Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Cư Dân Đóng Tàu Thuyền Ở Xã Nghi Thiết, Huyện Nghi Lộc, Tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------ĐẬU THỊ YẾN

CƢ DÂN ĐÓNG TÀU THUYỀN Ở XÃ NGHI
THIẾT, HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Nhân học

Hà Nội-2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐẬU THỊ YẾN

CƢ DÂN ĐÓNG TÀU THUYỀN Ở XÃ NGHI
THIẾT, HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành nhân học
Mã số: 60 31 03 02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Ts. Vũ Trƣờng Giang

Hà Nội-2016


LỜI CAM ĐOAN



Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố.
Những luận điểm mà luận văn kế thừa của những ngƣời đi trƣớc đều ghi rõ
xuất xứ và tên tác giả đã đƣa ra luận điểm đó.
Tác giả

Đậu Thị Yến

1


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này tơi muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất
đến nhân dân xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đặc biệt là gia
đình chủ xƣởng đóng tàu đã tạo điều kiện để tôi tham gia sinh hoạt tại địa
phƣơng và tại xƣởng tàu giúp tôi thu thập các thông tin quan trọng cho luận
văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến chính quyền xã Nghi Thiết đã ln giúp
đỡ tơi trong quá trình tiếp xúc với cƣ dân và cung cấp các tƣ liệu cần thiết cho
luận văn. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến những ngƣời đã cung cấp thơng tin
cho tơi về nghề đóng tàu tạo điều kiện để tơi hồn thành luận văn này.
Nghiên cứu của tơi sẽ khơng thể thành cơng nếu nhƣ khơng có sự
hƣớng dẫn nghiêm túc và chỉ bảo tận tình của TS Vũ Trƣờng Giang đã hƣớng
dẫn khoa học cho tôi để tơi hồn thành tốt luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Nhân học,
trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã
chỉ bảo tôi những kiến thức Nhân học quý báu trong 2 bậc học Cử nhân và
Thạc sĩ.
Hà Nội, tháng 01 năm 2016
Tác giả


Đậu Thị Yến

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................2
DẪN LUẬN ................................................................................................................5
Chƣơng 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .................................................................................10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................10
1.2. Tiếp cận lý thuyết ...........................................................................................13
1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................19
1.4. Khái quát địa bàn nghiên cứu.........................................................................21
Chƣơng 2 ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA CƢ DÂN ĐÓNG TÀU THUYỀN Ở XÃ
NGHI THIẾT ............................................................................................................28
2.1. Sự ra đời của nghề đóng tàu thuyền ...............................................................28
2.2. Vai trị của nghề đóng tàu trong đời sống kinh tế Nghi Thiết .......................32
2.3. Hoạt động đóng tàu thuyền ở xã Nghi Thiết ..................................................33
2.4. Biến đổi của nghề đóng tàu và bảo tồn, phát huy nghề trong điều kiện hiện nay
...............................................................................................................................50
Chƣơng 3 ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA CƢ DÂN
ĐÓNG TÀU THUYỀN Ở XÃ NGHI THIẾT ..........................................................59
3.1. Tín ngƣỡng .....................................................................................................59
3.2. Nghi lễ liên quan đến nghề đóng tàu ..............................................................65
3.3. Văn hóa dân gian ............................................................................................75
3.4. Đời sống xã hội của cƣ dân đóng tàu, thuyền ................................................79
KẾT LUẬN ...............................................................................................................92

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................96
PHỤ LỤC ................................................................................................................102

3


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Năm thành lập các xƣởng đóng tàu thuyền ở xã Nghi Thiết.......... 34
Bảng 2.2. Số lao động đang làm việc tại các xƣởng đóng tàu thuyền ............ 37
Bảng 2.3. Ý kiến về việc nghề đóng tàu có bị mất hay khơng ................ Error!
Bookmark not defined.
Bảng 3.1. Số lƣợng con của các gia đình chủ xƣởng đóng tàu ở Nghi Thiết
......................................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC BIỂU ĐÒ
Biểu đồ 2.1. Độ tuổi của lao động làm việc tại các xƣởng đóng tàu thuyền...39

4


DẪN LUẬN
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là quốc gia có 3.260 km bờ biển kéo dài từ Bắc đến Nam.
Biển chứa nhiều nguồn tài nguyên quý giá cho nƣớc ta trên hành trình hội
nhập và phát triển hôm nay. Để khai thác nguồn tài nguyên trên biển, nhiều
ngành kinh tế cần có phƣơng tiện vận tải là tàu, thuyền. Nghề đóng tàu,
thuyền là một trong những nghề xuất hiện sớm ở nƣớc ta. Sách “Nghề cổ đất
Việt” của Vũ Từ Trang đã dẫn: “Với tình hình địa lý nƣớc ta, sơng ngịi, kênh
rạch, dọc ngang rất nhiều, đã vậy biển Đông lại ôm dọc chiều dài đất nƣớc, vì
thế thuyền bè là một phƣơng tiện giao thơng rất mật thiết với ngƣời dân.

Chính vì vậy, nghề đan thuyền, đóng thuyền, đóng tàu bè ở nƣớc ta phát triển
rất sớm” [45, tr. 343]. Do đó, ngay từ rất sớm, ngƣời thợ thủ cơng làm nghề
đóng tàu thuyền đã cƣ trú ven biển để sản xuất ra tàu, thuyền phục vụ nhu cầu
đó. Tuy nhiên, hầu nhƣ các nghiên cứu về biển đang tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu văn hoá lễ hội của ngƣ dân vùng biển để phục vụ phát triển du lịch
của một số địa phƣơng có hoạt động du lịch dựa vào điều kiện tự nhiên của
vùng biển; nghiên cứu mơ hình và kỹ thuật nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản
của ngƣ dân vùng biển, các đề tài này đƣợc thực hiện chủ yếu do các nhà
quản lý ở địa phƣơng đặt hàng nghiên cứu; khảo sát đời sống kinh tế của
những cộng đồng ngƣ dân nghèo, nhằm giúp chính quyền tìm giải pháp ổn
định và nâng cao mức sống cho ngƣ dân, bởi thực tại họ ln gặp nhiều khó
khăn và tổn thất do thiên tai (bão, lũ) gây nên [40]. Vì vậy, việc nghiên cứu về
cộng đồng cƣ dân đóng tàu thuyền hiện nay chƣa đƣợc chú trọng.
Đây là một bộ phận dân cƣ có nhiều điểm đặc biệt, ngƣời thợ đóng tàu
thuyền, cơng việc thuộc vào họat động thủ công nghiệp tuy nhiên họ lại cƣ trú
ven biển, vậy họ thuộc bộ phận cƣ dân làm nghề tiểu thủ công hay thuộc cộng
5


đồng cƣ dân sinh sống ven biển? Văn hóa của họ là văn hóa biển hay văn hóa
của tầng lớp thợ tiểu thủ cơng nghiệp? Phải chăng có một tầng văn hóa mới
của nhóm thợ thủ cơng cƣ trú ven biển? Vậy biển có vai trị nhƣ thế nào trong
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của những cƣ dân này? Họ đã sinh sống và
thích nghi với biển nhƣ thế nào, có điều gì khác biệt so với ngƣ dân? Đây là
những vấn đề chính mà nghiên cứu này đặt ra.
Mặt khác, hiện nay, thông qua các nghiên cứu về các cộng đồng cƣ trú
ven biển, chúng ta thấy ngƣ dân thƣờng là bộ phận đƣợc nhắc tới với rất nhiều
khó khăn trong cuộc sống và ln cần sự hỗ trợ chính sách từ phía Nhà nƣớc,
vậy những bộ phận dân cƣ khác thì sao? Thợ đóng tàu, thuyền, cịn những
khó khăn nào trong cuộc sống cịn đặt ra đối với họ? Họ cần hỗ trợ gì từ phía

các cấp chính quyền? Trong cộng đồng cƣ trú họ gặp phải những rào cản nào?
Điều này chƣa đƣợc quan tâm đúng mức trong các nghiên cứu hiện nay.
Hiện nay, Nhà nƣớc đang chú trọng đầu tƣ để ngƣ dân đóng mới tàu
thuyền, cải tiến tàu thuyền ngày càng hiện đại hơn để bám biển, cải thiện điều
kiện kinh tế và tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhiều làng nghề đóng tàu
thuyền từng bị bỏ quên, mai một đã đƣợc phục hồi và chú trọng đầu tƣ phát
triển. Để các kế hoạch trên đạt đƣợc hiệu quả thì trƣớc hết cần nghiên cứu từ
những ngƣời dân làm nghề này, tìm hiểu tiếng nói, nguyện vọng và triển vọng
nghề nghiệp của họ nhằm có sự đầu tƣ đúng hƣớng và hiệu quả. Trên đây là
những cơ sở để tôi lựa chọn một nghiên cứu mới mẻ nhƣng cũng đầy thú vị
và thách thức này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện nhằm ba mục đích chính:
Một là, tìm hiểu thực trạng cuộc sống của cộng đồng cƣ dân làm nghề
đóng tàu thuyền ở ven biển Nghệ An thơng qua nghiên cứu trƣờng hợp xã
Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc.
6


Hai là, tìm hiểu q trình thích nghi với địa bàn cƣ trú của cộng đồng
cƣ dân này thông qua các đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng.
Ba là, chỉ ra những biến đổi trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
của cƣ dân đóng tàu thuyền.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Cƣ dân đóng tàu thuyền sống và thích nghi với biển nhƣ thế nào (các
hoạt động sinh kế, tổ chức xã hội, đời sống văn hóa, tín ngƣỡng, tâm linh, ảnh
hƣởng từ các cộng đồng cƣ trú xung quanh)?
- Để gìn giữ và phát huy nghề nghiệp truyền thống mà cha ông để lại,
cƣ dân đóng tàu thuyền có đƣợc những thuận lợi nào và gặp phải những khó
khăn ra sao?

- Trong bối cảnh tình hình chung của đất nƣớc hiện nay, cƣ dân đóng
tàu thuyền đã có những động thái nhƣ thế nào để gìn giữ những giá trị truyền
thống do cha ông truyền lại và hội nhập với bối cảnh xã hội đƣơng đại?
4. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về một số khía cạnh trong đời sống của cƣ dân
đóng tàu thuyền (các hoạt động sinh kế, sinh hoạt văn hóa và tổ chức xã hội).
Địa bàn nghiên cứu là xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Nghề đóng tàu, thuyền là hoạt động kinh tế chính của cƣ dân tại đây. Tại địa
bàn nghiên cứu nghề đóng tàu thuyền đã có lịch sử hơn 700 năm, trải qua
nhiều thế hệ lao động, nghề đƣợc duy trì đến ngày nay, với 13 xƣởng sản
xuất, có hàng trăm lao động đang làm việc đều cƣ trú tại địa bàn.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn nghiên cứu cuộc sống hiện nay của
ngƣời làm nghề đóng tàu. Năm 1991 là thời kỳ hợp tác xã đóng tàu theo cơ
chế bao cấp nhà nƣớc giải tán, sau đó các xƣởng sản xuất tƣ nhân lần lƣợt
đƣợc thành lập và triển khai mơ hình sản xuất đến nay, vì vậy, nghiên cứu tập
trung nghiên cứu từ giai đoạn này.
7


5. Nguồn tƣ liệu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng nguồn tƣ liệu từ nhiều
nguồn khác nhau. Trƣớc hết, là các cơng trình nghiên cứu, bài viết có liên
quan cƣ dân ven biển nói chung và cƣ dân làm nghề đóng tàu thuyền nói riêng
của các học giả trong nƣớc và ngoài nƣớc đƣợc xuất bản dƣới dạng sách
chuyên khảo, kỷ yếu hội thảo, bài báo khoa học. Hai là, nguồn thông tin quan
trọng nhất và chủ yếu là nguồn tài liệu chúng tôi thu thập đƣợc qua quá trình
điền dã tại địa bàn nghiên cứu là xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An. Chúng tôi làm việc với ban lãnh đạo chính quyền địa phƣơng, trình bày
với họ về đề tài nghiên cứu, xin phép họ đƣợc tạm trú tại xã. Khi đƣợc chính
quyền cho phép, chúng tơi bắt đầu q trình điền dã tại địa bàn nghiên cứu,

tiến hành phỏng vấn và tham gia các hoạt động lao động sản xuất, các sinh
hoạt văn hóa, tín ngƣỡng của ngƣời đóng tàu, thuyền.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là nghiên cứu chuyên sâu về cƣ dân đóng tàu thuyền ở xã
Nghi Thiết nhằm đƣa ra các đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn. Về mặt
khoa học, luận văn cung cấp cho ngành Nhân học và các bộ môn liên quan tƣ
liệu mới, phong phú và có hệ thống về cƣ dân đóng tàu thuyền ở Nghệ An.
Thứ hai, áp dụng các lý thuyết sinh kế, sinh thái học văn hóa và biến đổi văn
hóa vào thực tế nghiên cứu ngƣời làm nghề đóng tàu ở xã Nghi Thiết, luận
văn khơng chỉ làm rõ rằng cƣ dân đóng tàu khơng phải là một bộ phận dân cƣ
mờ nhạt ở ven biển mà họ đã hình thành nên một cộng đồng nghề nghiệp rõ
ràng, có đời sống kinh tế văn hóa mang dấu ấn của riêng họ, phân tích những
yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động đóng tàu, thuyền, sự thích nghi với mơi
trƣờng cƣ trú của cƣ dân. Về mặt thực tiễn, luận văn chia sẻ mong muốn của
cƣ dân đóng tàu về những trăn trở, suy nghĩ của họ trong việc theo đuổi nghề
nghiệp và gìn giữ những giá trị văn hóa, lịch sử của địa phƣơng. Cuối cùng,
8


luận văn đề xuất một số kiến nghị để các cấp chính quyền có sự quan tâm, tạo
điều kiện để cƣ dân đóng tàu gìn giữ và phát triển đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần dẫn luận và kết luận, luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phƣơng pháp và
địa bàn nghiên cứu.
Chương 2. Đời sống kinh tế của cƣ dân đóng tàu, thuyền ở xã Nghi
Thiết.
Chương 3. Đời sống tinh thần và các vấn đề xã hội của cƣ dân đóng
tàu, thuyền ở xã Nghi Thiết


9


Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cƣ dân ven biển đã sớm đƣợc các nhà khoa học quan tâm tới, nhiều
cơng trình nghiên cứu quy mơ đã đƣợc thực hiện. Đầu tiên phải kể đến cuốn
sách của tác giả Nguyễn Duy Thiệu “Cộng đồng ngư dân Việt Nam” (Fishers
communities in Vietnam), đây là cuốn sách nghiên cứu một cách tổng thể
nhất về cộng đồng ngƣ dân ở nƣớc ta. Cuốn sách giới thiệu những nét khái
quát của cộng đồng ngƣ dân Việt Nam bao gồm quá trình hình thành các
nhóm ngƣ dân và sự hình thành cộng đồng ngƣ dân ở Việt Nam, cơ cấu tổ
chức xã hội của các cộng đồng nghề cá ở Việt Nam, đồng thời tác giả so sánh
với các làng xã nơng nghiệp cổ truyền, ngồi ra tác giả cịn đề cập đến đời
sống tín ngƣỡng trong cộng đồng ngƣ dân Việt Nam. Cuốn sách là một trong
những cơng trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về địa bàn dân cƣ vùng
biển1. Cƣ dân đóng tàu thuyền đƣợc đề cập trong cuốn sách với vai trò là
những ngƣời tham gia hoạt động kinh tế phụ2, khơng có các giá trị văn hóa
đặc sắc [36]. Cuốn sách “Cư dân mặt nước ở sông Hương và đầm phá Tam
Giang- Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Lê Duy Đại, có sự nghiên
cứu một cách chi tiết về một cộng đồng dân cƣ sinh sống và mƣu sinh trên
mặt nƣớc. Cuốn sách tập trung trình bày chi tiết về đời sống kinh tế, đời sống
xã hội và đời sống văn hóa của cƣ dân mặt nƣớc, họ có một con thuyền vừa
làm chỗ ở vừa là phƣơng tiên mƣu sinh, cuộc sống lênh đênh trên mặt nƣớc.
Đây là cơng trình nghiên cứu có đầu tƣ cơng phu về một cộng đồng ngƣ dân
tại một địa bàn cụ thể, đi sâu vào những khía cạnh nhỏ nhất trong đời sống
1

2

Khác với các nghiên cứu dân tộc học trƣớc đó, tập trung chủ yếu vào cộng đồng dân cƣ ở khu vực miền núi.
Kinh tế chính là ngƣ nghiệp.

10


ngƣời dân [8]. Các cuốn sách trên đều đề cập đến cƣ dân ven biển từ nghiên
cứu mang tính tổng quát đến nghiên cứu một địa bàn cụ thể, tuy nhiên, ngƣ
dân là cƣ dân đƣợc tập trung tìm hiểu, ngƣời làm nghề đóng tàu chƣa đƣợc đề
cập đến trong các cơng trình này.
Một nghiên cứu về cƣ dân ven biển thuộc lĩnh vực dân tộc học là luận
án tiến sĩ “Lối sống người dân làng chài hiện nay (nghiên cứu trường hợp tại
xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy và phường Ngọc Sơn, quận Kiến An, Hải
Phòng)” của Vũ Thị Hạnh, nêu lên những đặc điểm nổi bật trong lối sống của
cƣ dân làng chài về phƣơng diện mƣu sinh, phƣơng diện xã hội và đời sống
văn hóa, đặc biệt luận án cũng chỉ ra những biến đổi trong quan niệm về cách
tổ chức cuộc sống của cộng đồng cƣ dân [13]. Chun ngành văn hóa học có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa của cƣ dân ven biển. Luận án tiến
sĩ “Lễ hội cổ truyền cư dân ven biển Hải Phòng và sự biến đổi trong giai
đoạn hiện nay” của Lê Thanh Tùng, trình bày một cách tổng thể về các nhóm
lễ hội tiêu biểu, đặc trƣng của lễ hội cổ truyền cƣ dân ven biển Hải Phịng
trong giai đoạn hiện nay. Luận án đã mơ tả rất đầy đủ về các lễ hội của cƣ dân
ven biển đồng thời đặt ra vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị lễ hội cổ
truyền trong đời sống văn hóa, xã hội đƣơng đại của cƣ dân ven biển [48].
Bên cạnh đó cịn có một số luận án khác cũng đề cập đến khía cạnh văn hóa
của cƣ dân ven biển nhƣ “Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng
Ngãi” của Nguyễn Đăng Vũ, “Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam- Đà
Nẵng: hình thái, đặc trưng, giá trị” của Nguyễn Xuân Hƣơng. Cƣ dân ven

biển đƣợc mặc định là ngƣ dân, trong khi đó, thợ đóng tàu thuyền cũng cƣ trú
ven biển nhƣng các cơng trình nghiên cứu đều khơng đề cập đến [48], [54].
Bài viết “Các loại hình làng ven biển ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hóa” của Phạm Văn Tuấn, đề cập đến các loại làng ven biển phân theo nhiều
tiêu chí khác nhau. Làng ven biển đƣợc phân loại ở đây là làng của ngƣ dân,
11


làng của thợ đóng tàu đƣợc đặt nằm trong cộng đồng làng của ngƣ dân [47].
Trong cuốn “Cộng đồng ngư dân ở Nam Bộ” của Trần Hồng Liên, ngoài việc
đề cập đến đối tƣợng chính là cộng đồng ngƣ dân, tác giả đã nhắc tới nhóm cƣ
dân đóng tàu thuyền, tuy nhiên họ đƣợc nêu ra với vị thế là những ngƣời tham
gia các hoạt động kinh tế phụ3 [22]. Các nghiên cứu về cƣ dân ven biển chỉ
tập trung vào ngƣ dân, chƣa có những trình bày về cộng đồng ngƣời làm nghề
đóng tàu, thuyền trong các đề tài này.
Trong lĩnh vực kinh tế học, cuốn sách “Đổi mới và phát triển kinh tế
ven biển” của Lê Cao Đoàn, đã đề cập đến các đặc điểm tự nhiên và tiềm
năng phát triển kinh tế xã hội vùng bồi tụ nƣớc lợ ven biển tỉnh Thái Bình.
Trong cuốn sách, tác giả đề cập đến nhiều ngành kinh tế ven biển nhƣ đánh
bắt và nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp ven biển, nghề đóng và sửa chữa tàu
thuyền khơng đƣợc tác giả đề cập tới [9]. Luận án tiến sĩ “Giải pháp chính
sách phát triển kinh tế ven biển của tỉnh Thanh Hóa” của Lê Minh Thơng, đề
cập đến nhiều ngành nghề kinh tế ven biển trong đó nghề đóng và sửa chữa
tàu biển đƣợc xếp vào nhóm các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai
thác và sử dụng tài nguyên biển [42]. Ở cách tiếp cận kinh tế học, khi nghiên
cứu về cộng đồng ven biển, các tác giả tập trung chủ yếu vào ngành kinh tế
chính là đánh bắt và ni trồng thủy sản, đóng tàu thuyền là một hoạt động
kinh tế phụ bổ trợ cho nghề đi biển của ngƣ dân.
Khóa luận tốt nghiệp đại học “Bảo tồn và phát triển làng nghề đóng
tàu, thuyền làng Cống Mương (khu 8, phường Long Hải, đảo Hà Nam, thị xã

Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh)” của Khiếu Thị Mai Lan, đã khảo sát nghề
đóng tàu thuyền ở khía cạnh làng nghề. Tác giả khóa luận tập trung trình bày
về hoạt động đóng tàu thuyền từ truyền thống đến biến đổi và đặt ra vấn đề
bảo tồn làng nghề nhƣ thế nào [20]? Ngồi ra, cịn rất nhiều bài báo, bài viết
3

Cho nghề đi biển.

12


trên các mạng internet đề cập đến hoạt động kinh tế đóng và sửa chữa tàu
thuyền.
Có thể thấy, nghiên cứu về cộng đồng cƣ dân ven biển đã đƣợc quan
tâm trên nhiều lĩnh vực nhƣ dân tộc học, văn hóa học, kinh tế học,… Các
cơng trình khi lựa chọn địa bàn nghiên cứu này tập trung nhiều vào ngƣ dân
trên mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Bộ phận dân cƣ đóng tàu
thuyền ven biển chƣa đƣợc nhắc đến trong các nghiên cứu với vị trí trung
tâm, chƣa đƣợc khảo sát một cách có hệ thống.
1.2. Tiếp cận lý thuyết
Nghiên cứu về một cộng đồng luôn là một vấn đề rộng, đòi hỏi nhà
nghiên cứu phải xét đến mọi khía cạnh xoay quanh cộng đồng nghiên cứu đó.
Vì thế, với đề tài nghiên cứu “Cư dân đóng tàu thuyền ở xã Nghi Thiết, huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An” tôi cần phải sử dụng rất nhiều lý thuyết để lý giải các
phát hiện tại địa bàn nghiên cứu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn Thạc
sĩ, tôi chỉ sử dụng hai lý thuyết chủ đạo cho nghiên cứu: Lý thuyết về sinh kế,
hƣớng tiếp cận sinh thái học văn hóa.
1.2.1. Lý thuyết về sinh kế
Hƣớng tiếp cận của lý thuyết sinh kế là hƣớng tiếp cận không thể
thiếu trong các nghiên cứu về cộng đồng ở nông thôn. Trong nghiên cứu về

nông thôn và giảm nghèo trong hai thập kỷ qua vấn đề sinh kế và sinh kế bền
vững đã trở thành mục tiêu phân tích ở cả cấp độ vĩ mơ và vi mơ, trong đó
khung sinh kế bền vững đƣợc coi là một cách tiếp cận tồn diện về các vấn đề
phát triển thơng qua việc thảo luận về sinh kế của con ngƣời và đói nghèo
trong các bối cảnh khác nhau. Theo quan điểm của khung sinh kế bền vững
do bộ phát triển quốc tế Anh (Department for International Development –
DFID), khung phân tích này đề cập đến các yếu tố và thành tố hợp thành sinh
kế: các ƣu tiên mà con ngƣời có thể nhận biết đƣợc; các chiến lƣợc mà họ lựa
13


chọn để theo đuổi các ƣu tiên đó; các thể chế, chính sách và tổ chức quyết
định đến sự tiếp cận của họ đối với các loại tài sản hay cơ hội và các kết quả
mà họ thu đƣợc; các tiếp cận của họ đối với năm loại vốn và khả năng sử
dụng hiệu quả các loại vốn mình có; bối cảnh sống của con ngƣời, bao gồm
các xu hƣớng kinh tế, công nghệ, dân số, các cú sốc và mùa vụ. Năm loại vốn
kể trên bao gồm vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội, vốn con ngƣời và vốn
tự nhiên. Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng và các loại hàng hóa mà ngƣời
sản xuất cần để hậu thuẫn sinh kế. Vốn tài chính ngụ ý về các nguồn lực tài
chính mà con ngƣời sử dụng để đạt đƣợc các mục tiêu sinh kế của mình. Vốn
xã hội là các nguồn lực xã hội mà con ngƣời sử dụng để theo đuổi các mục
tiêu sinh kế của mình, bao gồm quan hệ, mạng lƣới, thành viên nhóm, niềm
tin sự phụ thuộc lẫn nhau và trao đổi cung cấp các mạng an ninh phi chính
thống quan trọng. Vốn con ngƣời là những kỹ năng, trí thức, khả năng làm
việc và sức khỏe tốt, tất cả cộng lại tạo thành những điều kiện giúp con ngƣời
theo đuổi các chiến lƣợc sinh kế khác nhau và đạt đƣợc mục tiêu sinh kế. Vốn
tự nhiên là tất cả các nguyên vật liệu tự nhiên để tạo dựng sinh kế hộ gia đình
hay cộng đồng. Khung phân tích này lấy con ngƣời và sinh kế của họ làm
trung tâm của sự phân tích, nghĩa là đặt con ngƣời ở trung tâm của sự phát
triển. Khung phân tích này thừa nhận rằng các chính sách, thể chế và q

trình có ảnh hƣởng đến sự tiếp cận và việc sử dụng các tài sản mà cuối cùng
chúng đều ảnh hƣởng đến sinh kế. Sinh kế của con ngƣời đƣợc phân tích dƣới
góc độ sở hữu và tiếp cận các loại vốn, hay tài sản vốn [28, tr.103], [32, tr.
26].
Trên cơ sở khung sinh kế nông thôn bền vững (Sustainable Ruaral
Livelihoods Framework) của Scoones (1998) và khung sinh kế bền vững
(Sustainable Livelihoods Framework) của DFID (2001), năm 2004, tổ chức
nghiên cứu phát triển bền vững vƣơng quốc Anh (IMM) đã sửa đổi lại để áp
14


dụng cho các cộng đồng ven biển đƣợc gọi là “khung sinh kế bền vững vùng
ven biển” [44, tr.27].
Theo IMM, sinh kế của các hộ gia đình ven biển chịu tác động của 3
nhóm yếu tố, các yếu tố thuộc nhóm thứ nhất bao gồm các nguồn lực sinh kế
(5 loại nguồn lực) mà hộ gia đình sử dụng để thực hiện các hoạt động sinh kế.
Nhóm thứ hai là các yếu tố về đặc điểm cá nhân nhƣ (tuổi tác, giới tính, tơn
giáo,…) và các yếu tố xã hội (nhƣ cơ cấu chính trị, chính sách luật pháp,…)
có ảnh hƣởng trực tiếp đến cộng đồng ven biển. Nhóm thứ ba bao gồm các
yếu tố ảnh hƣởng gián tiếp nhƣ tính mùa vụ, thiên tai, xu hƣớng bên ngồi,…
sự lựa chọn các hoạt động sinh kế ven biển dựa trên những nguồn lực sinh kế
hiện tại là kết quả của sự tƣơng tác giữa ba nhóm yếu tố này [44, tr.27-28].
Nhƣ vậy, ý tƣởng chung về các khung sinh kế bền vững là: các hộ gia
đình dựa vào các nguồn lực sinh kế hiện có (bao gồm: nguồn lực con ngƣời,
tự nhiên, tài chính, vật chất và xã hội) trong bối cảnh thể chế và chính sách ở
địa phƣơng sẽ thực hiện các hoạt động sinh kế (nhƣ sản xuất nơng nghiệp,
đánh bắt, ni trồng, du lịch, đa dạng hóa các loại hình sinh kế,…) nhằm đạt
đƣợc các kết quả sinh kế bền vững (nhƣ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập,
giảm rủi ro và khản năng bị tổn thƣơng, cải thiện an ninh lƣơng thực, sử dụng
bền vững hơn các nguồn tài nguyên…) dƣới sự tác động của bối cảnh bên

ngồi (các cú sốc, các xu hƣớng và tính mùa vụ) [44, tr.28].
Với cơ sở lý luận trên của lý thuyết về sinh kế, luận văn vận dụng lý
thuyết nhằm tìm hiểu về:
- Cƣ trú ven biển tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân trong
việc lựa chọn nghề nghiệp và đa dạng hóa các hoạt động sinh kế của mình.
Đóng và sửa chữa tàu thuyền khơng phải là nghề có nhiều dân cƣ ven biển lựa
chọn làm sinh kế. Lựa chọn nghề đóng và sửa chữa tàu thuyền làm sinh kế là
một tính tốn nhằm mục đích kinh tế hay vì đó là nghề do cha ông truyền lại.
15


- Nguồn tiêu thụ các sản phẩm của nghề rất hạn chế bởi trong cộng
đồng khơng phải gia đình nào cũng sắm đƣợc tàu, thuyền đi biển, hơn nữa
một chiếc tàu, thuyền có thể sử dụng đƣợc rất lâu. Để các sản phẩm đƣợc tiêu
thụ cần có một thị trƣờng rất rộng. Việc duy trì đƣợc nghề do cha ơng truyền
lại bên cạnh kỹ thuật làm nghề cịn phải tìm thị trƣờng cho sản phẩm. Quan hệ
giữa ngƣời khách hàng và ngƣời sản xuất chính là một cơ hội để ngƣời làm
nghề tìm lối ra cho sản phẩm hay dựa vào chất lƣợng của sản phẩm làm ra là
yếu tố quyết định đến khả năng tiêu thụ.
- Nguồn vốn tài chính phải bỏ ra để làm nên một chiếc tàu, thuyền là
rất lớn. Khách hàng của họ là ngƣ dân, nguồn vốn duy trì nghề do đó phụ
thuộc rất nhiều vào khả năng chi trả của ngƣ dân. Các chính sách của nhà
nƣớc đối với ngƣ dân có tác động gián tiếp đến những ngƣời làm nghề đóng
tàu, thuyền.
- Hiện nay, tình hình biển Đơng đang là vấn đề đƣợc quan tâm nhiều
nhất. Nhiều chính sách của nhà nƣớc nhằm hỗ trợ cho ngƣ dân đóng tàu
thuyền đi biển để phát triển kinh tế và tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Ngƣời thợ đóng tàu có nhiều đơn đặt hàng từ ngƣ dân. Đây là điều kiện thuận
lợi để nghề đóng tàu thuyền phát triển và cộng đồng dân cƣ này phát triển về
kinh tế, xã hội.

Có thể thấy, trƣớc sự lựa chọn một hoạt động kinh tế, từng nhóm cƣ
dân phải cân nhắc giữa các nguồn vốn mà họ có để duy trì nguồn sinh kế. Mặt
khác, để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cũng là một vấn đề, các nhóm cƣ
dân lựa chọn một sinh kế, tận dụng các nguồn vốn họ có để duy trì và phát
triển ngành nghề. Mỗi một nguồn vốn đều có vai trò nhất định đối với sự tồn
tại của hoạt động kinh tế. Trong thời điểm diễn biến kinh tế nƣớc ta có nhiều
biến động, nghề đóng và sửa chữa tàu, thuyền cũng chịu tác động của bối
cảnh chung.
16


1.2.2. Hƣớng tiếp cận sinh thái học văn hóa
Lý thuyết sinh thái văn hóa (cultural ecology)
Lý thuyết sinh thái văn hóa của Julian Steward (1902 - 1972) nhằm
tiếp cận văn hóa của con ngƣời và thích nghi nhƣ thế nào với các môi trƣờng
tự nhiên và môi trƣờng xã hội chính trị cụ thể. Con ngƣời trải nghiệm cuộc
sống của mình và phải thích nghi với các mơi trƣờng thơng qua bối cảnh văn
hóa. Sinh thái văn hóa là các dạng thức văn hóa hình thành và phát triển
tƣơng ứng với những môi trƣờng nhất định nhƣ sinh thái biển đảo, sinh thái
đồng bằng châu thổ, sinh thái thung lũng, sinh thái cao ngun... Việt Nam có
rất nhiều loại hình sinh thái tự nhiên tƣơng ứng với vùng cƣ trú của các tộc
ngƣời. Những tộc ngƣời sinh sống lâu đời tại một mơi trƣờng sinh thái nào thì
nhất định họ sẽ trải nghiệm, thích nghi, sáng tạo, hình thành những kỹ năng
sinh sống và thể hiện sắc thái tâm lý cũng nhƣ những dạng thức văn hóa phù
hợp với mơi trƣờng sinh thái ấy, đó là sinh thái văn hóa tộc ngƣời. Các cƣ
dân, đó chính là chủ nhân văn hóa (culture bearer).
Trong q trình sinh tồn của mình, con ngƣời phụ thuộc rất nhiều vào
tự nhiên. Từ những thành tựu văn hóa có đƣợc qua sự thích nghi mơi trƣờng
sinh thái tại chỗ, con ngƣời có thể hình thành nên những loại hình văn hóa
nhƣ là một tập hợp những sắc thái văn hóa đặc trƣng và tạo nên yếu tố cốt lõi

của nền văn hóa. Ngồi ra, cũng trong chính sự thích nghi với mơi trƣờng
sinh thái, con ngƣời đã hình thành nên những phƣơng thức sinh hoạt kinh tế,
những tín ngƣỡng tơn giáo..., bởi vì bất kỳ ở đâu, trong việc hình thành làng
xóm, xây dựng nhà ở, cách ăn, mặc, các phƣơng tiện tiện di chuyển, cơng cụ
sản xuất, tín ngƣỡng tơn giáo, văn học nghệ thuật... ngƣời dân tại chỗ đều
thích nghi với điều kiện thiên nhiên và môi trƣờng sinh thái tại nơi sinh sống
để họ có thể tồn tại và phát triển. Qua nghiên cứu sinh thái văn hóa, ngƣời học
sẽ hiểu đƣợc cách ngƣời Việt hay các dân tộc khác sống tại Việt Nam sử dụng
17


văn hóa để thích nghi với mơi trƣờng thiên nhiên cụ thể cũng nhƣ sáng tạo
nên những sắc thái văn hóa lâu dần trở thành đặc trƣng văn hóa của họ và của
vùng [13, tr.21].
Luận văn vận dụng lý thuyết Sinh hái học văn hóa để tìm hiểu các nội
dung sau:
- Cộng đồng cƣ dân làm nghề đóng và sửa chữa tàu thuyền cũng nhƣ
các cộng đồng nghề nghiệp khác, họ với đặc trƣng nghề nghiệp của mình và
đặc điểm cƣ trú, họ cũng tạo nên một bản sắc văn hóa của riêng họ. Nền văn
hóa đó vừa mang dấu ấn của cƣ dân ven biển vừa mang sắc thái của tầng lớp
thợ thủ công nghiệp.
- Với sự xâm nhập của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự len
lỏi của kinh tế thị trƣờng, các giá trị văn hóa truyền thống của cƣ dân đóng tàu
thuyền dần bị mai một, cộng đồng làng nghề đóng tàu khơng có ý thức gìn giữ
văn hóa mạnh mẽ nhƣ cộng đồng ngƣ dân vì văn hóa của họ khơng tiêu biểu
cho một không gian cƣ trú hay một tầng lớp xã hội.
- Khác với ngƣ dân, cộng đồng dân cƣ đóng tàu thuyền cƣ trú trên bờ từ
lâu đời. Ngƣời làm nghề này thƣờng xuyên ở tại gia đình của mình, họ có
điều kiện gần gũi để chăm sóc và giáo dục con cái. Do đó, họ theo dõi đƣợc
hành vi thói quen cũng nhƣ những thay đổi tâm sinh lý của con, quản lý đƣợc

chặt chẽ con cái họ, nên trẻ vị thành niên ít sa vào tệ nạn xã hội hơn so với
nhóm cộng đồng của ngƣ dân.
- Đặc trƣng cƣ trú ven biển của cƣ dân đóng tàu đƣợc thể hiện rõ nét
nhất qua cách họ tổ chức đời sống kinh tế.
Nói một cách khác, trƣớc từng mơi trƣờng cảnh quan và mơi trƣờng
xã hội, các nhóm cƣ dân phải nắm bắt đƣợc đặc điểm của nơi cƣ trú để định
hình các phƣơng thức mƣu sinh. Trên nền mƣu sinh nhƣ vậy, thợ đóng tàu
thuyền hình thành các mối quan hệ xã hội, đƣợc biểu hiện, duy trì trong các
18


thiết chế xã hội và đƣợc điều chỉnh bằng các quy định của phong tục, lệ tục.
Các đặc điểm kinh tế- xã hội của cƣ dân đóng tàu thuyền đƣợc hình thành các
hình thái tín ngƣỡng, các sinh hoạt văn hóa và đƣợc trao truyền cho các thế hệ
sau, thơng qua gia đình, dịng họ, làng và các quy định của phong tục, lệ tục…
Các đặc điểm về kinh tế, xã hội, văn hóa đó mang tính ổn định cao song cũng
dễ thay đổi khi môi trƣờng sống thay đổi.
1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đối với một nghiên cứu nhân học, điền dã dân tộc học là công việc
không thể thiếu. Vì thế, để tiến hành nghiên cứu này, tác giả đã dành thời gian
làm việc trên thực địa là ba tháng, từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 4 năm
2015. Tác giả chọn thời gian với mục đích lựa thời điểm giữa hai năm âm lịch
(cuối năm cũ, đầu năm mới)4. Đây là thời điểm cƣ dân đóng tàu thuyền có
nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội đƣợc tổ chức, đặc biệt là các hoạt
động văn hóa. Hiện nay tại địa bàn nghiên cứu có 13 xƣởng đóng tàu thuyền
có quy mơ lớn nhỏ khác nhau, mỗi xƣởng thuộc quyền sở hữu của một gia
đình. Trong xƣởng gồm hai bộ phận là chủ xƣởng và ngƣời làm thuê. Cả hai
bộ phận dù là ngƣời lao động hay là ngƣời sử dụng lao động, sinh kế chính
của họ là nghề đóng tàu thuyền, vì vậy, cả chủ và thợ đều là đối tƣợng nghiên
cứu của đề tài này. Tác giả áp dụng các phƣơng pháp vào đối tƣợng nghiên

cứu nhƣ sau:
Quan sát tham dự đƣợc tiến hành tại xƣởng đóng tàu. Tác giả tham gia
vào đời sống sinh hoạt của các gia đình chủ xƣởng và tham gia vào cơng việc
sản xuất hàng ngày của xƣởng. Q trình quan sát chú trọng tới cách tổ chức
sắp xếp sinh hoạt trong gia đình ơng chủ, các hình thức tín ngƣỡng, kiêng kỵ,
cách giao tiếp với khách hàng và ngƣời làm th, đặc biệt là quy trình đóng

4

cuối năm Giáp Ngọ và đầu năm Ất Mùi

19


tàu, thuyền. Ngồi ra, các hoạt động văn hóa đƣợc diễn ra tại các địa điểm
khác trong địa bàn nghiên cứu cũng đƣợc tác giả chú ý quan sát.
Phƣơng pháp phỏng vấn đƣợc thực hiện dƣới ba hình thức: phỏng vấn
phi cấu trúc, phỏng vấn cấu trúc và phỏng vấn nhóm tập trung.
Phỏng vấn phi cấu trúc đƣợc áp dụng với đối tƣợng là ngƣời làm chủ
xƣởng thơng qua hình thức là các cuộc trò chuyện cởi mở xung quanh chủ đề
về nghề đóng tàu thuyền để thơng tín viên có thể kể trải lịng về cuộc sống
của họ sau rất nhiều năm gắn bó với quê hƣơng với làng nghề. Các cuộc
phỏng vấn diễn ra trong các câu chuyện hàng ngày. Tất cả các ông bà chủ của
13 xƣởng đóng tàu ở địa bàn đều đƣợc thực hiện phỏng vấn, trong đó tác giả
nói chuyện nhiều lần với 20 ngƣời, hỏi lại nhiều thông tin để xác định lại độ
chính xác của thơng tin từ cuộc phỏng vấn. Các thơng tin thu thập từ mọi khía
cạnh trong cuộc sống của họ từ những vấn đề liên quan đến cuộc sống mƣu
sinh, cách thức tổ chức xã hội, đời sống văn hóa tinh thần, quan hệ giao lƣu
với các cộng đồng cƣ trú ở xung quanh, đặc biệt là lý do họ duy trì nghề
nghiệp cha ơng truyền lại trong một thời gian dài, có những khó khăn thuận

lợi, những tính tốn nhƣ thế nào.
Sử dụng phỏng vấn cấu trúc với hai đối tƣợng là những ngƣời thợ làm
thuê ở các xƣởng đóng tàu và khách hàng các xƣởng đóng tàu (chính là ngƣ
dân). Ngƣời thợ làm thuê ở xƣởng đóng tàu và khách hàng có tác động đến sự
duy trì của nghề tại địa phƣơng. Nhằm mục đích tìm hiểu suy nghĩ của ngƣời
thợ làm thuê khi chọn nghề đóng tàu làm sinh kế, những quy tắc nghề nghiệp
mà họ phải tuân thủ và có sự khác biệt nào so với ngƣời làm chủ, đánh giá của
họ về tình hình phát triển và triển vọng của nghề, dự định của họ đối với nghề
nghiệp trong tƣơng lai. Tác giả tiến hành 30 cuộc phỏng vấn với độ tuổi và
trình độ tay nghề khác nhau bao gồm cả nam giới và phụ nữ. Các cuộc phỏng
vấn đƣợc tiến hành tại xƣởng đóng tàu, tranh thủ thời gian nghỉ của thợ, tác
20


giả thực hiện phỏng vấn. Tác giả còn áp dụng phƣơng pháp phƣớng vấn cấu
trúc với khách hàng của các xƣởng đóng tàu. Ngƣời nghiên cứu khai thác các
thơng tin về hiểu biết của họ về cộng đồng cƣ dân đóng tàu thuyền, đánh giá
của họ về các sản phẩm, mối quan hệ giữa ngƣời bán hàng và khách hàng
đƣợc duy trì nhƣ thế nào. Tuy nhiên đối tƣợng phỏng vấn này, một số ngƣời
có sản phẩm đang sản xuất tại xƣởng, có thể tiến hành phỏng vấn trực tiếp,
một số ngƣời đã trở về địa phƣơng làm nghề, tác giả phỏng vấn gián tiếp bằng
email5. Tác giả thực hiện 20 cuộc phỏng vấn.
Tác giả tiến hành 6 cuộc phỏng vấn nhóm dành cho ba lứa tuổi trên 50
tuổi, từ 35 đến 50 tuổi và dƣới 35 tuổi, mỗi lứa tuổi chia làm hai nhóm: nhóm
nam và nhóm nữ. Phỏng vấn nhóm tập trung về chủ đề chính là động lực nào
giúp nghề đóng tàu thuyền ở địa phƣơng cịn đƣợc duy trì đến ngày nay, hiện
trạng phát triển của nghề đóng tàu hiện nay, triển vọng của nghề này, các
chính sách của nhà nƣớc có đáp ứng đƣợc nhu cầu của cƣ dân làm nghề và
mong muốn của họ về nghề này.
1.4. Khái quát địa bàn nghiên cứu

1.4.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Xã Nghi Thiết ở về phía Đơng Bắc huyện Nghi Lộc bên bờ Bắc sơng
Cửa Lị. Phía Bắc giáp xã Nghi Tiến, phía Tây giáp xã Nghi Quang, phía Nam
là sơng Lị và thị xã Cửa Lị, phía Đơng giáp biển. Tạo nên địa bàn nơi đây
nhƣ một bán đảo. Diện tích tự nhiên: 612,73 ha6. Nghi Thiết có địa hình tự
nhiên hiểm trở, đa dạng. Đông và Nam là biển và cửa sơng. Nhìn chung, tồn
xã núi đồi, gị bãi và thung lũng kế tiếp xen kẽ nhau.

5

Tác giả nhờ chủ xƣởng liên lạc trƣớc với khách hàng của họ. Ngƣời nghiên cứu sau khi đƣợc đối tƣợng
đồng ý trả lời phỏng vấn, gửi câu hỏi vào hộp thƣ của khách hàng, sau đó nhận câu trả lời từ ngƣời đƣợc
phỏng vấn.
6
Số liệu do UBND xã cung cấp

21


Phía Bắc là dãy núi Cánh Phƣợng hình vịng cung, dài hàng ngàn mét,
thế núi cao lớn bao quanh thung lũng Đơng Vang. Phía Nam núi Phƣợng là
thung lũng Đơng Ngàn. Phía Đơng là bãi cát kéo dài từ núi Mào Gà tới núi
Rồng. Phía Nam xã trên bờ bắc cửa Lị sơng Cấm, núi Rồng nhơ ra biển
Đơng. Giữa hai núi là đồi thấp, rộng hơn 500m, dài hơn 1km, dốc thoai thoải
về hai phía Bắc và Nam. Địa hình đồi núi, gị bãi khúc khuỷu khơng thuận lợi
cho việc phát triển nơng nghiệp [16, tr.5].
Địa bàn xã có nhiều tài nguyên thiên nhiên nhƣ cát xây, đá xây,
khoáng sản, động, thực vật, đặc biệt có nhiều thủy hải sản. Đất có ba loại chủ
yếu là đất đồi núi, đất vùng trũng và đất cát ở gò bãi ven sơng, biển. Đất đồi
núi chiếm 50% diện tích, trong đó có những vùng ven núi và đồi gị đƣợc

nhân dân khai thác cải tạo thành địa bàn cƣ trú. Đất ở hai thung lũng Đông
Vang và Đông Ngàn rộng trên 600 ha. Đây là vùng đất trũng, xƣa kia Đông
Ngàn bị ngập mặn, quá trình biến cải lâu dài của tự nhiên cùng với sự khai
khẩn lao động, cải tạo của con ngƣời mà thành đất trồng trọt, đất còn có phù
sa và núi đồi bồi đắp nên đã trở thành vùng đất màu mỡ có thu hoạch khá tốt.
Đất cát chiếm một diện tích lớn ven sơng, ven biển, thích hợp với các loại cây
rừng phịng hộ nhƣ phi lau, keo lá tràm và cây ngập mặn nhƣ sác, sú, vẹt,
đƣợc,… [16, tr. 6 - 7].
Nguồn nƣớc ở đây nhiều nhất là nƣớc mặn, nƣớc ngọt phụ thuộc vào
tự nhiên, nguồn nƣớc ngầm đƣợc khai thác qua các giếng đào, chất lƣợng
nƣớc tốt song thƣờng bị khan hiếm vào mùa hè. Do độ che phủ trên các núi
đồi ngày nay mất mát nhiều, các rừng cây bị chặt phá làm cho nƣớc trong
lòng núi, lòng đất giảm sút rất nhiều. Đặc biệt, tại địa bàn xã có mạch ngầm
giếng thủy tiên từ núi Rồng chảy từ xƣa đến nay khơng cạn, đó là mạch nƣớc
khống thiên nhiên đƣợc sử dụng làm nƣớc giải khát và chữa bệnh.

22


Rừng tự nhiên trƣớc đây gồm các dải rừng đại ngàn trên các đỉnh đồi
phía Bắc và phía Nam xã với nhiều loại gỗ và chim thú quý hiếm nhƣ cò, vạc,
le le, vịt, sa sá… Các vùng đất ngập mặn trƣớc đây ở phía đơng và nam xã các
lồi cây chịu mặn nhƣ sác, sú, vẹt mọc thành rừng, tạo thành môi trƣờng sinh
thái cho nhiều loại thủy hải sản, cua ốc và các loài chim, thú phát triển.
Nghi Thiết nằm trong tiểu vùng khí hậu ven biển Bắc Trung Bộ nên
chịu ảnh hƣởng của chế độ gió mùa, tạo nên hai mùa khá rõ: mùa nóng và
màu lạnh. Mùa nóng thƣờng bị gió phơn Tây Nam thổi mạnh mang theo hơi
nóng ảnh hƣởng đến sản xuất và đời sống của ngƣời dân. Là xã ven biển nên
Nghi Thiết thƣờng xuyên hứng chịu nhiều trận bão tố gây thiệt hại cho cuộc
sống của ngƣời dân [55].

1.4.2. Dân cƣ
Truyền thuyết cho rằng: khi Thục An Dƣơng Vƣơng thất thủ chạy đến
chân núi Mộ Dạ ở ven biển, công chúa Mỵ Châu bị hàm oan, nhà vua tuẫn
tiết, quân sĩ tan tác. Những ngƣời còn lại men theo sƣờn núi ven biển để tìm
nơi lánh nạn. Đến eo núi Cánh Phƣợng ngƣời ta tìm thấy một thung lũng cây
cối um tùm, đƣợc bao bọc ba phía nhƣ vịng cung. Phía ngồi vòng cung là bờ
biển với nhiều bãi cát, bãi đá tự nhiên tạo nên một địa thế vừa kín đáo thuận
lợi cho việc nƣơng náu vừa dễ dàng cho việc mƣu sinh. Vì vậy, những binh
lính đó dần trở thành dân lƣu cƣ. Họ khai phá và cải tạo thung lũng này thành
một cánh đồng màu mỡ, tuy không rộng lớn nhƣng vẫn đủ cho họ sinh sống
với hai nghề: trồng cây lƣơng thực và chài lƣới [55].
Theo thời gian, những dòng ngƣời thiên lý đến đây ngày một nhiều
hơn. Họ tụ tập và chung sống cùng nhau. Một cộng đồng dân cƣ sớm đƣợc
hình thành.
Nhiều tƣ liệu khảo cổ học và lịch sử đã chứng minh về địa bàn cƣ trú
của cƣ dân Âu Lạc trên đất Nghệ Tĩnh. Trong sách “Lịch sử Nghệ Tĩnh tập 1”
23


×