồn: Siregar S. V. và cộng sự (2012). Audit tenure,audit rotation and
audit quality:The case of Indonesia, Asia Journal of Business and Accounting,5(1),2012.)[38]

8


1.2. Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1.2.1. Tổng quan thị trường kiểm tốn Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau. Mãi cho đến trước thập niên 90 của thế kỷ 20, hoạt động
kiểm toán chủ yếu do nhà nước tiến hành thông qua công tác kiểm tra kế toán. Tuy
nhiên với nhu cầu phát triển của xã hội và quá trình hội nhập với kinh tế thế giới, hoạt
động kiểm toán độc lập tại Việt Nam được tái lập với sự ra đời của công ty Kiểm Toán
Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991. Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, ngành
kiểm tốn Việt Nam đã từng bước được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật và có
những bước tiến nhất định cả về lượng lẫn về chất. Số lượng công ty kiểm toán và số
người được cấp chứng chỉ hành nghề liên tục tăng qua các năm. Theo báo cáo tổng
hợp của VACPA, tính đến ngày 20/3/2012, Việt Nam đã có 152 cơng ty kiểm tốn
đăng ký hành nghề với hơn 2400 người đã được cấp chứng chỉ kiểm tốn viên. Về
cơng tác kiểm sốt chất lượng hoạt động, bộ tài chính cũng đã ban hành hệ thống
chuẩn mực kiểm toán mới cập nhật theo chuẩn mực quốc tế, qua đó tạo ra cơ sở để
đánh giá và nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm tốn nói chung và hoạt động kiểm tốn
độc lập báo cáo tài chính nói riêng. Luật Kiểm tốn độc lập (2011) được quốc hội
thơng qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2012 cũng tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc
giúp cho nghề nghiệp kiểm toán phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành kiểm toán nước ta vẫn tồn
tại nhiều vấn đề có nguy cơ đe dọa chất lượng kiểm tốn. Về số lượng kiểm tốn viên

dù có xu hướng tăng qua các năm nhưng chỉ có hơn 50% trong số này hiện đang đăng
ký hành nghề kiểm toán (theo báo cáo tổng hợp của VACPA năm 2011). Điều này dẫn
đến sự thiếu hụt kiểm tốn viên tại các cơng ty kiểm tốn quy mơ trung bình và nhỏ, tỉ
lệ kiểm tốn viên trên nhân viên chun nghiệp thấp và có tình trạng kiêm nhiệm của
9


kiểm tốn viên tại nhiều cơng ty kiểm tốn khác nhau. Số lượng cơng ty kiểm tốn
thành lập tuy nhiều nhưng phần lớn trong số đó là các cơng ty có quy mơ trung bình và
nhỏ. Với nguồn lực về tài chính cũng như nhân sự hạn hẹp, việc kiểm sốt chất lượng
kiểm tốn tại các cơng ty này vẫn còn nhiều hạn chế từ việc thiếu hụt nhân sự có trình
độ cao cho đến vấn đề đào tạo nhân viên cũng như xây dựng và thực hiện các thủ tục
kiểm sốt chất lượng. Bên cạnh đó, một thực tế hiện nay là có sự cạnh tranh về giá phí
kiểm tốn giữa các cơng ty, có thể dẫn đến việc cạnh tranh khơng lành mạnh. Do phải
giảm mức phí kiểm tốn, các cơng ty này có thể bỏ bớt các thủ tục kiểm toán quan
trọng nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận và phát hành các báo cáo kiểm toán khi chưa thu
thập đủ bằng chứng. Các công ty càng nhỏ thì càng có xu hướng hạ thấp mức phí kiểm
tốn. Trong một thị trường cạnh tranh như vậy, bản thân các cơng ty kiểm tốn ln có
động cơ giữ chân khách hàng cũ thông qua việc trở nên quá “thân thiết” với doanh
nghiệp và những yêu cầu về tính độc lập, khách quan có thể bị vi phạm. Và điều này
lại càng đáng lo ngại hơn khi theo thống kê của VACPA, các cơng ty có quy mơ nhỏ
này chiếm tỉ trọng lớn (2/3 tổng số cơng ty kiểm tốn) và cung cấp dịch vụ cho gần
70% số lượng khách hàng. Với tất cả các vấn đề nêu trên cho thấy rằng chất lượng
kiểm toán hiện nay đang là một vấn đề thời sự. Chất lượng kiểm tốn khơng cao sẽ gây
ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, đặc biệt là sự ổn định của thị trường chứng khoán Việt
Nam.

1.2.2. Quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam
Cũng như tại nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh các giải pháp nâng cao chất
lượng kiểm toán thơng qua việc ban hành các cơ chế kiểm sốt chất lượng, các nhà lập

pháp nước ta cũng ban hành các quy định nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm tốn
viên, trong số đó có quy định về việc luân chuyển kiểm toán viên bắt buộc. Văn bản

10


quy phạm pháp luật đầu tiên có thể kể đến là nghị định 105/2004/NĐ-CP của chính
phủ. Tại chương 1, điều 6 quy định về trách nhiệm của đơn vị được kiểm tốn có ghi:
“Trường hợp ký hợp đồng kiểm tốn với một doanh nghiệp kiểm toán từ 3 năm liên tục
trở lên thì phải u cầu doanh nghiệp kiểm tốn thay đổi kiểm toán viên hành nghề và
người chịu trách nhiệm ký tên trên báo cáo kiểm toán”. Kế đến trong thơng tư
64/2004/TT-BTC do bộ tài chính ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện một số điều
trong nghị định 105/2004/NĐ-CP trong phần quy định chung có nêu yêu cầu thay đổi
kiểm toán viên hành nghề và người chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán. Cụ thể
chương 1 mục 2 của thơng tư này có quy định như sau:
“ 2.1.Trường hợp đơn vị được kiểm toán ký hợp đồng kiểm toán với một doanh
nghiệp kiểm toán từ 3 năm liên tục trở lên, tính từ ngày Nghị định số 105/2004/NĐ-CP
có hiệu lực thì cứ sau 3 năm phải yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi:
a) Kiểm toán viên hành nghề chịu trách nhiệm kiểm toán và ký tên trên báo cáo
kiểm toán;
b) Người chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán là Giám đốc (hoặc người được
uỷ quyền) của doanh nghiệp (hoặc chi nhánh doanh nghiệp) kiểm toán.
2.2. Trường hợp Ban Giám đốc doanh nghiệp kiểm toán hoặc lãnh đạo chi
nhánh doanh nghiệp kiểm tốn chỉ có một người là kiểm tốn viên hành nghề thì đơn
vị được kiểm toán chỉ được ký hợp đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm tốn hoặc
chi nhánh doanh nghiệp kiểm tốn đó nhiều nhất là 3 năm liên tục tính từ ngày Nghị
định số 105/2004/NĐ-CP có hiệu lực và từ năm thứ 4 trở đi phải chuyển sang ký hợp
đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm toán khác.
Yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán thay đổi kiểm toán viên hành nghề và người
chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán phải được ghi rõ trong hợp đồng kiểm toán.”


11


Ngồi ra nhằm tăng cường tính độc lập khách quan của kiểm toán viên mà đặc
biệt là các kiểm toán viên cho các cơng ty niêm yết, luật kiểm tốn độc lập (2011)
cũng có quy định tại điều 58 như sau : “Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh
nghiệp kiểm tốn nước ngồi tại Việt Nam khơng được bố trí kiểm toán viên hành
nghề thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích cơng chúng trong năm (05) năm tài
chính liên tục.”
Và gần đây nhất trong nghị định 17/2012/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày
13/3/2012 hướng dẫn việc thi hành luật kiểm tốn độc lập cũng có quy định tại mục 5
điều 16 về báo cáo kiểm toán: “Kiểm tốn viên hành nghề khơng được ký báo cáo kiểm
toán cho một đơn vị kiểm toán quá ba (03) năm liên tục.”
Qua các văn bản quy phạm pháp luật trên có thể thấy rằng tuy chưa có quy định
về ln chuyển kiểm tốn ở cấp độ cơng ty nhưng vấn đề luân chuyển kiểm toán viên
bắt buộc ở Việt Nam đã được quy định. Tuy nhiên trên thực tế, do những nguyên nhân
khách quan cũng như chủ quan từ phía doanh nghiệp kiểm tốn nên việc thực hiện
ln chuyển này được thực hiện chưa đầy đủ. Trong nghiên cứu của tác giả Trần
Khánh Lâm (2011) dựa trên các biên bản về kết quả kiểm tra hoạt động kiểm soát chất
lượng năm 2009 của các cơng ty kiểm tốn được thực hiện bởi Bộ Tài Chính và
VACPA cho thấy các cơng ty kiểm tốn quy mơ lớn thực hiện việc ln chuyển kiểm
tốn viên khá chặt chẽ. Trong khi đó, cơng ty có quy mơ nhỏ và trung bình chiếm phần
lớn trong mẫu nghiên cứu thực hiện việc luân chuyển kiểm tốn viên khơng đầy đủ và
có sự chênh lệch lớn giữa các công ty. Nguyên nhân là do nguồn nhân lực của họ yếu
kém hơn so với các công ty quy mơ lớn. Tóm lại, kết quả cho thấy trên thực tế các
cơng ty kiểm tốn quy mơ vừa và nhỏ thường khơng có sự ln chuyển kiểm tốn viên
phụ trách thực hiện kiểm toán. Theo tác giả, nguyên nhân chủ quan là do các công ty
này muốn cắt giảm chi phí kiểm tốn và đồng thời cũng tạo sự “thân quen” với khách
hàng nhằm duy trì hợp đồng kiểm toán cho các năm tiếp theo. Nguyên nhân khách

12


quan thường là do các công ty này không đủ số lượng kiểm toán viên để luân phiên
thực hiện kiểm tốn. Đó cũng chính là một trong những lý do khiến chất lượng kiểm
tốn trong nhóm cơng ty này khơng cao. Ngồi ra có thể thấy rằng một ngun nhân
quan trọng nữa khiến việc luân chuyển này không được thực hiện đầy đủ là do chưa có
chế tài xử phạt các cơng ty kiểm tốn vi phạm dù luật kiểm toán độc lập đã ra đời
nhưng việc đưa luật vào thực tế cịn phải chờ các thơng tư hướng dẫn việc thực hiện và
chế tài phù hợp. Mặt khác, với vai trị kiểm sốt chất lượng, Bộ Tài Chính và VACPA
trong cơng tác kiểm tra của mình về vấn đề luân chuyển này cũng chỉ dừng lại ở việc
nhắc nhở và khuyến nghị các doanh nghiệp kiểm toán mở sổ theo dõi hợp đồng và sổ
theo dõi báo cáo kiểm toán đã phát hành để làm cơ sở luân chuyển kiểm tốn viên
chính theo quy định.
Tóm lại, tại Việt Nam, một nước có nền tài chính khá non trẻ so với các nước
trong khu vực, việc luân chuyển kiểm toán viên chịu trách nhiệm ký báo cáo kiểm toán
đã được quy định trong các văn bản luật. Tuy nhiên trên thực tế, do chưa có chế tài xử
phạt nên việc luân chuyển này chỉ mang tính tự giác từ phía các cơng ty kiểm tốn và
đơn vị được kiểm tốn. Từ đó nảy sinh nguy cơ đe dọa đến tính độc lập của kiểm toán
viên cũng như chất lượng kiểm toán.
Từ những vấn đề trên, đề tài này được thực hiện nhằm nghiên cứu mối quan hệ
giữa việc luân chuyển kiểm toán viên với chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại
Việt Nam nhằm xem xét tính hợp lý của các quy định về luân chuyển kiểm toán viên
hiện nay, đồng thời giải thích cơ sở khoa học của những quy định này. Qua đó, đề tài
góp phần hồn thiện khung pháp lý về luân chuyển kiểm toán viên tại Việt Nam và là
một tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơng ty kiểm tốn, sinh viên chun ngành kế
toán kiểm toán cũng như các nhà lập pháp về vấn đề này.

13



CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1.Tổng quan về Chất lượng kiểm toán và các yếu tố ảnh hưởng
2.1.1. Một số định nghĩa về chất lượng kiểm toán
Chất lượng kiểm toán được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo đoạn
09 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 220 trước đây ban hành kèm theo Quyết định
số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14/3/2003 thì “chất lượng kiểm tốn là mức độ thỏa mãn
của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý
kiến của kiểm toán viên, đồng thời thỏa mãn mong muốn của các đối tượng được kiểm
toán về những ý kiến đóng góp của kiểm tốn viên nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh trong một khoảng thời gian định trước với giá phí hợp lý.”
Trong khi đó, hệ thống chuẩn mực kiểm tốn mới ban hành kèm theo thơng tư
số 214/2012/TT-BTC ngày 6/12/2012 thì khơng đưa ra định nghĩa cụ thể về chất lượng
kiểm toán nhưng theo đoạn 06 Chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 220 về kiểm soát
chất lượng hoạt động kiểm tốn có xác định “mục tiêu của kiểm toán viên và doanh
nghiệp kiểm toán là thực hiện các thủ tục kiểm soát chất lượng ở cấp độ từng cuộc
kiểm toán nhằm cung cấp cho kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán sự đảm bảo
hợp lý rằng: (a ) Cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật
và các quy định có liên quan; (b) Báo cáo được doanh nghiệp kiểm toán phát hành là
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể”.[7]
Khác với các sản phẩm của nghề nghiệp khác, chất lượng sản phẩm kiểm tốn
khơng dễ dàng quan sát hay kiểm tra nhưng người sử dụng dịch vụ lại cần biết các yếu
tố tạo nên chất lượng kiểm tốn để họ có thể lựa chọn và tin tưởng vào sản phẩm dịch
vụ mà họ đang sử dụng. Ngược lại, đối với người cung cấp dịch vụ kiểm tốn (bao
gồm các cơng ty kiểm toán và các kiểm toán viên) cũng rất cần biết những yêu cầu về
14


chất lượng từ phía xã hội để họ có thể cung cấp dịch vụ phù hợp và dần thu hẹp
khoảng cách giữa sự mong đợi của công chúng với khả năng thực hiện của kiểm tốn

viên. Do đó, nhu cầu về đo lường chất lượng kiểm toán cũng như đo lường sự thỏa
mãn của người sử dụng báo cáo kiểm tốn trở nên vơ cùng cấp thiết để qua đó đánh
giá chất lượng báo cáo tài chính.
Xuất phát từ thực tế trên, những cơng trình nghiên cứu trên thế giới cũng đã đưa
ra nhiều cách tiếp cận về chất lượng kiểm tốn cả định tính lẫn định lượng. Theo
Krishman và Schauer (2001) chất lượng kiểm toán được hiểu là mức độ cơng ty kiểm
tốn tn thủ các chuẩn mực nghề nghiệp trong suốt q trình thực hiện kiểm tốn
[35]. Quan điểm này cho rằng các chuẩn mực kiểm toán hiện hành là một thước đo
hoàn hảo cho chất lượng kiểm toán. Khi các kiểm toán viên càng tuân thủ các chuẩn
mực thì chất lượng kiểm tốn càng cao. Tuy nhiên, các quan điểm phản đối cho rằng
định nghĩa này quá thiên về mặt định tính. Mặt khác, người sử dụng lẫn đơn vị được
kiểm tốn khó có thể giám sát việc tuân thủ mực của các kiểm toán viên và nếu như
các kiểm toán viên thực sự đã tuân thủ chuẩn mực thì bản thân chuẩn mực cũng chưa
thực sự hồn hảo khi đuợc áp dụng trong nhiều tình huống thực tế.
Một số nhà nghiên cứu khác như DeAngelo (1981) cho rằng chất lượng kiểm
toán được xem xét dựa trên hai khía cạnh đó là : (a) khả năng kiểm toán viên phát hiện
ra các khiếm khuyết trong hệ thống kế toán của khách hàng và (b) báo cáo các khiếm
khuyết này [17]. Định nghĩa này tuy khá rõ ràng về mặt lý thuyết nhưng quá nhấn
mạnh đến tính kiểm tra trong cơng việc kiểm tốn mà qn rằng mục tiêu của kiểm
tốn khơng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra và phát hiện các sai sót mà cịn phải trợ giúp
doanh nghiệp cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ (thông qua thư quản lý) và sửa chữa
những sai sót trên báo cáo tài chính của khách hàng. Và khi các gian lận sai sót này
khơng được sửa chữa thì các kiểm tốn viên mới có trách nhiệm trình bày trên báo cáo
kiểm toán.
15


Còn Theo Jackson, Moldrich, & Roebuck (2008), chất lượng kiểm tốn được
thể hiện ở hai hình thức là “chất lượng thực” (actual quality) và “chất lượng về mặt
cảm nhận” (perceived quality) [27]. Theo đó, chất lượng thực thể hiện mức độ tin cậy

của báo cáo tài chính khi kiểm tốn viên phát hiện được các sai sót trọng yếu trên báo
cáo tài chính và rủi ro kiểm tốn được giảm thiểu tối đa (chất lượng kiểm toán được
đảm bảo khi kiểm tốn viên có đầy đủ trình độ nghiệp vụ). Còn “chất lượng về mặt
cảm nhận” thể hiện mức độ tin tưởng của các người sử dụng báo cáo tài chính đối với
chất lượng của các báo cáo và hiệu quả của cuộc kiểm toán (chủ yếu vấn đề chất lượng
ở đây liên quan đến uy tín nghề nghiệp của các cơng ty kiểm tốn trên thị trường cũng
như sự độc lập của kiểm toán viên đối với khách hàng).
Và khi đứng dưới góc nhìn của nhà đầu tư, người ta đã đưa ra một số quan điểm
khác về chất lượng kiểm tốn, theo đó chất lượng kiểm tốn được thể hiện qua sự
trung thực của thơng tin tài chính được trình bày trên báo cáo tài chính sau khi kiểm
toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên là phải làm giảm các sai sót và nâng cao độ
trung thực của dữ liệu kế toán (Beatty, 1989)[10]. Định nghĩa này quan tâm đến kết
quả của dịch vụ kiểm tốn đó là sự trung thực của báo cáo tài chính. Theo đó, tác giả
cho rằng báo cáo tài chính là một kết quả tổng hợp của doanh nghiệp báo cáo lẫn các
kiểm tốn viên. Khi thơng tin trên báo cáo tài chính khơng trung thực hợp lý thì chất
lượng kiểm tốn đã khơng được đảm bảo cho dù kiểm tốn viên đã hoàn toàn tuân thủ
chuẩn mực.
Trong nghiên cứu này, tác giả chủ yếu dựa trên quan điểm của De Angelo
(1981) và Beatty (1989) về chất lượng kiểm toán do định nghĩa này hướng đến kết quả
cuối cùng của công việc kiểm tốn mang đến cho người sử dụng đó chính là các thơng
tin trên báo cáo tài chính. Qua đó, người đọc cũng như các nhà nghiên cứu có thể đánh
giá chất lượng kiểm tốn dựa trên chất lượng của thơng tin trên báo cáo tài chính và
xây dựng các mơ hình định lượng chất lượng kiểm tốn một cách gián tiếp dựa trên độ
16


tin cậy của thơng tin tài chính. Ngồi ra, chất lượng kiểm tốn có thể xem xét dựa trên
hai khía cạnh là khả năng phát hiện ra gian lận, sai sót của kiểm tốn viên (thể hiện
trình độ nghiệp vụ của kiểm tốn viên) và khả năng họ trình bày các gian lận sai sót
này (thể hiện tính độc lập khách quan của kiểm tốn viên). Do đó, đối với những quy

định chỉ nhằm tăng cường tính độc lập của kiểm toán viên (như quy định luân chuyển
kiểm toán viên chẳng hạn) thì ta cần phải xem xét liệu chúng có làm ảnh hưởng đến
khả năng phát hiện ra các gian lận sai sót hay khơng. Nếu các quy định này khiến kiểm
tốn viên gặp khó khăn trong cơng việc kiểm tốn của mình, làm gia tăng rủi ro kiểm
tốn thì chúng cần được điều chỉnh sao cho vừa tăng cường tính độc lập nhưng cũng
khơng gây khó khăn cho kiểm tốn viên, qua đó vừa đảm bảo tính độc lập nhưng
khơng làm giảm chất lượng kiểm tốn.

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán
Cũng như bao ngành nghề dịch vụ khác, trong lĩnh vực kiểm toán, để đạt được
chất lượng sản phẩm của kiểm toán phải thỏa mãn các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên,
đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán khá rộng. Khởi nguồn cơ bản và sâu xa của nghề
nghiệp kiểm toán là sự xung đột lợi ích giữa người cung cấp và người sử dụng thơng
tin tài chính. Trong những thời kỳ đầu, kiểm tốn ra đời nhằm thẩm tra về tính chính
xác của các thơng tin tài chính, chủ yếu phát triển kiểm toán tuân thủ giúp bảo vệ
quyền lợi của chủ sở hữu và nhà nước. Nhiệm vụ hàng đầu của kiểm toán viên là phát
hiện những gian lận sai sót của nhà quản lý, đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán lúc
này là chủ sở hữu và các cơ quan nhà nước.
Đến đầu thế kỷ 20, nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của
hàng triệu nhà đầu tư chứng khốn. Vì thế trong khi mục đích kiểm tốn nhà nước và
kiểm tốn nội bộ khơng có sự thay đổi đáng kể, kiểm tốn độc lập báo cáo tài chính từ
17


mục đích phát hiện sai phạm đã chuyển sang mục đích mới là nhận xét về mức độ
trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính. Lúc này, kết quả kiểm toán chủ yếu phục
vụ cho các bên thứ ba để giúp họ đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính.
Do đó dù đối tượng sử dụng kết quả kiểm tốn khá rộng nhưng ta có thể chia ra
làm 2 nhóm chính là: (1) người quản lý và (2) cổ đông và các bên liên quan. Đối với
các công ty không phải là công ty đại chúng, người sử dụng chủ yếu là nhà quản lý và

các cổ đông. Tuy nhiên, đối với các công ty đại chúng được niêm yết trên thị trường,
nhóm nguời sử dụng còn bao gồm cả các bên thứ ba (nhà đầu tư, các định chế tài chính
trung gian…). Do thơng tin trên báo cáo tài chính của các cơng ty này có ảnh hưởng
lớn đến nhóm người rộng rãi trong xã hội như vậy nên hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều yêu cầu các công ty này phải được kiểm tốn hàng năm. Do đó, khi nghiên
cứu về chất lượng kiểm tốn, các nhà nghiên cứu phân tích và xem xét chủ yếu dưới
góc nhìn của cơng chúng và xã hội.
Do việc đánh giá chất lượng kiểm toán đối với cơng chúng là rất khó khăn nên
người ta thường đánh giá chất lượng kiểm tốn thơng qua các yếu tố có liên quan đến
chất lượng kiểm tốn. Theo luận án tiến sĩ của Trần Khánh Lâm (2011) về “Xây dựng
cơ chế kiểm soát chất lượng cho hoạt động kiểm toán ở Việt Nam”[4], tác giả đã thu
thập và tổng hợp kết quả từ rất nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới qua đó đưa ra
7 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán bao gồm:
1) Quy mơ cơng ty kiểm tốn
2) Mức độ chun sâu trong từng lĩnh vực của kiểm toán viên
3) Nhiệm kỳ kiểm tốn viên
4) Giá phí kiểm tốn
5) Phạm vi dịch vụ phi kiểm toán cung cấp
18


×