Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Các giải pháp áp dụng cho các công ty xuất nhập khẩu vừa và nhỏ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.92 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Chương 1 : GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG TY SẢN XUẤT VÀ
XUẤT KHẨU 4
1.1. Giới thiệu chung về công ty 4
1.2. Quá trình thành lập 4
1.3. Cơ cấu tổ chức 4
1.4. Các sản phẩm chính 4
1.5. Thị trường 4
1.6. Tầm nhìn 4
1.7. Sứ mệnh 4
Chương 2 : MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI 6
2.1. MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ VIỆT NAM 6
2.1.1. Môi trường tự nhiên 6
2.1.1.1. Vị trí địa lý 8
2.1.1.2. Địa hình 8
2.1.1.3. Khí hậu 8
2.1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên 8
2.1.1.5. Tình hình khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên 8
2.1.1.6. Vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường 8
2.1.2. Môi trường dân số 8
2.1.2.1. Dân số 9
2.1.2.2. Văn hóa 9
2.1.3. Môi trường kinh tế 9
2.1.3.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 9
2.1.3.2. Lãi suất 9
2.1.3.3. Tỷ lệ lạm phát 9
2.1.3.4. Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam 9
2.1.3.5. Tỷ giá hối đoái 9
2.1.3.6. Hệ thống thuế ở Việt Nam 9
2.1.4. Môi trường chính trị, pháp luật 9


2.1.5. Môi trường công nghệ 9
2.2. MÔI TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI 9
2.2.1. Điều kiện tự nhiên 9
2.2.2. Các yếu tố văn hóa, xã hội 9
2.2.2.1. Dân số 9
2.2.2.2. Văn hóa 9
2.2.3. Tổng quan về kinh tế 9
2.2.4. Quy mô thị trường đồ nội thất và các quy định khi xâm nhập thị trường EU 9
2.2.4.1. Quy mô thị trường đồ nội thất EU 9
2.2.4.2. Quy định thuế quan và hạn ngạch 9
2.2.4.3. Quy định đối với hàng rào phi thuế quan 9
1
Tổng kết đánh giá những cơ hội và nguy cơ từ môi trường nước ngoài đối với hoạt
động của công ty 9
2.1.3.2. Lãi suất 9
2.1.3.2. Lãi suất 9
2.1.3.2. Lãi suất 9
2.3. MÔI TRƯỜNG VI MÔ 9
2.3.1. Nhà cung ứng 9
2.3.1.1. Cung ứng nguyên vật liệu mây tre 9
2.3.1.2. Cung ứng lao động 9
2.3.1.3. Cung ứng máy móc thiết bị 9
2.3.2. Đối thủ cạnh tranh 9
2.3.2.1. Đối thủ cạnh tranh trong nước 9
2.3.2.2. Đối thủ cạnh tranh nước ngoài 9
2.3.3. Khách hàng 9
2.3.3.1. Nhà nhập khẩu trực tiếp tại Đức 9
2.3.3.2. Người tiêu dùng tại thị trường châu Âu 9
2.3.4. Sản phẩm thay thế 9
Tổng kết đánh giá những cơ hội và nguy cơ từ môi trường vi mô ngành đối với hoạt

động của công ty Tre Làng 9
2.3.1. Nhà cung ứng 9
2.3.1. Nhà cung ứng 9
Chương 3 : MÔI TRƯỜNG BÊN TRONG 10
3.1. Các hoạt động chủ yếu 10
3.1.1. Các hoạt động đầu vào 11
3.1.2. Quá trình vận hành 12
3.1.2.1. Máy móc thiết bị 12
3.1.2.2. Quy trình sản xuất 12
3.1.2.3. Kiểm tra chất lượng sản phẩm 12
3.1.2.4. Bảo vệ môi trường 12
3.1.3. Các hoạt động đầu ra 12
3.1.3.1. Hoạt động tồn kho sản phẩm 12
3.1.3.2. Xử lý các đơn đặt hàng 13
3.1.3.3. Vận chuyển và giao nhận sản phẩm 12
3.1.4. Marketing và bán hàng 12
3.1.4.1. Nghiên cứu thị trường 12
3.1.4.2. Sự trung thành của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty Tre Làng12
3.1.4.3. Xúc tiến bán hàng 12
3.1.5. Dịch vụ 12
3.2. Các hoạt động hỗ trợ 14
3.2.1. Quản trị tổng quát 14
3.2.2. Quản trị nhân sự 14
3.2.3. Phát triển công nghệ 14
3.2.4. Thu mua 14
3.2.4.1. Vùng nguyên liệu 14
2
3.2.4.2. Hình thức thu mua 14
3.2.4.3. Yêu cầu đối với nguyên liệu 14
3.2.4.4. Phát triển các phương án cung ứng nguyên vật liệu 14

3.3. Tình hình kinh doanh của công ty Tre Làng 15
Tổng kết đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của môi trường bên trong công ty
Tre Làng 15
Chương 4 : HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CHO CÔNG TY SẢN
XUẤT VÀ XUẤT KHẨU, GIAI ĐOẠN 2010-2020 17
3
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế, ngày càng nhiều quốc gia tham gia vào
các tổ chức quốc tế, các quốc gia cùng nhau ký các hiệp định hợp tác song phương, đa
phương với nhau để cùng phát triển. Trong xu thế đó, Việt Nam đã không ngừng nỗ
lực để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hiện nay chúng ta đã ký kết trên một trăm
hiệp định song phương và đa phương, trong đó quan trọng nhất phải kể đến là hiệp
định thương mại Việt – Mỹ. Hiệp định này đã khẳng định rằng Việt Nam luôn mong
muốn chuyển đổi nền kinh tế thông thoáng minh bạch hơn, mở rộng cơ hội vì tự do
kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực, hội nhập với nền kinh tế thế giới.Việc ký kết
thành công hiệp định đã và đang tạo ra cho chúng ta hàng loạt cơ hội, thời cơ đẩy
nhanh xúc tiến thương mại với Mỹ - một cường quốc đứng đầu thế giới, Mỹ là quốc
gia có nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, Mỹ chi phối hoạt động và các quyết định của
nhiều tổ chức quốc tế có uy tín như WTO, WB, IMF, ADB,… cho nên ký được hiệp
định với Mỹ thì sự ảnh hưởng của các tổ chức trên đối với Việt Nam sẽ nhiều hơn và
thuận lợi hơn. Tuy nhiên hiệp định thương mại Việt – Mỹ cũng tạo ra không ít khó
khăn, thách thức cho nền kinh tế Việt Nam, cũng như nền thương mại Việt Nam. Hiệp
định thương mại Việt – Mỹ là một bước đi quan trọng trong tiến trình bình thường hoá
quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
4
1. Vài nét về quan hệ kinh tế-chính trị-xã hội giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
1.1. Từ 1975 đến 1996
Sau khi Mỹ thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam vào ngày 30/4/1975,
mỹ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam kéo dài trong 15 năm.
- 3/2/1994: Chính phủ Mỹ tuyên bố bả cấm vận buôn bán với Việt Nam.

- 11/7/1995 Tổng thống Mỹ tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam.
- 5/8/1995 Bộ trưởng Ngại giao Mỹ sang thăm Việt Nam.
- 10/1995 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam dự lễ kủ niệm 50 năm thành lập
Liên Hiệp quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiềuquan chức cao cấpcủa
chính quyền Mỹ, Hội đồng thương mại Mỹ tổ chức “Hội nghị về bình thường hoá
quan hệ, bước tiếp theo trong quan Việt – Mỹ.
- 11/1995 đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt Nam tìm hiểu hệ thống luật lệ thương mại
đầu tư của Việt Nam.
- 4/1996 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản “những yếu tố bình thường hóa quan hệ
kinh tế thương mại Việt Nam.
- 7/1996 Việt Nam trao cho Mỹ văn bản “Năm nguyên tắc bình thường hóa quan
hệ kinh tế- thương mại và đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”
- 9/1996 bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định thương mại song phương.
Theo các nhà thương thuyết quốc tế của Việt Nam: Hiệp định thương mại Việt –
Mỹ được đàm phán thương mại song phương của Việt Nam, kéo dài 4 năm từ tháng
7/1996 đến tháng 7/2000.
1.2. Từ 1996 đến nay
- Sau hơn một năm đàm phán, trong năm 1997 hai nước đã ký thoả thuận giải
quyết nợ cũ của Việt Nam (tổng cộng khoảng gần 150 triệu USD do chính quyền nguỵ
vay nợ trước đây) và Hiệp định về Bảo vệ quyền tác giả. Tháng 3 năm 1998, lần đầu
tiên Tổng thống Hoa Kỳ quyết định miễn áp dụng Điều luật bổ sung Jackson - Vanik
đối với Việt Nam. Theo xu hướng đó, hai nước đã trao đổi và đi đến thoả thuận về
hoạt động của Cơ quan Đầu tư tư nhân ở hải ngoại (tháng 3 năm 1998) và của Ngân
hàng xuất nhập khẩu Hoa Kỳ (tháng 12 năm 1999).
- Đặc biệt là sau bốn năm với mười vòng đàm phán, ngày 13 tháng 7 năm 2000,
Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp định Thương mại song phương (BTA).
- Tháng 12 năm 2001chuyến thăm Hoa Kỳ của Phó Thủ tướng Thường trực
Nguyễn Tấn Dũng ở Thủ đô Washington.
- Cuối năm 2004, kiều bào ta định cư ở Hoa Kỳ cũng như hành khách Mỹ có thể

bay thẳng từ San Francisco - một thành phố ở miền Tây của Hoa Kỳ - về Thành phố
Hồ Chí Minh và ngược lại bằng máy bay của hãng United Airlines.
5
- Sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong mối bang giao giữa hai nước trong
10 năm qua là chuyến đi thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton năm
2000.
- Cùng với sự phát triển của quan hệ chính trị, kinh tế- thương mại, quan hệ quân
sự- mối quan hệ nhạy cảm nhất giữa hai nước- cũng từng bước phát triển. Mốc khởi
đầu có ý nghĩa phải kể đến chuyến thăm của Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Trần Hanh
vào tháng 10 năm 1998. Tiếp đó là chuyến thăm Việt Nam vào tháng 3 năm 2000 của
ông William Cohen, được coi là chuyến thăm nước Việt Nam thống nhất đầu tiên của
một Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Đáp lại chuyến thăm ấy, Bộ trưởng Quốc phòng
nước ta Phạm Văn Trà đã thăm chính thức Hoa Kỳ tháng 11 năm 2003. Từ các chuyến
thăm ấy, hai bên đã thoả thuận được việc các đoàn quân sự thăm qua lại lẫn nhau, việc
cùng khắc phục hậu quả chiến tranh, cứu hộ, cứu nạn,qua đó góp phần tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa quân đội hai nước.
- Bên cạnh đó, hai bên vẫn còn tồn tại những bất đồng về vấn đề dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo cũng như những tranh chấp thương mại mới nảy sinh gần đây… Đây
cũng là các diễn biến thường xẩy ra trong quá trình phát triển quan hệ giữa hai quốc
gia có sự khác biệt về văn hóa, chế độ chính trị, trình độ phát triển, đặc biệt về đặc
điểm lịch sử như Việt Nam và Hoa Kỳ. Điều quan trọng là hai bên thiết lập được cơ
chế đối thoại để tạo hiểu biết và đáp ứng quan tâm của nhau.
- Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, hàng ngàn sinh viên, nghiên cứu sinh của Việt
Nam sang Hoa Kỳ học tập, nghiên cứu, ngược lại, cũng có không ít sinh viên và giáo
sư từ Hoa Kỳ sang Việt Nam theo các chương trình trao đổi giáo dục của Quỹ Ford,
Quỹ Fulbright, Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF).
- Sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, hai nước còn bắt đầu mối quan hệ hợp
tác chống khủng bố. Trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ tháng 12 năm 2003, Phó
Thủ tướng Vũ Khoan đã chứng kiến lễ ký thoả thuận giữa hai chính phủ về hợp tác
chống ma tuý. Ngày 2 tháng 4 năm 2004, Hạ viện Hoa Kỳ đã chính thức ra mắt Nhóm

nghị sĩ hữu nghị Hoa Kỳ- Việt Nam.
- Ngày 23-6-2004: Tổng thống George W. Bush chọn VN vào danh sách 15 nước
được ưu tiên nhận viện trợ trong khuôn khổ kế hoạch cứu trợ AIDS khẩn cấp trị giá 15
tỉ USD (VN là quốc gia duy nhất ở châu Á) giai đoạn 2004 - 2008.
- Ngày 19 đến 26-6-2005: Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức Hoa Kỳ
theo lời mời của Tổng thống George W. Bush.
- 8-12-2006: Hạ viện Hoa Kỳ thông qua Quy chế quan hệ thương mại bình
thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam.
- 9-12-2006: Thượng viện Hoa Kỳ thông qua PNTR với Việt Nam.
- 24-6-2008: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viếng thăm thủ đô Washington mở
rộng thêm mối quan hệ giữa hai nước.
2. Hiệp định thương mại Việt Mỹ
2.1. Các nguyên tắc đàm phán và ký kết hiệp định
6
Theo tinh thần Chỉ thị của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ thể hiện trong Hiệp định được dựa trên
nguyên tắc cơ bản:
- Tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ
của mỗi nước, bình đẳng cùng có lợi.
- Việc Hoa Kỳ và Việt Nam dành cho nhau quy chế đãi ngộ tối huệ quốc không
phải chỉ đem lại lợi ích cho phía Việt Nam mà còn có cho cả phía Hoa Kỳ, cho các
công ty Hoa Kỳ.
- Việt Nam tôn trọng các luật lệ và tập quán quốc tế, sẽ từng bước điều chỉnh, bổ
sung các luật lệ, cơ chế của mình theo hướng đó, phù hợp với mức độ phát triển của
nền kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam.
- Việt Nam chấp nhận tuân thủ các quy định của Hiệp định về Thương mại và
Thuế quan/ Tổ chức thương mại thế giới GATT/WTO, nhưng sẽ thực hiện từng bước
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế có vận dụng những ngoại lệ dành cho một
nước đang phát triển có thu nhập thấp
- Việt Nam là nước đang phát triển, đang chuyển đổi nền kinh tế, do đó có quyền

được hưởng sự hỗ trợ của các nước phát triển, trong đó có Hoa Kỳ. Những nội dung
mà Hoa Kỳ không đặt ra với các nước khác thì không được đòi hỏi Việt Nam phải đáp
ứng.
- Những nguyên tắc trên cụ thể hóa chủ trương của ta trong quá trình hội nhập
với nền kinh tế thế giới do Đại hội Đảng lần thứ VIII đề và là cơ sở để định ra các
phương án thương lượng về Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.
2.2. Tiến trình ký kết
Quá trình cải thiện quan hệ kinh tế giữa hai nước và đi đến ký kết Hiệp định
Thương mại Việt – Mỹ đã diễn ra từ sau khi Chính phủ Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận kinh
tế đối với Việt Nam vào ngày 3/2/1994.
Trong vòng hai năm sau đó, những cuộc gặp cấp cao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
đã giúp hai Bên cải thiện tình hình quan hệ và đi đến quyết định đàm phán để ký kết
một hiệp định thương mại song phương nhằm tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế
thương mại giữa hai nước phát triển thuận lợi.
Quá trình đàm phán hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ bắt đầu từ tháng 9/1996 và kéo dài trong 4 năm, trải qua 11 vòng, cụ thể như sau:
Vòng 1: từ 21/9/1996 đến 26/9/1996 tại Hà Nội. Trong vòng này chủ yếu đôi
Bên trao đổi các thông tin, tìm hiểu cơ chế thương mại của nhau.
Vòng 2: từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội.
Vòng 3: Từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 tại Hà Nội. Tại vòng đàm phán thứ hai và
thứ ba, phía Mỹ đã soạn thảo và trao cho phía Việt Nam bản dự thảo tổng thể Hiệp
định Thương mại Việt – Mỹ gồm bốn chương: Thương mại, Sở hữu trí tuệ, Đầu tư và
Dịch vụ theo quan điểm mở cửa tự do hoàn toàn. Bản dự thảo này áp dụng các quy
7
định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dành cho các nước đã phát triển. Nước
ta không nhất trí và nêu rõ trong quan điểm của mình "Việt Nam chỉ ký Hiệp định
Thương mại với Mỹ trên cơ sở các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
áp dụng đối với nước đang phát triển ở trình độ thấp". Với quan điểm đó chúng ta xây
dựng bản dự thảo của mình.
Vòng 4: từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington. Tại vòng đàm phán này,

phía Việt Nam đưa ra bản dự thảo với cam kết sẽ mở cửa thị trường, theo đó thời hạn
bảo hộ dài nhất cho một số chủng loại hàng hóa và dịch vụ là năm 2020.
Vòng 5: từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington. Trước vòng đàm phán này,
các nhà đàm phán Việt Nam đã thiết kế lại bản dự thảo Hiệp định mới theo nguyên tắc
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) áp dụng cho các nước có trình độ phát triển
thấp.
Vòng 6: từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội.
Vòng 7: từ 15/3/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội. Tại hai vòng đàm phán 6 và 7,
các Bên tiếp tục trao đổi về các vấn đề quan trọng chưa đi đến nhất trí trong các vòng
đàm phán trước, như: phát triển quan hệ đầu tư, thương mại dịch vụ, thương mại hàng
hóa và sở hữu trí tuệ.
Vòng 8: từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington.
Vòng 9: từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, trong cuộc họp cấp Bộ trưởng,
hai nước đã thông báo thỏa thuận trên nguyên tắc những nội dung mà Hiệp định
Thương mại đã đạt được.
Vòng 10: từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington.
Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington. Sau khi đàm phán xong những vấn đề cuối
cùng trong lĩnh vực viễn thông và rà soát lại một lần nữa toàn văn bản Hiệp định, ngày
13/7/2000, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã được ký kết tại Washington. Đại diện
cho phía Việt Nam là Bộ trưởng Vũ Khoan, đại diện cho phía Mỹ là bà Charlene
Barsefsky. Tham dự lễ ký kết có Đại sứ hai nước (Đại sứ Lê Văn Bàng và Đại sứ
Peterson), trưởng hai đoàn đàm phán (Ông Trần Đình Lương và Ông Joseph Diamond)
và nhiều quan chức khác.
Cuối tháng 1/2001, góp phần thúc đẩy việc sớm ký kết hiệp định, gần 200 doanh
nghiệp Mỹ đang có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam đã ký tên gởi kiến nghị lên
chính quyền mới của Mỹ - Chính quyền của Tổng thống Bush - đề nghị đưa Hiệp định
Thương mại Việt – Mỹ thông qua ở Quốc hội Mỹ, họp trong tháng 3/2001.
Cuối năm 2001, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam thông qua và chính thức có hiệu lực sau tuyên bố của Phó Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng - thay mặt Chính phủ Việt Nam, cùng với đại diện Chính phủ

Mỹ diễn ra vào ngày 11/12/2001 tại Washington.
Sở dĩ Hiệp định được đàm phán lâu như vậy vì:
- Quy mô của Hiệp định lớn.
8
- Lịch sử quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ phức tạp và có nhiều điểm
nhạy cảm về chính trị và chính kiến
- Hai nước có nhiều điểm khác nhau về kinh tế, về trình độ phát triển, về chế độ
chính trị, cơ chế kinh tế… Mỹ có nền kinh tế thị trường mở, tự do thương mại lâu đời,
nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổisang nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Sự đàm phán lâu dài nhằm làm cho Hiệp định chứa đựng được nguyện vọng và
lợi ích của cả hai phía Việt Nam và Mỹ.
2.3. Vai trò của hiệp định
2.3.1. Điểm giống và khác giữa hiệp định Việt Mỹ và các hiệp định song phương
khác mà ta đã ký
Cho đến thời điểm này Việt Nam đã ký Hiệp Định Thương mại với trên 100 quốc
gia và khu vực lãnh thổ, nhưng Hiệp Định Thương Mại Việt – Mỹ là Hiệp Định đặt
biệt so với các Hiệp Định Thương Mại khác thể hiện qua bảng sau đây:
2.3.2. Vai trò của hiệp định đối với nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam đã ký Hiệp Định Thương Mại với gần 170 quốc gia và khu vực lãnh
thổ, nhưng việc ký kết Hiệp Định Thương Mại Việt – Mỹ tại thủ đô Washington ngày
13/7/2000 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì những lý do sau:
Đây là Hiệp Định đầu tiên chúng ta đàm phán theo tiêu chuẩn của Tổ Chức
Thương Mại Thế Giới (WTO). Rất nhiều nội dung của Hiệp định Thương Mại Việt –
Mỹ gần giống như Hiệp Định của tổ chức WTO mà Việt Nam tiến hành đàm phán để
9
Tiêu thức so sánh
Hiệp Định Thương Mại Việt –
Mỹ
Các Hiệp Định

Thương Mại song
phương khác
1. Cơ sở đàm phán Dựa vào các tiêu chuẩn của WTO Dựa vào các tập qáun
thương mại quốc tế phổ
biến
2. Tính khái quát
của Hiệp Định
Vừa mang tính tổng hợp, vừa
mang tính chi tiết: có các chương,
mỗi chương có nhiều điều khoản
và phụ lục kèm theo
Mang tính tổng hợp cao,
không có các cam kết
thực hiện cụ thể
3. Nội dung Hiệp
Định
Không chỉ đề cập đến thương mại
mà còn đề cập đến các vấn đề có
liên quan trực tiếp đến thương
mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ…
Chỉ đề cập đến quan hệ
thương mại song
phương
4. Lộ trình thực
hiện Hiệp Định
Cụ thể và rõ ràng Không có lộ trình thực
hiện
5. Cơ quan giám sát
thi hành Hiệp Định

Có cơ quan giúp triển khai và thi
hành Hiệp Định
Không có
xin gia nhập. Cho nên có những nhà nghiên cứu có uy tín cho rằng: Ký được Hiệp
Định Thương Mại với Mỹ là Việt Nam đã đặt được nửa bàn chân vào Tổ Chức
Thương Mại Thế Giới (WTO), đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế
giới nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, Mỹ chi phối hoạt động và
các quyết định của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín như WTO, WB, IMF, ADB,… cho
nên ký được Hiệp Định với Mỹ thì sự ảnh hưởng tích cực của các tổ chức trên đối với
nền kinh tế Việt Nam sẽ nhiều hơn và thuận lợi hơn.
Mỹ là thị trường lớn nhất thế giới (chiếm khoảng 18% tổng thương mại của thế
giới), hàng năm thị trường Mỹ nhập khẩu khoảng gần 1300 tỷ USD, Hiệp Định
Thương Mại Việt – Mỹ được ký kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp
Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Hiệp Định Thương Mại Việt – Mỹ có hiệu lực sẽ góp phần làm cho hoạt động
môi trường đầu tư Việt Nam thêm hấp dẫn vì: các nhà đầu tư hoạt động tại Việt Nam
sẽ có thị trường thuận lợi với mức thuế ưu đãi khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Môi
trường pháp lý cho hoạt động đầu tư và thương mại của Việt Nam sẽ hoàn thiện theo
hướng mở mang tính hội nhập tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế kinh doanh bình đẳng.
Hiệp Định Thương Mại Việt – Mỹ có hiệu lực dài sẽ có nhiều thách thức cho nền
kinh tế Việt Nam. Vì Hiệp Định được ký dựa trên nền tảng: bình đẳng, có đi lại và hai
bên cùng có lợi, cho nên sự bất lợi thường sẽ đến nhiều hơn với bên có tiềm lực kinh
tế yếu hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu kỹ Hiệp Định để đề xuất giải pháp thực hiện có
hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3. Những nội dung chính của hiệp định
Nội dung cốt lõi của Hiệp định:
Hiệp định là văn bản đồ sộ, nó chứa đựng 4 nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về thương mại hàng hóa:

Ngay lập tức và vô điều kiện, hai bên Mỹ và Việt nam dành cho nhau quy chế tối
huệ quốc trong quan hệ thương mại với nhau
Trong thương mại hàng hóa, các doanh nghiệp Việt nam có quyền tham gia ngay
lập tức phân phối hàng hoá Mỹ nếu ta có khả năng. Còn các doanh nghiệp Mỹ theo lộ
trình về thời gian có quyền tổ chức phân phối hàng hóa tại Việt Nam.
Hàng hoá của Hoa Kỳ đưa vào Việt Nam sẽ được cắt giảm thuế nhập khẩu theo
lộ trình cam kết.
Thứ hai, về bản quyền và tài sản trí tuệ:
Về bản quyền, hai bên cam kết thực hiện Hiệp định về sở hữu trí tuệ mà các bên
đã ký trước đó
Về tài sản trí tuệ, hai bên thoả thuận thực hiện các công ước sđa phương về các
vấn đề này.
10
Thứ ba, về thương mại dịch vụ:
Hai nước sẽ mở cửa cho nhau: tạo điều kiện cho các ê5t Nam tự do kinh doanh
dịch vụ tại Mỹ và các doanh nghiệp Mỹ theo lộ trình được kinh doanh dịch vụ tại Việt
Nam.
Thứ tư, về hoạt động đầu tư:
Hai bên cam kết dành thuận lợi cho các nhà đầu tư được hoạt động kinh doanh
trên thị trường của nhau phù hợp với các thông lệ của quốc tế.
3.1. Thương mại hàng hóa
3.1.1. Các nguyên tắc thiết lập quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ theo tinh thần của Hiệp định được
thiết lập trên 2 nguyên tắc:
 Nguyên tắc quan hệ buôn bán bình thường (NTR). Hay còn gọi là Quy chế tối
huệ quốc (MFN).
Mỗi bên dành ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng hóa cò xuất xứ tại hoặc
được xuất khẩu từ lãnh thổ của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử
dành cho hàng hoá tương tự có xuất xứ tại hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bất cứ
nước thứ ba nào khác trong tất cả các vấn đề liên quan:

• Mọi loại thếu quan và phí đánh vào hoặc có liên quan đến việc nhập khẩu, bao
gồm cả các phương pháp tính các loại thuế quanvà phí đó
• Phương thức thanh tóan đối với hàng nhập kẩu và xuất khẩu, và việc chuyển
tiền quốc tếcủa các khoản thanh tón đó
• Những quy định và thủ tục liên quan đến xuất nhập khẩu,kể cả những quy
định về hoàn tất thủ tục hải quan,quá cảnh, lưu kho và chuyển tải
• Mọi loại thuế và phí khác trong nước đánh trưc tiếp hoặc trực tiếp vào hàng
nhập khẩu
• Luật quy định và các yêu cấu khác có ảnh hưởng đến việc bán,chào bán, mua,
vận tải, phấn phối, lưu kho và sử dụng hàng hóa trong thị trường nội địa
• Việc áp dụng các hạn chế định lượng và cấp giấy phép
 Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):là nguyên tắc nhằm tạo ra môi trường kinh
doanh bình đẳng cho hàng hoá nhập khẩu so với hàng hóa sản xuất trong nước.
• Mỗi bên Việt Nam và Mỹ, không bên nào được trực tiếp hoặc gián tiếp dùng
các loại thuế và phí nội địa đánh vào sản phẩm nhập khẩu từ bên kia cao hơn sao vói
mức thuế và phí mà sản phẩm nội địa phải chịu.
• Hàng nhập khẩu có xuất xứ từ đối tác phải được đối xử tương tự như hàng hóa
nội địavề luật điều tiết, các quy định, các yêu cầu khác có ảnh hưởng đến việc bán
hàng, chào hàng, mua hàng, vận tải và phân phối hàng hóa, lưu kho và sử dụng hàng.
• Bên phía Việt Nam cũng như bên phía Hoa Kỳ không được soạn thảo thêm
những quy địnhvà tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng riêng đối hàng nhập khẩu từ đối tác,
11
nhằm tạo ra trở ngại cho hoạt động nhập khẩu hoặc nhằm bảo hộ sản xuất trong
nước,vì điều này sẽ làm cho hàng nhập khẩu khó cạnh tranh hơn.
• Việc xây dựng những rào cản về kỹ thuật: tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, chất
lượng sản phẩm… quy định với hàng nhập khẩu phải phù hợp với các quy định của tổ
chức WTO và các quy định này không mang tính chất hàn chế thương mại, không quy
định cao hơn so với quy định cho sản phẩm nội địa.
3.1.2. Nghĩa vụ chung về thương mại
Các Bên nổ lực tìm kiếm nhằm đạt được sự cân bằng thỏa đáng về các cơ hội tiếp

cận thị trường thông qua việc cùng giảm thỏa đáng thuế và các hàng ràophi quan thuế
đối với thương mại hàng hóa do đàm phán đa phương mang lại.
Các bên sẽ loại bỏ tất cả các hạn chế, hạn ngạch, yêu cầu cấp phép và kiểm soát
xuất khẩu và nhập khẩu đối với mọi hàng hóa và dịch vụ, ngoại trừ những hạn, hạn
ngạch, yêu cầu cấp phép kiểm soát được GATT 1994 cho phép.
Trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực, các bên hạn chế tất cả
loại phí và phụ phí với bất kỳ hình thức nào áp dụng đối với hay có liên đến xúât nhập
khẩu,ở mức tương xứng với chi phí của dịch vụ đã cung ứng và đảm bảo rằng những
loại phí và phụ phí đó không phải là một sự bảo hộ gián tiếp đối với sản xuất trong
nước hoặc là thuế đánh vào hàng nhập khẩu hay xuất khẩu vì mục đích thu ngân sách.
Trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực các bên áp dụng hệ thống
định giá hải quan dựa trên giá trị của hàng nhập khẩu để tính thuế hoặc của hàng hóa
tương tự, chú không dựa vào giá trị của hàng hoá theo nước xuất xứ,hoặc giá trị được
xác định một cách võ đoán hay không có cơ sở, với giá trị giao dịch là giá thực tế đã
thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa khi được bánđể xuất khẩu sang nuớc
nhập khẩu phù hợpvới những tiêu chuẩn thiết lập trong Hiệp định về việc thi hành
GATT 1994
Trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực, các bên bảo đảm rằng các
khoản phí và phụ phí được quy định hay thực hiện một cách thống nhất và nhất quán
trên toàn bộ lãnh thổ hải quan của mỗi bên
Việt Nam dành sự đối phù hợp xử về thuế cho các sản phẩm xuất xứ từ lãnh thổ
hải quan của Hoa Kỳ
Không bên nào yêu cầu các công dân hoặc công ty của nước mình tham gia vào
phương thức giao dịch hàng đổi hàng hay thương mại đối lưu với công dân hoặc công
ty của bên kia. Tuy nhiên, nếu các công dân hoặc công ty quyết định tiến hành giao
dịch theo phương hàng đổi hàng hay thương mại đối lưu thì các bên có thể cung cấp
cho họ thông tin để tạo thuận lợi cho giao dịch và tư vấn cho họ như khi các bên cung
cấp đối với hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu khác
Hoa Kỳ sẽ xem xét khả năng dành cho Việt Nam Chế độ Ưu đãi Thuế quan Phổ
cập.

3.1.3. Mở rộng và thúc đẩy thương mại
12
Mỗi bên khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động xúc tiến
thương mại như hội chợ, triển lãm, trao đổi các phái đoàn và hội thảo thương mại tại
lãnh thổ nước mình và lãnh thổ bên kia. Tương tự, mỗi bên khuyến khích và tạo thuận
lợi cho các công dân và công ty của nước mình tham gia vào các hoạt động đó. Tuỳ
thuộc vào luật pháp hiện hành tại lãnh thổ của mình, các bên đồng ý cho phép hàng
hóa sử dụng trong các hoạt động xúc tiến đó được nhập khẩu và tái xuất khẩu mà
không phải nộpthuế xuất nhập khẩu, với điều kiện hàng hóa đó không được bán hoặc
chuyển nhượng dưới hính thức khác.
3.2. Thương mại dịch vụ
Hoạt động thương mại dịch vụ là việc cung cấp một dịch vụ trong bất cứ lĩnh vực
nào có liên quan đến thương mại:
• Từ lãnh thổ của một bên vào lãnh thổ của bên kia
• Tại lãnh thổ của một bên cho người sử dụng dịch vụ của bên kia
• Bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một bên, thông qua sự hiện diện thương
mại tại lãnh thổ của bên kia
• Bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một bên, thông qua sự hiện diện của thương
mại tại lãnh thổ của bên kia
• Bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một bên, thông qua sự hiện diện của các thể
nhân của một bên tại lãnh thổ của bên kia.
Quan hệ song phương Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ được
thuết lập trên 2 nguyên tắc:
 Đối xử Tối huệ quốc:
• Đối với bất kỳ biện pháp nào được Hiệp định cho điều chỉnh, mỗi bên dành
ngay lập tức và vô điều kiện cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên kia sự
đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà bên đó dành cho các dịch vụ và nhà cung
cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác.
• Các quy định của Hiệp định này không được hiểu là để cản trở bất kỳ bên nào
trao hay dành các ưu đãi cho nước láng giềng nhằm thúc đẩy sự lưu thông thương mại

dịch vụ được cung cấp và tiêu thụ tại chỗ trong các vùng tiếp giáp biên giới.
 Đối xử quốc gia
• Mỗi bên dành cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên kia, đối với tất
cả các biện pháp ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ, sự đối xử không kém thuận lợi
hơn sự đối xử mà bên đó cho các dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự mình.
• Một bên có thể đáp ứng yêu cầu của khoản 1 thông qua việc dành cho các dịch
vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên kia sự đối xử tương đồng hay khác biệt về hình
thức so với sự đối xử mà bên đó dành cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương
của mình.
13
• Sự đối xử tương đồng hay khác biệt về hình thức được coi là kém thuận lợi
hơn nếu nó làm thay đổi các điều kiện cạnh tranh có lợi hơn cho các dịch vụ và nhà
cung cấp dịch vụ của bên này so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự bên kia.
Hoạt động thương mại dịch vụ của bên này được thực hiện trên lãnh thổ bên kia
dựa trên nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, cụ thể là: “mỗi bên dành ngay lập tức và vô
điều kiện cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên kia sự đối xử không thuận
lợi hơn sự đối xử mà bên đó dành cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự ở
bất kỳ nuớc nào khác”.
Trong hoạt thương mại dịch vụ của bênnày trong lãnh thổ của bên kia phải được
đảm bảo thực hiện trên nguyên tắc Đối xử quốc gia.
3.3. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Đây là Hiệp định thương mại song phương đầu tiên của Việt Nam, đưa Quyền sở
hữu trí tiệ thành 1 chương riêng với 18 điều khoản giải thích.
3.3.1. Mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi của các nghĩa vụ trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ
Mỗi bên dành cho công dân của bên kia sự bảo hộ và thực thi đầy đủ và có hiệu
quả đối với quyền sở hữu trí tuệ trong lãnh thổ của mình.
Các bên thừa nhận các mục tiêu về chính sách xã hội cơ bản của các hệ thống
quốc gia về bảo hộ sở hữu trí tuệ, kể cả mục tiêu phát triển và mục tiêu công nghệ và
bảo đảm rằng các biện pháp bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ không cản trở hoạt

động thương mại chính đáng
Để bảo hộ quyền thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả
mỗi bên phải thực hiện thưc hiện chương này và các quy định có nội dung kinh tế của:
• Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống sao chép trái
phép, năm 1947 (Công ước Geneva)
• Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, năm 1971 (Công ước
Berne)
• Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, năm 1967 (Công ước Paris)
• Công ước quốc tế về bảo hộ giống thực vật mới, năm 1978 (công ước UPOV
(1978)), hoặc Công ước quốc tếvề bảo hộ giống thực vật mới, năm 1991 (Công ước
UPOV (1991)
• Công ước về phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh
Nếu một bên chứa tham gia bất kỳ Công ước nào nêu trên vào ngày hoặc trước
ngày Hiệp định có hiệu lực thì bên đó phải nhanh chóng cố gắng tham gia Công ước
đó.
Một bên có thể thực hiện việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo pháp
luật quốc gia của mình ở mức độ rộng hơn so với yêu cầu tại các quy định của Hiệp
định, với điều kiện là việc bào hộ và thực thi đó không mâu thuẫn với Hiệp định.
14
3.3.2. Đối tượng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có 8 đối tượng đươc bảo hộ Quyền sở
hữu trí tuệ:
• Quyền tác giả và quyền liên quan
• Bảo hộ tín hiều vệ tinh mang chuơng trình đã được mã hóa
• Nhãn hiệu hàng hóa
• Sáng chế
• Thiết kế bố trí mạch tích hợp
• Thông tin bí mật
• Kiểu dáng công nghiệp
• Các loài giống thực vật.

3.3.3. Lộ trình thực hiện quyền sở hữu trí tuệ
Hầu hết các đối tượng được bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ đều có lộ trình thực
hiện thể hiện trong bảng sau đây:
Lộ trình thực thi Quyền sở hữu trí tuệ theo tinh thần của Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ:
Đối tượng được bảo hộ Thời hạn thực thi
1. Quyền tác giả và quyền có liên quan
2. Bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương
trình mã hoá
3. Nhãn hiệu hàng hóa
4. Sáng chế
5. Thiết kế bố trí mạch tích hợp
6. Bí mật thương mại (bí mật thông tin)
7. Kiểu dáng công nghiệp
8. Các loại giống thực vật
18 tháng
30 tháng
12 tháng
12 tháng
24 tháng
18 tháng
24 tháng
Theo Công ước UPOV 1991
Thời hạn bảo hộ Quyền sở hữu trí tuệ:
Đối tượng
bảo hộ
Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ
Quy định TRIPS của WTO
1. Quyền

tác giả về
tác phẩm
nghệ thuật
Không ít hơn 75 năm kể
từ khi công bố hợp pháp
Không ít hơn 100 năm kể
từ khi sáng tạo ra tác
phẩm.
Không dưới 50 năm kể từ công bố hợp
pháp
50 năm kể từ ngày tác phẩm được sáng
tạo.
15
2. Người
biểu diễn
và người
xuất bản
ghi âm.
Không quy định cụ thể
thời hạn bảo hộ.
Tối thiểu 50 năm kể từ ngày ghi âm
hoặc từ buổi biểu diễn.
Tối thiểu 20 năm kể từ ngày chương
trình phát thanh, truyền hình thực hiện.
3.
Thương
hiệu hàng
hóa
Không dưới 10 năm,
được gia hạn thênm

không hạn chế số lần,
mỗi lần 10 năm.
Không dưới 7 năm, sau đó có thể gia
hạn thêm.
4. Kiểu
dáng công
nghiệp
Ít nhất 10 năm Ít nhất 10 năm
5. Bằng
sáng chế
Ít nhất 20 năm kể từ ngày
nộp đơn.
Ít nhất 20 năm kể từ ngày nộp đơn.
6. Thiết kế
bố trí
mạch tích
hợp
Mại Ít nhất 10 năm kể từ ngày thiết kế bố trí
đưa ra khai thác dưới dạng thương mại
hoặc kể từ khi đăng ký.
3.4. Quan hệ đầu tư
3.4.1. Các nguyên tắc xác định quan hệ đầu giữa Việt Nam – Hoa Kỳ
Quan hệ đầu tư giữa hai bên Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản được thiết lập dựa
trên hai nguyên tắc:
• Nguyên tắc “Đối xử quốc gia” trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khỏan
đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản, điều hành, vận hành, bán hoặc
định đoạt đầu tư bằng các cách khác, mỗi bên dành cho bên khi họ hoạt động đầu tư
trên đất nước mình đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các đầu tư của
công dân hoặc công ty của nước mình
• Nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” trong hoạt động đầu tư được hiểu là các

khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản, điều hành, vận hành, bán
hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác, mỗi bên dành cho bên khi họ hoạt động đầu
tư trên đất nước mình đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các đầu tư
của công dân hoặc công ty của nước thứ ba trên lảnh thổ nước mình.
3.4.2. Tiêu chuẩn chung về đối xử
Mỗi bên luôn dành cho các khoản đầu tư theo Hiệp định này sự đối xử công
bằng, thoả đáng, và sự bảo hộ, an toàn đầy đủ và trong mọi trường hợp, dành sự đối xử
không kém thuận lợi hơn sự đối xử theo yêu cầu của các quy tắc áp dụng của pháp luật
tập quán quốc tế.
16
Mỗi bên không áp dụng các biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử để gây
phương hại đối với việc quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt bằng cách
khác các khoản đầu tư theo Hiệp định này.
4. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp hiện nay
4.1. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam
4.1.1. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, với những tác động tích cực từ
chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước theo hướng thị trường, mở cửa và
hội nhập kinh tế, năng lực sản xuất của nền kinh tế đã được giải phóng, lực lượng sản
xuất trong nước phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần dần từ sản xuất
nhằm thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu. Sản xuất hàng
xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm
tỷ trọng các sản phẩm thô, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm hàng hóa. Hàng hóa nhập
khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Thị trường
xuất - nhập khẩu cũng tăng trưởng nhanh theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ
giao dịch gián tiếp thông qua các thị trường xuất - nhập khẩu trung chuyển như Xin-
ga-po sang giao dịch trực tiếp tại các thị trường Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Việt Nam
cũng trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, nhì thế giới về các mặt hàng như gạo, tiêu,
điều, cà phê,
4.1.2. Mức độ phụ thuộc vào kinh tế thế giới của nền kinh tế nước ta

Tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng của các nước Đông Á và ASEAN trong hơn
nửa thế kỷ vừa qua có nguyên nhân rất lớn từ chính sách sản xuất nhằm mục tiêu xuất
khẩu. Xuất khẩu hàng hóa là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của
các nước này. Tuy nhiên, điều này cũng làm cho nền kinh tế các nước ASEAN dễ bị
tổn thương và phụ thuộc vào biến động của chu kỳ kinh tế thế giới, đặc biệt là phụ
thuộc vào các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.
Với đường lối mở cửa kinh tế, xuất khẩu đã ngày càng trở thành động lực quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình
của Việt Nam đạt 24,1%/năm trong suốt 20 năm qua là nhân tố quan trọng giúp duy trì
tốc độ tăng trưởng cao. Khác với một số nước ASEAN như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và
Thái Lan đã trải qua thời kỳ tích tụ tư bản nhằm tạo lập vốn, Việt Nam đang ở giai
đoạn nước rút nhằm tạo lập vốn cho nền kinh tế với tốc độ đầu tư không ngừng tăng
lên. Nếu năm 1990, tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế trong GDP là 12,6%/năm, thì năm
1995 đạt 27,1%, năm 2000 đạt 29,6%, năm 2005 đạt 35,6%, và kỷ lục đạt 41,7% GDP
năm 2007 (Xem bảng 1). Chính vì vậy, trước khi Việt Nam có thể chuyển sang giai
đoạn xuất siêu như các nước khác, chúng ta không thể không trải qua thời kỳ tích lũy
vốn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước kèm theo nhu cầu nhập khẩu tăng cao. Trong
giai đoạn 1989 - 2008, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hằng năm, mặc dù thấp hơn xuất
khẩu, vẫn duy trì ở mức cao, trung bình đạt 19,9%.
Nếu lấy tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu so với GDP làm thước đo về mức độ
hội nhập và phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới, thì Việt Nam là một trong những nước
có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế cao nhất so với các nước trong ASEAN cũng như
17
trên thế giới. Nếu như năm 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta so với GDP là
36%, thì đến năm 2007 con số này là 76,8% GDP. Cũng trong thời kỳ này, tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam so với GDP tăng từ 45,3% lên 90,2% GDP. Sáu tháng
đầu năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 27,57 tỷ USD, giảm
10% so cùng kỳ 2008. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 30,64 tỷ USD, giảm khoảng
31,6% so với cùng kỳ. Số liệu trên vừa được Bộ Công Thương công bố ngày 17/6. So
với các nước ASEAN và Trung Quốc, mức độ hội nhập và phụ thuộc của nền kinh tế

Việt Nam vào nền kinh tế thế giới đo bằng tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đã tăng từ
97% GDP (năm 1998) lên 167% (năm 2007), với tốc độ tăng trưởng thương mại
nhanh nhất so với các nước trong khu vực như In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan và
Trung Quốc. Điều này cũng có nghĩa nền kinh tế nước ta càng gặp nhiều khó khăn hơn
trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
4.1.3. Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới hoạt động xuất - nhập
khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn lan rộng ở Mỹ kể từ giữa năm 2007
đã dẫn tới tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Năm 2008, nền kinh tế thế
giới và trong nước có nhiều biến động vô cùng phức tạp. Giá dầu thô, nhiều loại
nguyên liệu, thực phẩm và các loại hàng hóa khác trên thị trường thế giới tăng mạnh
trong những tháng đầu năm khiến cho lạm phát xảy ra tại hầu khắp các nước trên thế
giới. Đến cuối năm, giá cả các loại hàng hóa và nhiên liệu lại sụt giảm mạnh do tác
động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất - nhập khẩu của Việt Nam
trong năm 2008.
Đặc biệt, khuynh hướng suy giảm kim ngạch xuất - nhập khẩu đã trở nên rõ nét
trong 6 tháng đầu năm 2009 Theo báo cáo của Bộ, hầu hết các mặt hàng đều giảm cả
lượng và kim ngạch, trong đó các mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu phục vụ sản xuất,
xuất khẩu giảm 10- 20%. Tổng cộng, mức nhập siêu sáu tháng đầu năm 2009 ước
khoảng 3 tỷ USD, chiếm 11% kim ngạch xuất khẩu. Thứ trưởng Bộ Công Thương,
ông Bùi Xuân Khu cho biết, nguyên nhân trực tiếp tác động tới kim ngạch xuất khẩu 6
tháng qua là do giá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bị giảm trên thị
trường thế giới. Đồng thời, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên các thị trường
xuất khẩu truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp mạnh, như Hoa Kỳ giảm khoảng 7%,
EU khoảng 10% và ASEAN khoảng 6%.
Mục tiêu xuất khẩu đặt ra cho cả năm 2009 (đã điều chỉnh theo chỉ tiêu kinh tế
với tốc độ tăng trưởng GDP là 5%) là tăng trưởng 3% so với năm 2008, tương đương
đạt 64,57 tỷ USD.
Như vậy, do kim ngạch 6 tháng đầu năm ước đạt 42,7%, nên 6 tháng còn lại xuất

khẩu phải đạt 57,3% kế hoạch năm. Tuy nhiên, theo Bộ Công Thương, căn cứ vào tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng cuối năm của 8 năm trở lại đây thường chiếm từ
53- 55% kế hoạch năm nên, để đạt được mục tiêu trên phải có các giải pháp rất quyết
liệt mới thực hiện được.
4.1.4. Phân tích GDP ở Việt Nam theo mô hình tổng cầu của Keynes
18
Theo mô hình tổng cầu của Keynes, tổng cầu của nền kinh tế đo bằng tổng sản
phẩm quốc nội GDP, được tính trên cơ sở tổng tiêu dùng tư nhân, tiêu dùng chính phủ,
đầu tư, và xuất khẩu ròng (đo bằng tổng kim ngạch xuất khẩu trừ đi tổng kim ngạch
nhập khẩu). Theo phương pháp này, cơ cấu GDP của Việt Nam đã có chuyển biến khá
tích cực từ năm 1990 tới năm 2000 và ổn định cho tới năm 2006, trước khi gặp những
biến động mạnh trong năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Cơ cấu chi tiêu
của khu vực tư nhân và của Chính phủ đã có chuyển biến tích cực theo hướng giảm chi
tiêu và tăng tích lũy để đầu tư tạo vốn.
Bảng 1: Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội tính theo % GDP
1
990
1
995
2
000
2
005
2
006
2
007
Tiêu dùng tư
nhân
8

4,8
7
3,6
6
6,5
6
3,5
6
3,3
6
4,9
Tiêu dùng Chính
phủ
1
2,3
8
,2
6
,4
6
,2
6
,0
6
,1
Đầu tư (tạo lập
vốn)
1
2,6
2

7,1
2
9,6
3
5,6
3
6,8
4
1,7
Xuất khẩu ròng -
9,2
-
9,1
-
2,5
-
4,2
-
5,0
-
13,4

Trong giai đoạn trước năm 2007, cơ cấu GDP đã duy trì ở mức tích cực với tốc
độ tạo lập vốn đầu tư duy trì trong khoảng 35% - 36%, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng trong trung và dài hạn. Trong năm 2007, với việc Việt Nam gia nhập WTO,
nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào nước ta đã kéo theo việc gia tăng thâm
hụt thương mại, đặc biệt trong hai quý cuối năm 2007. Kết quả là, thâm hụt thương
mại năm 2007 lên tới 14,1 tỉ USD, chiếm khoảng 13,4% GDP. Tuy nhiên, phần này
được bù đắp hoàn toàn bằng 8 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và 6,24 tỉ vốn
đầu tư gián tiếp, và lượng kiều hối đạt kỷ lục 6,18 tỉ USD. Khuynh hướng này tiếp tục

kéo dài sang năm 2008, cùng với việc biến động giá tăng của hầu hết các hàng hóa
nhập khẩu đầu vào sản xuất ở Việt Nam khiến thâm hụt thương mại lên tới hơn 18 tỉ
USD, đạt mức kỷ lục và chiếm khoảng 16,1% GDP. Tuy nhiên, năm 2008 cũng đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử trong huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số
vốn đăng ký đạt mức kỷ lục 64 tỉ USD, và vốn thực hiện đạt 11,5 tỉ USD.
4.1.5. Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu
Phân tích cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam có thể nhận thấy, trong năm
2008, sáu thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và
Ô-xtrây-li-a đã chiếm tới 80% tổng khối lượng hàng hóa xuất khẩu. Bản thân nền kinh
tế các nước ASEAN và Trung Quốc cũng phụ thuộc rất lớn vào các nền kinh tế còn
lại, nên suy thoái kinh tế của Mỹ, EU và Nhật Bản sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình
hình xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009. Các mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào thị
trường Mỹ là giầy dép, hàng dệt may và các sản phẩm về gỗ; vào EU là giầy dép, hàng
19
dệt may và hải sản; vào ASEAN là dầu thô và gạo; vào Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a là
dầu thô; vào Trung Quốc là cao su, sẽ chịu nhiều ảnh hưởng không nhỏ.
Hàng nhập khẩu của Việt Nam cũng tập trung cao ở các thị trường chính như
ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ và ấn Độ. Các thị trường này chiếm tới 66%
tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị phụ
tùng, ngoài ra còn nhập xăng dầu các loại, máy vi tính và linh kiện, chất dẻo nguyên
liệu từ các nước ASEAN; sắt thép và vải từ Trung Quốc; sắt thép từ Nhật Bản. Trong
thương mại nội vùng, năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém hơn rõ
rệt so với các đối thủ cạnh tranh. So sánh về quy mô, Việt Nam luôn ở trạng thái nhập
siêu so với các nước ASEAN và Trung Quốc. Hơn nữa, hàm lượng giá trị sản xuất gia
tăng trong hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN, Trung Quốc cao hơn hẳn so với
hàng hóa chúng ta xuất khẩu sang ASEAN và Trung Quốc. Hàng hóa nhập khẩu từ các
nước ASEAN và Trung Quốc chủ yếu là máy móc thiết bị và nguyên liệu đầu vào cho
sản xuất. Suy thoái kinh tế toàn cầu, kéo theo sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang các nước, vì vậy cũng làm giảm nhu cầu đầu vào phục vụ xuất khẩu, vì vậy
làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam.

4.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam
4.2.1. Thành công
Năng lực sản xuất và kinh doanh của các ngành tăng lên rõ rệt từ khi Việt Nam
gia nhập WTO. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp nhưng
hầu hết các ngành hàng nước ta đều đạt mức tăng trưởng cao so với nhiều nước trong
khu vực. Theo số liệu ước tính, năm 2008, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng còn 7%);
kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, tăng 29,5% so với năm 2007; kim ngạch nhập
khẩu đạt 79,9 tỉ USD, tăng 27,5% so với năm 2007. Nhìn chung, xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực thuộc các ngành hàng đều tăng rõ rệt.
- Hàng hóa của Việt Nam có cơ hội thâm nhập được thị trường các nước thành
viên WTO thuận lợi hơn do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử; có
điều kiện tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, các loại hình dịch vụ,
vật tư, nguyên liệu.
- Môi trường kinh doanh trong nước đã được cải thiện theo hướng thuận lợi và
minh bạch hơn. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đã có tác động tích cực đối với
phát triển các doanh nghiệp mới ở hầu hết các ngành hàng. Việc phát triển hệ thống
ngân hàng và bảo hiểm cũng như mở ra các kênh tài chính tạo cơ hội lựa chọn tiếp,
cận tài chính tốt hơn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp thuộc các ngành ưu
tiên như đóng tàu hay phát triển năng lượng mới.
- Việc mở cửa thị trường nội địa, cắt giảm thuế và các rào cản phi thuế đối với
các sản phẩm như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu đã tạo điều kiện cho nhiều
mặt hàng đến với người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước với mức giá hợp lý
hơn, hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ được cung cấp nguồn lực tốt hơn.
20
- Cơ hội đối với Việt Nam khi gia nhập WTO cơ bản đã nhìn thấy rõ. Đó là mở
rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế-thương mại, tăng thu
hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài; là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia
vào sân chơi chung toàn cầu vừa là động lực và áp lực buộc doanh nghiệp phải thích

nghi và phát triển
4.2.2. Hạn chế
Các DNVVN của Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên vẫn còn nhiều
hạn chế và yếu kém:
Thứ nhất: Chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém. Đội
ngũ chủ DN, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn chế về kiến thức và
kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn
cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ DN và giám đốc DN tư
nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế -
xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế.
Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các DN hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu
tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược
cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số
chủ DN mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến
thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Thứ hai: năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm
yếu khả năng cạnh tranh của các DNVVN. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các
nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines, thì các sản phẩm sản xuất của
các DN Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao
động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực.
Thứ ba: Năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn và
năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều DN còn rất
nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng DN nhỏ và vô cùng nhỏ
chiếm tỷ lệ khá cao. Việt Nam có hơn 72. 000 DN đang hoạt động, số lượng có tăng
lên nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới
44,1%, quy mô lao động dưới 10 người chiếm 46,6%. Nếu so sánh năm 2004 với năm
2000, số vốn và số lượng lao động bình quân trong mỗi DN đã giảm từ 26 tỷ đồng và
84 lao động xuống còn 24 tỷ đồng và 72 lao động (theo số liệu của Tổng cục Thống
kê).
Thứ tư: Nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số khá lớn

DNVVN còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các
quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu
công nghiệp. Tình trạng các DNVVN bị các cơ quan chức năng phàn nàn, xử phạt vi
phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của DN về luật pháp
còn nhiều hạn chế. Tâm lý làm ăn chuôi vẫn còn khá phổ biến.
21
Thứ năm: Sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh.
Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa
khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Nhiều DN ở Việt Nam, đặc biệt là các DNVVN chưa có chiến lược xây dựng thương
hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh
tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI, chỉ có gần 10% số doanh nghiệp là
thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này chủ yếu là các doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu;
Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị trường nước ngoài không thường xuyên và
khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không có các
hoạt động tìm hiểu thị trường nước ngoài.
Việc mở cửa thị trường dẫn đến sức ép cạnh tranh tăng lên, VN sẽ không còn lý
do nào để cấm đoán ngoại quốc tham gia trực tiếp vào thị trường nội địa của VN. Từ
đó, mức cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn và chưa chi thua thiệt có thể chắc chắn về phần
doanh thương VN qua sự chênh lệch về nguồn vốn, kỹ thuật, cung cách khuyến mãi,
và thị hiếu của người tiêu dùng VN. các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phải cạnh
tranh ở thị trường trong nước mà còn phải cạnh tranh ở thị trường thế giới. Nhiều
khoản trợ cấp hoặc có tính trợ cấp của Nhà nước đối với một số ngành hàng cho một
số ngành trước đây buộc phải bãi bỏ theo cam kết gia nhập WTO.
Trước mắt, chúng ta thấy rõ những kỹ nghệ của VN liệt kê sau đây đang đi dần
vào chỗ bế tắc :
- Kỹ nghệ đường hiện nay hoàn toàn bị phá sản vì không cạnh tranh được so với
đường Trung Quốc và Thái Lan có phẩm chất tốt hơn và giá rẽ hơn. Việc này kéo theo

sự bế tắc của nông dân trồng mía.
- Chăn nuôi gia súc ở VN cũng đang đứng trước cơn phá sản do kỹ thuật chăn
nuôi còn nhiều khiếm khuyết. Từ đó, việc nhập cảng cánh và đùi gà Mỹ hiện tại là một
dịch vụ đem nhiều lợi nhuận lớn lao. Vì cánh và đùi gà Mỹ giá rất rẽ $0.2/bls ( vì
người Mỹ không thích ăn) , khi nhập vào VN có thể bán ra $1,5/kg.
- Các kỹ nghệ đơn giản khác như xe đạp, dụng cụ làm bếp, trang trí nội thất sẽ
không còn khả năng cạnh tranh với hàng TQ nếu chưa nói đến các nhà sản xuất lớn
như ở HK, Pháp, Ý Những mặt hàng rất bắt mắt và được người VN ưa chuộng từ
lâu. Chính tâm lý ưa chuộng hàng ngoại quốc của người VN sẽ giết chết công kỹ nghệ
VN khi VN gia nhập vào cuộc chơi chung. Và mặt trái của WTO có thể biến VN thành
một thị trường tiêu thụ của quốc tế hơn là một thị trường sản xuất.
- Quy mô của doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn yếu
kém, kỹ năng và kiến thức chuyên sâu về quản lý trong môi trường cạnh tranh quốc tế
còn có hạn, thiếu sự liên kết và chỉ tham gia được vào các khâu có giá trị gia tăng thấp
nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với hầu hết các ngành hàng, nên phải lệ thuộc
nhiều vào các trung gian thương mại nước ngoài. Năng lực nghiên cứu và thiết kế, khả
năng đổi mới công nghệ của hầu hết các doanh nghiệp còn rất hạn chế, lực lượng lao
động có trình độ cao không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển. Theo bà Phạm Chi Lan,
thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng cho biết từ một cuộc khảo sát mới đây diễn
22
ra ngay tại TPHCM, trung tâm kinh tế lớn nhất nước cho thấy: 95% DN được hỏi nói
rằng họ không biết WTO là gì! Số còn lại phần lớn đều chỉ hiểu một cách rất mơ hồ.
- Các doanh nghiệp phải đối mặt với các quy định về thực thi quyền sở hữu trí
tuệ, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ hàng hóa, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ. Mặc dù các hàng rào phi thuế quan được cắt giảm đối với một số mặt hàng và một
số thị trường như hạn ngạch xuất khẩu ngành dệt may vào thị trường Hoa Kỳ và
EU…, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với các hàng rào kỹ thuật mới ngày càng tinh
vi hơn theo quy định riêng của một số nước. Các mặt hàng thủy sản và nông sản xuất
khẩu của Việt Nam vẫn bị cản trở bởi các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày
càng khắt khe hơn. Các mặt hàng công nghiệp chế biến và cơ khí luôn phải đối mặt

với các vụ kiện chống bán phá giá.
- Sự phát triển của một số ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, ngành điện, giao thông và một số
lĩnh vực dịch vụ công chưa phát triển khiến doanh nghiệp trả giá dịch vụ cao hơn, làm
giảm năng lực cạnh tranh.
- Xử lý mâu thuẫn giữa một bên là mở cửa, giảm thuế để hạ giá thành đầu vào
cho sản xuất và để cho người tiêu dùng được tiếp cận với hàng hóa giá rẻ, một bên là
muốn bảo hộ để duy trì sản xuất trong nước. Phần lớn các ngành hàng vừa được sản
xuất trong nước lại vừa được nhập khẩu. Với chủ trương bảo hộ một số ngành, chúng
ta đang thực hiện chính sách thuế nhập khẩu cao đối với sản phẩm hàng hóa hoàn
chỉnh và thuế nhập khẩu thấp hơn đối với nguyên liệu và linh kiện, chi tiết rời để
khuyến khích sản xuất và lắp ráp trong nước. Tuy nhiên, nhiều ngành sản xuất không
tranh thủ cơ hội này để phát triển sản xuất và cải tiến công nghệ mà chỉ trông chờ vào
chính sách bảo hộ, vì vậy khi thực hiện cam kết gia nhập WTO thì những hàng hóa
này được sản xuất ra luôn có giá cao hơn so với đối thủ cạnh tranh, khó tiêu thụ ở cả
thị trường trong và ngoài nước.
5. Ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) đối với Việt Nam
5.1. Bùng nổ thương mại song phương
Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, và Việt Nam đang là
điểm đến của các nhà đầu tư Mỹ.
Trong 6 tháng đầu năm 2009, Hoa Kỳ là nước có số vồn đăng ký đầu tư trực tiếp
nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam. Từ khi Hiệp định Thương mại Song phương (BTA)
có hiệu lực thì Việt Nam luôn luôn hưởng thặng dư mậu dịch với Mỹ.
Theo số liệu thống kê của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ thì con số thặng
dư vào năm 2001 là 633 triệu đôla, đến năm 2008 đã lên đến gần 10 tỉ đôla, có nghĩa là
gấp gần 16 lần, tương đương với hơn 10% tổng sản lượng quốc nội của Việt Nam.
Mặc dù trước sự trì trệ của nền kinh tế toàn cầu và sự tụt giảm của mậu dịch thế
giới, Việt Nam vẫn hưởng con số thặng dư mậu dịch trong bốn tháng đầu năm nay.
23
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Mỹ; như dệt may, giày dép

và đồ gỗ sử dụng rất nhiều lao động. Nhờ xuất khẩu sang Mỹ mà Việt Nam giải quyết
hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động mỗi năm.
BTA đã góp phần làm thay đổi diện mạo các sản phẩm xuất khẩu của VN. Từ
chỗ hàng xuất khẩu của VN chủ yếu là sản phẩm sơ chế thì sau 5 năm hàng tinh chế đã
chiếm tới 75%, nổi bật nhất là đồ gỗ, máy xử lý số liệu, thiết bị viễn thông, hàng phục
vụ du lịch, đồ nhựa, đồ chơi trẻ em…
TS James Riedel, Dự án STAR – VN nhận định, theo BTA, nghĩa vụ chính của
phía Hoa Kỳ kể từ khi hiệp định có hiệu lực là phải trao cho VN Quy chế Thương mại
bình thường/Quy chế tối huệ (NTR/MFN). Cụ thể, Hoa Kỳ phải cắt giảm thuế suất
nhập khẩu trung bình đối với hàng nhập khẩu của VN vào Hoa Kỳ từ 40% xuống còn
4%, trong khi VN chỉ cắt giảm thuế suất đối với 261 hạng mục thuế quan. Điều này
đồng nghĩa với việc thị trường to lớn của Hoa Kỳ đã được mở rộng cho hàng hóa của
VN.
5.2. BTA dẫn lối cho dòng chảy FDI vào VN
Có nhiều yếu tố góp phần làm cho VN trở thành một điểm đến ngày càng hấp
dẫn để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đó là các cam kết sâu rộng và có
tính ràng buộc của VN theo BTA và các hiệp định khác của WTO. Cụ thể, BTA đòi
hỏi phải thực hiện căn bản về chính sách và thủ tục đầu tư. Khái niệm đầu tư đã được
mổ rộng để bao quát hết mọi hình thức đầu tư của BTA, dỡ bỏ cơ chế định giá kép và
các biện pháp có tính phân biệt đối xử… Năm 2006, VN đã thu hút tổng vốn FDI tới
12 tỷ USD, tăng 375%, dự kiến trong năm 2007, FDI có thể sẽ tăng lên tới gần 20 tỷ
USD. Theo đó nhiều dự án “tỷ USD” đã đặt lên bàn của các cơ quan chức năng.
Riêng đầu tư từ Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ 3 đạt khoảng 4 tỷ USD đối với các
dự án đã đăng ký và 3,3 tỷ USD đối với các dự án đã thực hiện. Con số này đã đặt Hoa
Kỳ vào hàng các nhà đầu tư lớn nhất ở VN.
Để đánh giá một cách toàn diện về tác động của BTA đối với môi trường đầu tư
tại VN, năm 2006, Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã gửi 4.000
phiếu điều tra tới các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả có hơn một nửa DN khẳng định,
BTA đã tác động quan trọng tới quyết định đầu tư của họ tại VN, với lý do BTA là
bước đệm cho, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn…

5.3. Ảnh hưởng của Mỹ với tiến trình cải cách luật pháp của Việt Nam
Mỹ đã có ảnh hưởng rất lớn đối với tiến trình cải cách luật pháp của Việt Nam
trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu.
Kể từ năm 2001, cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, thông qua Dự án Hỗ trợ
Thúc đẩy Thương mại đã giúp đỡ chính phủ Việt Nam thực thi các cam kết của BTA
và WTO.
Hàng năm dự án này đã phối hợp với chính phủ Việt Nam tổ chức hàng loạt hội
thảo, các khóa đào tạo cho rất nhiều cơ quan ở Việt Nam, như Quốc hội, Tòa án nhân
dân tối cao, các bộ và các tỉnh thành.
24
Từ khi bắt đầu hoạt động, dự án này giúp Việt Nam sửa đổi và ban hành hàng
trăm luật lệ mới. Sự điều chỉnh những luật lệ đã tạo những tiền đề tốt cho Việt Nam
gia nhập WTO.
Sự thực thi tốt các cam kết về BTA cũng như việc gia nhập WTO đã tăng thêm
niềm tin cho các nhà đầu tư ngoại quốc. Đầu tư nước ngoài tăng lên rất nhanh trong
hai năm 2007 và 2008
Nhìn chung vẫn còn một khoảng cách nhất định giữa luật trên văn bản và sự thực
thi luật trong thực tế, và sự cải cách vẫn chưa đồng bộ.
Nhưng nếu so sánh giữa hai thời kỳ trước khi có BTA cho đến thời điểm bây giờ
thì có những chuyển biến tích cực.
5.4. Thử thách cho Việt Nam càng lớn
Việc xuất khẩu vào Mỹ luôn trong tình trạng tăng trưởng “nóng” chỉ là hiện thực,
hãy còn quá nhiều thách thức phía trước, nếu VN không vượt qua được thì điều chắc
chắn, VN sẽ lọt cái bẫy vĩnh viễn của lao động giá rẻ! Mỹ đang là thị trường xuất khẩu
lớn nhất của VN, thiếu thị trường này liệu tốc độ tăng trưởng GDP của VN có đạt
được mức 8%-9%/năm?
TS Nguyễn Hồng Bảo – Khoa Kinh tế phát triển Đại học Kinh tế TPHCM cũng
cho rằng, mặc dù đầu tư của Mỹ vào VN còn thấp nhưng lại là đầu tư thâm dụng vốn
và công nghệ, còn xuất khẩu của VN là thâm dụng về lao động, điều này sẽ tạo thế áp
đảo đối với hàng hóa xuất khẩu của VN trong tương lai. Mặt khác, VN chưa được Mỹ

công nhận là nền kinh tế thị trường, điều này không có lợi cho hàng hóa của VN khi
xuất khẩu vào Mỹ.
Ông Steve Parker, Dự án Star VN cũng cảnh báo, việc xuất khẩu hàng hóa vào
Mỹ của VN cũng đang có nguy cơ bị kiện bán phá giá, để tránh thiệt hại, ngay từ bây
giờ DNVN nên đa dạng sản phẩm và từng bước chuyển hướng thị trường xuất khẩu.
“BTA chỉ mở cánh cửa đầu tiên cho VN trong tiến trình gia nhập kinh tế. Sử dụng nó
như thế nào để đạt hiệu quả là tùy thuộc vào chính sách và năng lực của VN. Đổi mới
và đổi mới không ngừng sẽ quyết định hướng phát triển của VN trong nền kinh tế toàn
cầu” – ông Steve kết luận.
Trong quan hệ kinh tế thì còn có những rào cản: Có thể thấy 3 trường hợp.
• Thứ nhất, Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, do đó
Việt Nam dễ bị thua thiệt, ví dụ như trường hợp Hoa Kỳ áp dụng thuế chống bán phá
giá đối với cá basa, tôm Việt Nam.
• Thứ hai, Việt Nam e ngại có những thành phần tại Hoa Kỳ có những động thái
mang tính cách bảo hộ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam, điển hình là vụ cá tra,
cá basa.
• Thứ ba, các nhà đầu tư Mỹ quan tâm đến tình trạng tham nhũng tương đối khá
phổ biến và việc thực thi luật chưa có hiệu quả cao. Nếu tháo gỡ được những rào cản
này thì quan hệ kinh tế còn tốt hơn nữa.
25

×