Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Luận văn thạc sĩ hoạt động của trí thức việt nam trong lĩnh vực văn hóa (1897 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.26 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

ĐẶNG SỸ KHOA

HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897 – 1945)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 8229013

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. TRƢƠNG THỊ DƢƠNG


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp với đề tài “Hoạt động của trí
thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897 – 1945)” là nghiên cứu độc lập
của tôi. Được dẫn dắt và hướng dẫn bởi TS. Trương Thị Dương. Các nhận
định nêu ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập, trung
thực của bản thân tác giả luận văn trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu
khoa học. Luận văn không đạo nhái hay sao chép từ bất kỳ một cơng trình
nghiên cứu nào khác. Tất cả tài liệu trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường nếu phát hiện bất
cứ sự sai phạm hay sao chép trong đề tài này!

Tác giả
Đặng Sỹ Khoa


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 7
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu............................................... 8
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 8
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 9
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897 – 1945) ......................................................... 10
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1897 – 1945............................... 10
1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ............................................. 10
1.1.2. Chính sách nơ dịch của thực dân Pháp trong lĩnh vực văn hóa ..... 12
1.2. Khái quát chung về trí thức Việt Nam (1897 - 1945)........................... 15
1.2.1. Khái quát chung về trí thức ............................................................ 15
1.2.2. Khái quát về trí thức Việt Nam (1897 - 1945) ............................... 24
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 28
Chƣơng 2. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM
TRONG LĨNH VỰC VĂN HĨA (1897- 1945) ........................................... 30
2.1. Trí thức tiếp thu và truyền bá chữ Quốc ngữ........................................ 30
2.1.1. Giai đoạn 1897 đến 1930 ............................................................... 31
2.1.2. Giai đoạn 1930 đến 1945 ............................................................... 35
2.2. Trí thức Việt Nam hoạt động văn học .................................................. 39
2.2.1. Giai đoạn 1897 đến 1930 .................................................................. 39
2.1.2. Giai đoạn 1930 đến 1945 .................................................................. 44


2.3. Trí thức Việt Nam hoạt động báo chí ................................................... 49
2.3.1. Giai đoạn 1897 đến 1930 ............................................................... 49
2.3.2. Giai đoạn 1930 đến 1945 ............................................................... 51

2.4. Một số hoạt động khác của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa
giai đoạn 1897 đến 1945 .............................................................................. 56
2.4.1. Hoạt động của trí thức trong lĩnh vực nghệ thuật kiến trúc ........... 56
2.4.2. Hoạt động của trí thức trong lĩnh vực mỹ thuật ............................. 58
2.4.3. Hoạt động của trí thức về nghệ thuật sân khấu .............................. 60
2.4.4. Hoạt động của trí thức trong lĩnh vực âm nhạc.............................. 63
2.4.5. Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực trang phục ......... 68
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 71
Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM
TRONG LĨNH VỰC VĂN HĨA (1897- 1945) ........................................... 72
3.1. Đặc điểm hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh văn hóa (1897 -1945)..72
3.1.1. Hoạt động văn hóa có sự tham gia của nhiều thành phần trí thức
và có sự kế thừa, chuyển giao .................................................................. 72
3.1.2. Hoạt động văn hóa của trí thức giai đoạn 1897 – 1945 chủ động
tiếp nhận văn hóa phương Tây, nổi trội là truyền bá chữ Quốc ngữ,
làm báo cách mạng ................................................................................... 76
3.1.3. Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa là sự tiếp
biến văn hóa tồn diện, mở đầu cho nhiều thể loại văn hóa hiện đại .............. 81
3.2. Đóng góp của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897
đến 1945 ....................................................................................................... 85
3.2.1. Trí thức Việt Nam giai đoạn 1897 – 1945 tiên phong trong tiếp
nhận văn minh phương Tây, tiếp thu và truyền bá tư tưởng mới vào
Việt Nam .................................................................................................. 85
3.2.2. Trí thức có cơng truyền bá, đưa chữ Quốc ngữ trở thành ngơn ngữ
chính trong đời sống và biến thành phương tiện hoạt động văn hóa ............... 88


3.2.3. Trí thức Việt Nam góp phần làm thay đổi văn hóa vật chất ở Việt
Nam, góp phần hình thành văn hóa đơ thị, thay đổi tư duy văn hóa ở
nơng thơn .................................................................................................. 89

3.2.4. Thơng qua hoạt động văn hóa trí thức Việt Nam góp phần vào
thắng lợi phong trào giải phóng dân tộc................................................... 90
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mọi thời đại trí thức ln là lực lượng nịng cốt sáng tạo và truyền
bá tri thức, đóng vai trị quan trọng trong sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc.
Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai trị của
người trí thức đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Người cho rằng:
“Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân… Nhưng cách
mạng cũng cần có lực lượng của trí thức”.
Nhiều trí thức đã có những cống hiến vĩ đại cho sự nghiệp cách mạng
của dân tộc Việt Nam và cả sinh mệnh của mình cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được
thắng lợi to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng
một chế độ mới tốt đẹp hơn.
Không chỉ trong lĩnh vực chính trị, lực lượng trí thức cịn thể hiện vai trị,
tầm ảnh hưởng của mình trong lĩnh vực văn hóa, trong đó giai đoạn 18971945 trên mặt trận văn hóa, trí thức Việt Nam có nhiều hoạt động khơng chỉ
góp phần vào thắng lợi của cách mạng tháng Tám mà cịn xây dựng một nền
văn hóa mới mang đậm bản sác văn hóa dân tộc kết hợp thêm những tinh hoa
của văn hóa phương Tây.
Về phía thực dân, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp tiến

hành cuộc khai thác thuộc địa. Đây cũng là thời điểm văn hóa Việt Nam giao
lưu, tiếp xúc mạnh mẽ với một nền văn hóa, văn minh mới của nhân loại –
văn minh phương Tây. Điều này đã làm cho đời sống văn hóa của người Việt
Nam nhất là trong đội ngũ trí thức có sự thay đổi và xáo trộn. Một bộ phận trí
thức có nhãn quan mở rộng, tân tiến, sáng suốt chủ động trong việc tiếp nhận,
học hỏi “gạn đục khơi trong” nền văn minh ấy cũng chính là con đường đánh
thắng thực dân Pháp, “học hỏi kẻ thù để đánh đuổi kẻ thù”.


2
Bởi tầm ảnh hưởng, vai trò quan trọng của bộ phận trí thức trên lĩnh vực
văn hóa trong giai đoạn này, đồng thời chưa có cơng trình nào nghiên cứu
hoạt động văn hóa của trí thức một cách có hệ thống, vì vậy tơi chọn đề tài:
“Hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa (1897-1945)” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ với mục đích tìm hiểu sâu về hoạt động văn hóa
của giới trí thức trong giai đoạn kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi
1897-1945, qua đó đánh giá vai trị của trí thức trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, bên cạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cho đến nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam trong
thời kì lịch sử cận đại. Trong đó có những cơng trình nghiên cứu về trí thức
với văn hóa Việt Nam, tuy nhiên hầu như chưa có cơng trình chun sâu vào
hoạt động của trí thức trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897-1945. Tuy nhiên,
có nhiều cơng trình nghiên cứu về trí thức có đề cập ít nhiều đến hoạt động
văn hóa của trí thức:
* Cơng trình nghiên cứu về văn hóa, trí thức và những điều kiện tác
động đến hoạt động của trí thức
Cơng trình nghiên cứu chun sâu về trí thức, Năm 1987, tác giả Vũ
Khiêu với tác phẩm “Trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử” ca gợi
cơng lao của trí thức Việt Nam đặc biệt là Hồ Chí Minh. Cùng tác giả, trong

tác phẩm “Trí thức Việt Nam thời xưa” cho biết mỗi thời kỳ lịch sử giữa các
thế hệ trí thức tuy điều kiện hình thành khác nhau song phẩm chất đạo đức, tư
duy và hành động của trí thức Việt Nam ln gắn liền tới sự thịnh suy của đất
nước. Tuy nhiên tác phẩm mới đề cập đến trí thức thế kỷ XIX mà chưa đề cập
đến hoạt động của trí thức giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Nghiên cứu bối cảnh tác động đến sự chuyển biến tư tưởng của trí thức có
sách “Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” do Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội xuất bản năm 1997. Cuốn sách đã


3
trình bày khá sâu sắc khái niệm Tân thư, nguồn gốc và ảnh hưởng của Tân thư
đối với phong trào cải cách ở châu Á cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Cuốn sách
đã chỉ ra những con đường du nhập Tân thư vào Việt Nam và tác động của Tân
thư đối với đời sống văn hóa ở Việt Nam. Tân thư chính là một trong những chất
xúc tác quan trọng thúc đẩy sự chuyển biến tư tưởng của đội ngũ trí thức Nho
giáo, dẫn đến sự ra đời của các Nhà nho cấp tiến.
Nhà nghiên cứu lịch sử Chương Thâu với cơng trình“Đơng Kinh nghĩa
thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỉ XX” xuất bản năm 1982.
Trong phần 2, tác giả đã sưu tầm và giới thiệu những nguồn tư liệu quý (sách,
báo, thơ, văn) của Trường Đông Kinh nghĩa thục, những tư liệu này góp phần
phản ánh rõ hơn thái độ tự nguyện tiếp nhận văn minh phương Tây của các
nhà trí thức cấp tiến Việt Nam. Những hoạt động giáo dục gắn liền với hoạt
động văn hóa khiến cho thực dân Pháp lo lắng và chúng đã tước giấy phép
hoạt động của Trường. Tuy nhiên tác phẩm này mới chỉ đề cập đến hoạt động
của trí thức Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
Năm 2016, tác phẩm “Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc”
của tác giả Nguyễn Văn Khánh xuất bản nghiên cứu xun suốt và có cái nhìn
tổng thể về trí thức Việt Nam từ thời phong kiến cho đến nay. Qua cơng trình
tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về trí thức, sự hình thành phát triển

đội ngũ trí thức Việt Nam trong đó tác giả giành riêng một mục đóng góp về
lĩnh vực văn hóa của trí thức ở mỗi giai đoạn.
Gần đây nhất có cơng trình “Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 -1954)”
xuất bản năm 2020 với nội dung là các bài giảng của Trịnh Văn Thảo tại
trường Quốc tế về Triết học, được nhóm biên dịch của trường Đại học KHXH
& NV Hà Nội thực hiện. Cơng trình tập trung vào sự chuyển biến của ba thế
hệ trí thức từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, từ đó tìm ta mẫu số chung
của trí thức Việt Nam dù xuất thân khác nhau, thành phần khác nhau nhưng
đều giống nhau là có truyền thống yêu nước.


4
Tái bản gần đây có tập sách: “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám”, (tái bản 2020). Qua tập một, tác giả
Trần Văn Giàu phân tích khá rõ tư tưởng thủ cựu và duy tân của trí thức Nho
học ở nửa cuối thế kỷ XIX, và nhìn chung đa số trí thức chống đối lại việc học
tập phương Tây. Nhưng ở tập hai và tập ba của bộ sách phản ánh rõ nhiều trí
thức Nho học cấp tiến đã tiếp nhận những tư tưởng mới từ bên ngoài vào qua
nhiều lăng kính khác nhau, góp phần mở đường cho một loại hình phong trào
giải phóng dân tộc mới, trong đó có tiếp thu cách giáo dục của phương Tây.
Ở góc độ giáo trình chun sâu về văn hóa có nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Thêm và giáo sư Trần Quốc Vượng với tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam”,
được dùng nhiều trong các trường Đại học, Cao đẳng là công trình nghiên cứu
khá sâu về văn hóa Việt Nam trên nhiều phương diện như tập trung vào khái
niệm văn hóa và những biểu hiện của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần ở
Việt Nam trong ứng xử với mơi trường tự nhiên và xã hội. Trong đó khi nói
đến chủ thể văn hóa và tiến trình văn hóa có chia giai đoạn văn hóa giao thoa
với văn hóa phương Tây là từ khi Pháp xâm lược và thống trị Việt Nam.
Nghiên cứu ở góc độ giáo trình dạy ở bậc Cao học và Đại học có:
Nguyễn Văn Khánh: “Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (18581945)” xuất bản năm 2000, viết khá toàn diện về chương trình khai thác bóc

lột của Pháp, trong đó đề cập đến chính sách nơ dịch của thực dân Pháp ở
Việt Nam nhằm mục đích làm cho nhân dân Việt Nam qn đi nguồn cội của
mình, cịn thanh niên bị lơi kéo vào những thói ăn chơi mà qn đi trách
nhiệm với dân tộc. Nhưng cùng với tiến trình khai thác thuộc địa xã hội Việt
Nam phân hóa, đội ngũ trí thức Tân học ra đời từ nền giáo dục Pháp – Việt lại
trở thành lực lượng chống lại thực dân, trong đó văn hóa là một mặt trận.
Cuốn “Đại cương Lịch sử Việt Nam” tập 2 do Giáo sư Đinh Xuân Lâm
chủ biên, hay cuốn “Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX đến 1918” Q 2, Tập 2
của Nguyễn Văn Kiệm (1979), “Lịch sử Việt Nam” tập II của Nguyễn Khánh


5
Tồn chủ biên (2004) cũng đã có mục nghiên cứu riêng về chính sách văn hóa
của Pháp. Trong đó cũng là chữ Quốc ngữ nhưng thực dân Pháp thì đưa vào
giảng dạy để phục vụ mục đích cai trị, cịn trí thức Việt Nam coi chữ Quốc
ngữ như hồn trong nước, coi đó là cơng cụ chống lại thực dân.
Khi nói đến tác động nhờ hoạt động văn hóa, giáo dục của trí thức đến
phong trào đấu tranh chống Pháp phải kể đến tác phẩm “Phong trào kháng
thuế ở miền Trung qua các châu bản triều Duy Tân” của tác giả Nguyễn Thế
Anh cho thấy nỗi uất ức đến cùng cực của nhân dân miền trung đã lên đến cao
độ dẫn đến phong trào chống sưu thuế năm 1908. Đây là kết quả lớn của
phong trào Duy tân do Phan Châu Trinh khởi xướng được các trí thức Nho
học tiến bộ cùng thời đã “khai dân trí” thức tỉnh nhân dân hiểu ra nguyên
nhân của sự cùng cực là do chính sách bóc lột của Pháp.
+ Sách“Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp” – nhà nghiên cứu Phan
Ngọc, tác giả đã bàn luận những sắc thái, tư tưởng trong q trình tiếp xúc với
văn hóa Pháp ở Việt Nam nhất là qua đội ngũ trí thức.
* Cơng trình luận án Tiến sĩ, nghiên cứu tạp chí, tham luận nghiên cứu
gián tiếp về trí thức và hoạt động văn hóa của trí thức
Ở góc độ luận án có Trần Viết Nghĩa (2011), “Trí thức Việt Nam đối diện

với văn minh phương Tây thời Pháp thuộc”. Dưới góc độ Luận án Tiến sĩ, tác
giả đã phân tích những thái độ tiếp nhận văn minh phương Tây của tầng lớp sĩ
phu đầu thế kỷ XX có nhiều mức độ khác nhau. Trong đó có một bộ phận đã
tiếp nhận trên cơ sở Duy tân đất nước, đó là một trong những lý do chữ Quốc
ngữ được tích cực truyền bá vào Việt Nam, bên cạnh đó cũng diễn ra q
trình chủ động tiếp nhận văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
Trương Thị Dương (2021), “Trí thức Tân học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Quy Nhơn, tác giả giành
một phần về hoạt động văn hóa trong đó khẳng định trí thức Việt Nam không
ngừng rèn luyện tu dưỡng và cống hiến cho dân tộc, trong đó đẩy mạnh


6
truyền bá chữ Quốc ngữ, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công
dân trước vận mệnh của dân tộc. Những hoạt động văn hóa của trí thức giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ
văn hóa nơ dịch của thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa mới của dân
tộc phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên tác giả chưa đề cập
đến văn hóa nghệ thuật, hội họa, kiến trúc.
Ở thể loại các bài tạp chí có nhiều bài viết liên quan đến trí thức như:
Phạm Xuân Nam (1982), Vài nét về trí thức và q trình cách mạng giải
phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử số 1, trang 50-55.
Nguyễn Văn Khánh (1985), Thanh niên trí thức và phong trào Cộng
sản ở Việt Nam trước năm 1930, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4, tr 67- 75.
Hoàng Ngọc Vĩnh, Trần Văn Thành (2011), Nghệ thuật vận động trí
thức của Hồ Chí Minh, tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 68 cũng đề cập ít
nhiều đến vai trị của trí thức đối với phong trào giải phóng dân tộc.
Nguyễn Thị Thanh Thủy có bài: Đặc điểm của trí thức Tây học ở Việt
Nam đầu thế kỷ XX, đăng trên tạp chí ĐH KHXH & NV, KHXH & NV 282012. Bài viết tập trung chỉ ra đặc điểm của trí thức Tân học, mà chưa có cái

nhìn tồn diện về các thành phần trí thức khác.
+ “Việt Nam một lịch sử chuyển giao văn hóa” – Hồi Hương Aubert –
Ngun Mechiel Aspagne đã khẳng định những cuộc chuyển giao văn hóa
dẫn đến sự hình thành tầng lớp trí thức mới.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết, ấn phẩm đã đề cập ở trên
dù ít nhiều có liên quan đến hoạt động của trí thức trong lĩnh vực văn hóa giai
đoạn 1897-1945 thơng theo những góc độ, mức độ và hình thức thể hiện khác
nhau, cịn nhiều nội dung cần làm có hệ thống hơn. Tuy nhiên các tài liệu trên
được thực sự là nguồn tham khảo quý báu và là cơ sở góp phần giúp tơi giải
quyết tốt các nhiệm vụ mà đề tài luận văn đặt ra.


7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là hoạt động của trí thức trong lĩnh
vực văn hóa từ năm 1897 đến năm 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu một số hoạt động nổi bật của trí thức trong lĩnh
vực văn hóa từ năm 1897 đến năm 1945.
- Về mặt không gian: những vấn đề nghiên cứu đều ở Việt Nam.
- Về mặt thời gian: từ khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất năm 1897 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (2/9/1945).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích làm sáng tỏ hoạt động nổi bật của trí
thức Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn từ năm 1897 đến năm 1945.
Qua đó rút ra đặc điểm và đóng góp của trí thức Việt Nam trong giai đoạn này
dưới góc nhìn văn hóa. Từ đó gợi mở những vấn đề tiếp thu văn hóa nhân loại

của lực lượng trí thức trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định rõ từ mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm nhiệm vụ
sau đây:
- Làm rõ bối cảnh lịch sử mới và khái niệm chung về trí thức Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa giai đoạn 1897-1945.
- Nghiên cứu một số hoạt động nổi bật của trí thức Việt Nam trong lĩnh
vực văn hóa ( văn học, báo chí, nghệ thuật,… ) trong giai đoạn 1897-1945.
- Rút ra đặc điểm, đóng góp của lực lượng trí thức trong lĩnh vực văn hóa
giai đoạn 1897 - 1945 nói riêng và thời kì cận đại nói chung.


8
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Đề tài hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu khác nhau:
- Tư liệu là sách nghiên cứu về bộ phận trí thức và văn hóa.
- Các báo, tập chí, cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước về những
vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại đặc biệt vấn đề trí thức với văn hóa, sự giao
thoa văn hóa Đơng - Tây.
- Các văn kiện của Đảng và nhà nước liên quan đến trí thức, văn hóa thời
kì kháng chiến chống Pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách Nhà nước về lực
lượng trí thức và văn hóa; phương pháp luận duy vật lịch sử.
Để hồn thành luận văn tác giả còn sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, phương pháp tổng hợp; sử dụng thêm các phương pháp
liên ngành: văn hóa học, ngơn ngữ học, xã hội học, giáo dục học, nhân chứng
học… Ngồi ra cịn có các phương pháp biện chứng, phân tích, tổng hợp, vận

dụng kiến thức lịch sử, địa lý với đối chiếu, so sánh làm rõ yêu cầu của đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hồn thành sẽ có những đóng góp chủ yếu sau:
- Luận văn đã tổng hợp những tư liệu nghiên cứu có giá trị về hoạt động của
trí thức nói chung và trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 1897-1945 nói riêng.
- Luận văn làm sáng tỏ hoạt động cũng như đặc điểm, đóng góp của trí
thức trong lĩnh vực văn hóa 1897-1945.
- Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy
chuyên đề về Trí thức Việt Nam trong lịch sử, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Lịch
sử Việt Nam, ở trường Đại học, Cao đẳng, và góp phần giáo dục ý thức bảo
tồn giá trị văn hóa của dân tộc.


9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn
hóa (1897 – 1945)
Chương 2: Một số hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực văn
hóa (1897- 1945)
Chương 3: Đánh giá về hoạt động của trí thức Việt Nam trong lĩnh vực
văn hóa (1897- 1945)


10

Chƣơng 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC VĂN HÓA (1897 – 1945)

1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1897 – 1945
1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Ngay khi chiếm toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp đã chú ý đến yếu tố
“chia để trị” để phục vụ kịp thời và đắc lực cho cơng cuộc khai thác và bóc lột
kinh tế. Việt Nam bị chia cắt làm 3 xứ: xứ Nam kỳ thuộc địa đặt dưới quyền
Bộ hàng hải và Bộ thuộc địa; xứ Trung kỳ bảo hộ, xứ Bắc kỳ nửa bảo hộ, đặt
dưới quyền quản lý của Bộ ngoại giao. Sau khi đặt ách thống trị lên nước ta,
thực dân Pháp nhanh chóng thiết lập chế độ chính trị vơ cùng phản động và
chúng ra sức khai thác thuộc địa với mục đích vơ vét, xuất khẩu tư bản, bóc
lột sức lao động và thị trường tiêu thụ. Cùng với đó là vơ số chính sách đàn áp,
bóc lột về chính trị, kinh tế, văn hóa.
Ngày 22 – 3 – 1897, Tồn quyền Đơng Dương Pơn Đume (Paul Doumer)
gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động: Tổ chức
một chính phủ chung cho tồn Đơng Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành
chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập
một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với ngân sách, nhưng phải dựa trên
cơ sở xã hội cụ thể và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân
Đông Dương. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương. Đẩy nền sản xuất
và thương mai bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao
động của người bản xứ. Bảo đảm phịng thủ Đơng Dương bằng việc thiết lập
những căn cứ hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
Hoàn thành cơng cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc
Kì. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp
ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận.
Việt Nam là nước có các nguồn tài nguyên phong phú, cả trên rừng,


11
dưới biển, trong lịng đất, sức lao động lại đơng và rẻ, Việt Nam có đủ điều
kiện cho thực dân Pháp đẩy mạnh cơng việc khai thác, bóc lột kinh tế tại chỗ

để kiếm lợi nhuận. Tư bản nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX chủ yếu là của Pháp. Từ năm 1896 đến năm 1914 có 514 triệu phơrăng
vàng được đầu tư dưới hình thức tiền vốn của nhà nước.
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Ngay sau khi thực dân Pháp chiếm
được Sài Gòn, một trong những biện pháp đầu tiên chúng thi hành là bỏ lệ
cấm xuất cảng gạo ở Nam Kì mà trước đây Triều đình Huế ban hành, gắn thị
trường lúa gạo, mặt hàng quan trọng nhất của Nam Kì, sau đó là tồn bộ thị
trường Nam Kì với thị trường thế giới. Thực dân Pháp đã bóc lột nhân dân
Việt Nam thậm tệ để tạo ra một nguồn tăng trưởng vốn tích lũy nhanh chóng.
Một số người đã vươn lên thành nhà tư bản lớn. Trong chương trình khai thác
thuộc địa thì Đume cũng đã có hai điểm cần phải nêu rõ đó là: “Nhanh chóng
xây dựng cho Đơng Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thống đường sắt,
đường giao thông, sông đào, bến cảng, những cơ sở cần thiết cho việc khai
thác xứ Đông Dương, đồng thời ra sức đẩy mạnh sản xuất và thương mại của
thuộc địa bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao
động của người bản xứ” [97, tr.312].
Nguồn ngân sách tài chính để thực hiện chủ yếu từ ngu thu do nguồn lợi
của các loại thuế. Pháp tăng cường mọi thứ thuế cũ có từ thời phong kiến
trước khi Pháp tới, đều tăng vọt như thuế thân, thuế đinh, thuế ruộng,..Ngồi
ra, thuế gián thu có rất nhiều loại do thực dân Pháp tùy tiện đặt ra, đặc biệt là
ba loại thuế muối, thuế rượu và thuế thuốc phiện. Vốn nhà nước Pháp cho
ngân quỹ Đông Dương vay, một phần được sử dụng vào việc xây dựng giao
thông vận tải, cơ sở hạ tầng của việc phát triển kinh tế ở Đông Dương.
Về công thương nghiệp, sản xuất ở thuộc địa chỉ được giới hạn trong
việc cung cấp cho chính quốc nguyên liệu hay những vật phẩm gì mà ở nước
Pháp khơng có. Ngành mỏ, được tư bản thực dân Pháp quan tâm và chú trọng


12
vì ngành này nhanh chóng thu được nhiều lợi nhuận, sau cơng nghiệp khai

thác than và khống sản là các ngành khác như xi măng, gạch, ngói, điện,
nước, chế biến nông lâm sản,...Phương thức hoạt động của tư bản thực dân
Pháp ở Việt Nam là tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt, sử dụng đến mức tối
đa lao động thủ cơng, lao động cơ giới, kết hợp bóc lột tư bản chủ nghĩa với
bóc lột tiền tư bản chủ nghĩa. Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, tư
bản thực dân Pháp đã bóc lột thậm tệ nhân dân ta để thu được rất nhiều lợi
nhuận, nhưng khách quan chúng cũng đã đẩy nền kinh tế Việt Nam đi theo
hướng tư bản chủ nghĩa và phát triển lên một bước so với trước. Để đạt được
mục đích lợi nhuận về kinh tế, thực dân Pháp đã thực thi các chính sách về
giáo dục và văn hóa để bổ trợ.
1.1.2. Chính sách nơ dịch của thực dân Pháp trong lĩnh vực văn hóa
Văn hóa có nhiều định nghĩa và khái niệm khác nhau, tuy nhiên theo
cách hiểu chung nhất văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình. Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình gốc nơng nghiệp, vừa có tính cộng
đồng và tính tự trị, có bề dày về truyền thống yêu nước, truyền thống đấu
tranh, truyền thống hiếu học, trọng tình, trọng nghĩa. Những giá trị đó đã giúp
dân tộc Việt Nam có được sức mạnh vơ bờ chống lại bất kỳ thế lực ngoại xâm
dù mạnh đến đâu. Càng khó khăn khi tính tự trị của làng xã Việt Nam nên
trong lịch sử các thế lực ngoại bang muốn đồng hóa người Việt Nam đều bị
thất bại, hiểu rõ văn hóa là điểm mạnh của dân tộc Việt Nam nên khi kẻ thù là
một nước tư bản phương Tây sang xâm lược Việt Nam đã coi đó là một mũi
tên để tấn công.
Cụ thể, sau khi dập tắt các phong trào u nước, hồn thành căn bản
cơng cuộc bình định nước ta về mặt quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành hai
cuộc khai thác thuộc địa, áp đặt một số chính sách thống trị quy mơ và triệt để


13

trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, giáo dục...
Nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa khai khẩn, bảo đảm siêu lợi
nhuận cho chính quốc. Ngồi xây dựng hệ thống chính trị, thực dân Pháp cịn
thực hiện chính sách ngu dân về mặt giáo dục, đầu độc về văn hóa để dễ bề
cai trị, thực dân Pháp đã tùy từng thời kỳ, từng giai đoạn mà đặt ra những
chương trình cụ thể về văn hóa, giáo dục. Pháp thực hiện chính sách nơ dịch
về văn hóa: Duy trì, dung dưỡng nếp sống hủ lậu trong cưới xin, ma chay.
Khuyến khích các thói hư tật xấu, phổ biến lối sống ăn chơi trụy lạc. Xuyên
tạc về nguồn gốc dân tộc. Phá hủy các cơng trình kiến trúc, văn hóa. Làm sỉ
nhục người dân bản xứ, gây tâm lý sợ Pháp, phục Pháp.
Mục đích của những chính sách đó là nhằm nô dịch tinh thần quần
chúng, biến quần chúng thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức
mạnh của văn minh đại Pháp, mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân
tộc, cắt đứt với mọi truyền thống tốt đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi
của đế quốc.
Có thể nói bản chất của chính sách văn hóa Pháp ở Việt Nam là loại
chính sách cưỡng bức đồng hóa, nhằm đưa văn hóa Việt Nam lệ thuộc sâu
sắc vào văn hóa Pháp. “Việc truyền bá văn minh Pháp là mục đích đã được
xác nhận, cịn trong thâm tâm thì nó có ý nghĩa là sẽ thay thế cho nền văn
hóa hiện có” [96, tr.167].
Đầu thế kỷ XX, cùng với công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai
(1919 - 1929), tăng cường bóc lột thuộc địa, chính quyền thực dân bắt đầu tấn
cơng mạnh vào tính chất tự trị, khép kín của làng xã, khơng phải vì muốn cải
thiện đời sống của nhân dân mà muốn bằng một bộ máy mới, đưa giai cấp địa
chủ đã được tân học hóa lên nắm quyền cai trị, gắn kết chặt chẽ việc cai trị ở
làng xã với hệ thống cai trị của chính quyền thực dân. Từ đây, làng xã Việt
Nam gắn với hương ước mới do thực dân Pháp đề ra, đó là hương ước cải
lương, chú trọng việc loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà, tốn kém trong tục lệ



14
làng, xã vì vậy, nhìn bề nổi, có vẻ theo chiều hướng tích cực.
Trước những điều kiện lịch sử trên ở Việt Nam đã diễn ra cuộc đụng độ,
giao thoa với văn hóa phương Tây. Đối tượng trực tiếp tiếp xúc là đội ngũ trí
thức. Cịn ở các làng q thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Trí thức những
người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử
khác nhau: Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây. Chấp nhận
sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hố
Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa. Chủ động tích cực giao lưu
với văn hố Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc. Tuy nhiên trong giai đoạn
1897 – 1945 là giai đoạn trí thức Việt Nam chủ động tiếp nhận văn hóa
phương Tây, đồng thời cũng nhìn ra được những điểm hạn chế trong văn hóa
Việt Nam, từ đó có định hướng cho hoạt động của mình.
Về mặt tư tưởng Nho giáo tuy được phục hồi làm quốc giáo từ thời nhà
Nguyễn nhưng nó đã đến hồi suy tàn, khơng cịn đủ khả năng đáp ứng u cầu
phát triển văn hóa trước ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đó là lý do trí
thức cần tiếp thu tư tưởng mới truyền bá vào Việt Nam, chỉ có thay đổi tư
tưởng mới thay đổi được hành động.
Khởi đầu quá trình thâm nhập của văn hóa phương Tây mà chủ yếu là
Pháp và cũng là khởi đầu thời kỳ văn hóa hội nhập vào nền văn hóa nhân loại.
Tuy nhiên trên thực tế Pháp khơng hồn tồn đạt được mục đích của mình, mà
đây là thời kỳ khởi đầu q trình tiếp xúc, giao lưu văn hố phương Tây
(Pháp), lực lượng trí thức Việt Nam đi tiên phong trong lĩnh vực này. Nét nổi
bật ở giai đoạn này là trí thức Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã
tạo nên những biến đổi nền văn hóa Việt Nam.
Văn hóa tinh thần lối tư duy phân tích của người phương Tây đã bổ sung
cho lối tư duy tổng hợp truyền thống. Ý thức về vai trò cá nhân được nâng
cao dần bổ sung vào ý thức cộng đồng. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng
của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại



15
văn học mới có nguồn gốc phương Tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan
điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán,
phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Sự thay đổi đó đã tạo thêm sức
mạnh cho dân tộc Việt Nam đứng lên tự giải phóng khởi ách thống trị thực
dân, vươn tới chân trời tri thức nhân loại.
1.2. Khái quát chung về trí thức Việt Nam (1897 - 1945)
1.2.1. Khái quát chung về trí thức
1.2.1.1. Khái niệm trí thức
Có nhiều quan điểm khác nhau về trí thức. Các khái niệm về trí thức ln
có sự thay đổi cùng với sự thay đổi của hồn cảnh lịch sử và hầu như vẫn
chưa có khái niệm nào bao quát hết tất cả nội hàm của khái niệm trí thức. Mặc
dù đây là lực lượng xã hội tồn tại xuyên suốt trong tiến trình lịch sử thế giới
nói chung và lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng. Thường để xác định trí thức,
người ta căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản: có trình độ học vấn, chun mơn cao
và hoạt động trí óc trong các lĩnh vực khoa học để phân biệt với người lao
động bằng chân tay và trí thức là một tầng lớp chứ không phải là một giai cấp
trong xã hội.
Quan niệm trên thế giới về trí thức:
Ở Nga, người ta gọi trí thức (Intelligentsia) là “những người dấn thân
cho cơng cuộc Tây phương hóa ở nước Nga” như vậy nghĩa của từ này xuất
phát từ tiếng La tinh, có nghĩa là: trí tuệ, thơng minh, sự hiểu biết. Theo Marx,
trí thức là những người có kiến thức dồi dào và có chính kiến trước các vấn đề
chính trị xã hội”. Cịn nói rõ hơn: “Trí thức ngồi khả năng sáng tạo, còn
phải dám phê phán thẳng thừng mọi thứ cần phê phán, không lùi bước trước
mọi kết luận, không đụng chạm dù đụng chạm đến quyền lực nào”. Xác định
khái niệm trí thức, Lê nin đặc biệt chú ý đến đặc điểm lao động trí óc của họ:
“Tơi dịch” người trí thức, tầng lớp trí thức theo ngữ nghĩa Đức là Literat,
Literatentum, bao gồm không chỉ các nhà văn học mà là tất cả những người



16
có văn hóa, những người làm nghề tự do, những đại biểu lao động của trí óc
(brain worker, như người Anh nói) để phân biệt những đại biểu lao động
chân tay” [87, tr.9]. Đồng thời, Lê nin cũng chú ý đến đặc điểm xã hội của
của trí thức, trí thức khơng phải là một giai cấp có địa vị kinh tế độc lập cũng
như không phải là một lực lượng chính trị có ý thức hệ riêng, mà xem trí thức
như một lực lượng trung gian gắn kết giữa giai cấp tư sản với công nhân làm
thuê. Tuy nhiên, do hồn cảnh tác động, đa số trí thức thức có mối liên hệ
chặt chẽ với công nhân hơn là với tư sản. Do đó Lê nin đánh giá cao vai trị và
vị trí của đội ngũ trí thức trong lịch sử: “Trí thức được gọi là trí thức vì giác
ngộ hơn, kiên quyết hơn, phản ánh và thể hiện đầy đủ hơn lợi ích giai cấp của
các nhóm chính trị trong toàn bộ xã hội” [87, tr.10].
Ở Pháp trong thế kỷ XIX, những người được gọi là trí thức (intellectuel)
phải là “những người khơng chỉ có trình độ học vấn hay trình độ chun mơn
cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm và có chính kiến trước những
vấn đề chính trị- xã hội nóng bỏng của thời cuộc” [56, tr.13].
Trong từ điển Anh “Trí thức (Intellectual) là người làm việc với lý thuyết
và nguyên tắc hơn là thực hành, lý thuyết của họ thường liên quan đến những
vấn đề trừu tượng, họ xa rời thế giới và họ chủ yếu thuộc giới dạy học và văn
hóa. Những người ít chú ý đến thú vui tầm thường” (chỉ giới hạn ở thầy, cơ,
những nhà văn hóa, văn nghệ, nhà tư tưởng).
Ở Trung Quốc, Khổng Tử nói: “Nho sĩ phải là người đủ ba phẩm chất:
có trách nhiệm cao, có lòng tự trọng và dũng cảm”. Học giả Hồ Thu Nguyên,
“Trí thức là hiểu trước, biết sau, rồi đem sự học hỏi của mình cống hiến cho
tiến bộ nhân loại, xã hội, dân tộc”.
Thời kỳ tư bản, xuất hiện các nhóm trí thức, đại biểu cho quan điểm,
quyền lợi của các giai cấp khác nhau. Trong xã hội tư bản, trí thức tư sản là trí
thức của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, một số trí thức tư sản sớm nhận thức

được quy luật lịch sử nên đã rời bỏ quan điểm của giai cấp xuất thân để


17
chuyển sang hàng ngũ giai cấp vô sản.
Quan niệm ở Việt Nam về trí thức:
Ở Việt Nam thời phong kiến, trí thức là sản phẩm của nền giáo dục Nho
học, đào tạo theo mơ hình giáo dục Trung Hoa, được gọi là trí thức Nho học.
Theo tư tưởng Nho giáo: sĩ để chỉ văn (sau khi Nho gia vào Việt Nam, từ đó
sĩ biến thành Nho sĩ, kẻ sĩ. Kẻ sĩ chính là người quân tử, “Quân tử lao tâm,
tiểu nhân lao lực”. Trong xã hội phong kiến, vị thế Nho sĩ được đánh giá cao,
đứng đầu trong tứ dân (Sĩ, nơng, cơng, thương). Trong đó thứ tự trí thức: Nho,
y, lý, số (nhà Nho, thầy thuốc, nhà địa lý, người xem tướng số)
Đến thời trị vì của nhà Lê, quan điểm về trí thức ở Việt Nam xuất hiện rõ
hơn, trên trên tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, Thân Nhân Trung
có phản ánh để nói về ý nghĩa của khoa thi Hội năm 1442: “Hiền tài là
ngun khí quốc gia, ngun khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn,
ngun khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống thấp”.
Trong tác phẩm “Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây
thời Pháp thuộc” Trần Viết Nghĩa đã chia trí thức Nho học thành 3 bộ phận:
Một là,“Trí thức quan phương” đây là những trí thức đỗ đạt cao, được bổ vào
quan trong triều đình, có địa vị nhất định trong xã hội và được hưởng nhiều
bổng lộc đồng thời được xem là rường cột của nhà nước phong kiến; hai là
“Trí thức ở ẩn” đó là những người từng đỗ đạt nhưng không ra làm quan
hoặc từng làm quan nhưng chán ghét triều chính nên đã quay về ở ẩn, điển
hình như Nguyễn Khuyến…; ba là “Trí thức bình dân” đây là bộ phận chiếm
số lượng đông đảo nhất, làm nghề dạy học, bốc thuốc… như Nguyễn Đình
Chiểu… Tuy nhiên, sự phân định này chỉ mang tính chất tương đối, vì một
người có thể thuộc ở cả hai hoặc ba bộ phận, tùy theo từng giai đoạn.
Đến thời kì Pháp thuộc, bên cạnh trí thức Nho học đã xuất hiện từ trước

thì ở Việt Nam đã hình thành thêm bộ phận trí thức Tân học (Tây học). Trí
thức Tân học là sản phẩm của nền giáo dục Pháp đưa vào Việt Nam. Bộ phận


18
trí thức Tân học được tiếp nhận kiến thức mới và tiến bộ hơn so với trí thức
Nho học, họ đóng vai trị quan trọng trong cơng cuộc giành độc lập dân tộc và
xây dựng đất nước sau này.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Một người học xong đại học, có thể gọi là trí
thức. Song y khơng biết cày ruộng, khơng biết làm cơng, khơng biết đánh
giặc… Nói tóm lại: cơng việc thực tế, y khơng biết gì cả. Thế y chỉ có trí thức
một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hồn tồn. Y
muốn trở thành người trí thức hồn tồn, thì phải đem những trí thức đó áp
dụng vào thực tế” [71, tr.235].
Trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đưa ra nghị
quyết về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, trong đó có đưa ra quan điểm về trí thức: “Trí thức là
những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chun mơn
nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức, tạo những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [74].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2005 “Trí thức là tầng
lớp xã hội làm nghề lao động trí óc, trong đó bộ phận chủ yếu là những người
có trình độ học vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng
tạo và phát minh… Trí thức nói chung thường nhạy cảm với cái mới, tiếp thu
và truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ trong nhân dân, có vai trị
rất lớn đối với sự phát triển của lịch sử, nhất là trong thời đại cách mạng
khoa học và công nghệ ngày nay” [56, tr.12-13].
Xuất phát từ cách nhìn cũng như là phương pháp tiếp cận khác nhau mà
nhiều người đã đưa ra những quan điểm khác nhau về trí thức. Cho đến thời
điểm hiện nay có khoảng 100 khái niệm khác nhau về trí thức. Nhưng tựu

trung lại, để xác định trí thức người ta thường căn cứ vào hai yếu tố cơ bản:
- Thứ nhất, đó là người có trình độ học vấn và chun mơn.
- Thứ hai, tham gia hoạt động ở các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật.


19
Như vậy, có thể thấy trí thức là khái niệm dùng để chỉ một phận người
trong xã hội có trình độ học vấn vấn và chuyên môn nhất định; đồng thời phải
biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn, phục vụ cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.1.2. Cơ sở hình thành
* Truyền thống hiếu học của dân tộc
Một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ nghìn đời
nay đó là truyền thống hiếu học và có thể khẳng định rằng cùng với chủ nghĩa
yêu nước và nhân văn thì hiếu học đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đồng thời cũng chính là một trong những cơ sở cho sự hình thành nên đội
ngũ trí thức Việt Nam.
Một trong những biểu hiện đầu tiên của truyền thống hiếu học đó là tinh
thần ham học hỏi, khơng ngừng cầu tiến. Một người được xem là hiếu học là
người không ngừng học hỏi, không ngừng cầu tiến. Bởi sự hiểu biết của con
người nhỏ bé như một hạt cát giữa một sa mạc rộng mênh mông và tinh thần
ham học hỏi chính là động lực thơi thúc con người ln phấn đấu tiếp thu
những thành tựu tiến bộ của nhân loại.
Với tinh thần “Học nhi bất yếm, Hối nhân bất quyện” (tức là học không
biết chán, dạy người không biết mệt mỏi), trên mảnh đất Việt Nam đã sản sinh
ra biết bao thế hệ ông cha làm rực rỡ non sông đất nước như: Lý Công Uẩn, Lê
Văn Thịnh, Chu Văn An, Lương Thế Vinh, Quang Trung, Nguyễn Thiếp,
Nguyễn Ái Quốc, Ngơ Bảo Châu…và rất nhiều những trí thức nổi danh khác
đã góp phần làm nên những trang sử vàng của dân tộc Việt Nam. Rõ ràng dù
trong bất kì hồn cảnh nào, người Việt vẫn luôn coi trọng việc học, họ quan

niệm rằng chỉ có học mới có thể thay đổi cuộc đời, chỉ có học hành, đỗ đạt mới
làm rạng rỡ tổ tơng và cũng chỉ có học mới có thể đóng góp sức mình cho q
hương, đất nước. Trong lịch sử dân tộc cũng ghi nhận nhiều tấm gương hiếu
học, dù hồn cảnh khó khăn khơng được đến trường nhưng với tinh thần tự học,


20
nhiều người đã đỗ đạt cao như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi…
Từ đó hình thành nên truyền thống “tơn sư trọng đạo”, “nhất tự vi sư,
bán tự vi sư” (một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy). Người thầy là hình
mẫu của sự tơn kính, lời thầy dạy là khn vàng thước ngọc cho các học trị,
cho nên mới có câu “không thầy đố mày làm nên”. Lịch sử dân tộc Việt Nam
đã sản sinh ra biết bao thế hệ thầy cô giáo, đào tạo nên biết bao thế hệ học trò
đã làm rạng danh đất nước. Nhà giáo Chu Văn An – một vị quan yêu nước,
thương dân, một người thầy mẫu mực, người đã đào tạo nên những học trò
nổi danh như Phạm Sư Mạnh… Hay Nguyễn Ái Quốc - người thầy yêu nước
cách mạng, đã đào tạo ra một thế hệ học trò làm rạng rỡ non sông Việt Nam
như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Võ Nguyên Giáp…
Như vậy, chính truyền thống hiếu học đã sản sinh ra những trí thức đầu tiên
của dân tộc, cũng có thể xem đây là cơ sở sớm nhất cho sự ra đời của đội ngũ trí
thức, ngay từ khi nền giáo dục Nho học chưa ra đời. Ở nước ta, bộ phận trí thức
đầu tiên xuất hiện như một đại biểu của truyền thống hiếu học dân tộc, tiếp nối
tinh thần học tập của gia đình. Trong đình thơn Hương Lan (tỉnh Phú Thọ) còn
lưu lại bản ngọc phả do Đơng các đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm 1573
thời Hậu Lê, đã cung cấp tư liệu về truyền thống hiếu học của gia đình họ
Vũ:“Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Cơng thuộc
gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, hai người phải tìm về kinh đơ Phong Châu,
tới thơn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng cấp cho họ ruộng đất để trả công
dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công hạ sinh được một người con trai là Vũ Thê Lang.
Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm thăm người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất

Đông Ngàn, Kinh Bắc. Nguyễn Cơng gả cho Vũ Thê Lang người con gái của
mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tằm tơ, canh cửi. Khi
cha chết Vũ Thế Lang tiếp tục theo cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề
nông tang canh cửi, được nhân dân rất quý mến…” [80, tr.20].
* Nền giáo dục Nho học đào tạo đội ngũ trí thức


×