Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Việc nghiên cứu về đề tai ly hôn giúp chúng ta hiểu biết hơn về nguyên nhân, hậu quả từ đó trang bị cho bản thân kiến thức trước khi bước vào giai đoạn hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.3 KB, 27 trang )

Đề 7
MỞ BÀI

Mục tiêu nghiên cứu
Từ ngàn đời nay gia đình ln là nơi hình thành và ni dưỡng nhân
cách của mỗi con người và con người là cái cốt lỗi để tạo nên xã hội .
Gia đình có ấm êm, hạnh phúc mới tạo ra những con người văn minh ,
tài giỏi góp phần cho một xã hội tươi đẹp, một đất nước vững chắc, hùng
mạnh. Đồng thời trong lời nói đầu của Luật Hơn nhân và gia đình cũng
có nêu : “Gia đình là tế bào của xã hội là cái noi nuôi dưỡng con người,
là môi trường quan trọng hình thành giáo dục nhân cách góp phần và
giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Chính vì vậy, vai trị và vị trí của gia
đình ngày càng được quan tâm và đề cao trong xã hội. Để xây dựng và
vung vén một gia đình tốt đẹp thì trước tiên chúng ta phải hiểu được gia
đình là gì? Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và
gia đình. Xã hội ln có sự vận động thay đổi khơng ngừng vì vậy sự
vận động, sự biến đổi và phát triện khong ngừng của nền kinh tế và
nhiều mặt khác cũng ảnh hưỡng rất lớn đối vs mối quan hệ giữ người
với người . Sự tác động này tạo nên sự phát triển nhưng một mặt cũng
gây nên mặt trái đối với các vấn đề trong xã hội. Mối quan hệ gia đình,
hay mối quan hệ vợ chồng, cũng chịu những ảnh hưởng nhất định. Bên
cạnh những truyền thống tốt đẹp trong hôn nhân từ xưa đến nay được kế
tục và phát huy thì mặt trái của xã hội đã tạo nên một thực trạng đáng lo
ngại chính là vấn đề ly hôn. Như mấy chục năm về trước vấn đề ly hôn
không được nhắc đến nhiều và cũng khơng có nhiều gia đình áp dụng,
việc ly hơn hiện nay trở nên cực bình thường và phổ biến. Như đã được
đề cập, con người ln có trình độ hiểu biết, cách nhìn nhận và giải


quyết vấn đề khác nhau, từ đó sinh ra những quan điểm khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau. Khơng phải gia đình nào cũng ấm êm, các cặp vợ
chồng cũng có lúc “cơm khơng lành, canh khơng ngọt”. Có thể vì khi
hơn nhân khơng cịn có thể vung vén xây đấp, hai bên khơng cịn có


tiếng nói chung nữa, cuộc hơn nhân khơng cịn có sự hạnh phúc dẫn đến
vấn đề ly hôn. Việc nghiên cứu về đề tai ly hôn giúp chúng ta hiểu biết
hơn về nguyên nhân, hậu quả từ đó trang bị cho bản thân kiến thức trước
khi bước vào giai đoạn hôn nhân, hạn chế phần nào việc ly hôn.
Đặt vấn đề
Có thể ai trong chúng ta cũng hiểu ly hơn là gì? Theo khoản 14 Điều
3 Luật hơn nhân và gia đình 2014 nêu rõ: Ly hơn là việc chấm dứt
quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án. Theo số liệu thống kê của báo đại đồn kết về vấn đề gia tăng tình
trạng ly hôn cho thấy:“ số vụ ly hôn ở Việt Nam hiện ở mức 60.000
vụ/năm, tương đương 0,75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hơn so với kết hơn là
25%, có nghĩa rằng, cứ 4 cặp vợ chồng đi đăng ký kết hơn thì một đơi ra
tịa.”. Trung tâm Tư vấn Giáo dục Tâm lý Thể chất Thành phố Hồ Chí
Minh nghiên cứu: “ hiện nay cứ bình quân 2,7 cặp kết hơn thì có một
cặp ly hơn. Độ tuổi ly hơn dưới 30 chiếm tỉ lệ cao và năm sau luôn tăng
hơn năm trước. Cũng theo khảo sát này, 43,4% cảm thấy cuộc sống của
mình thoải mái, tự do hơn sau khi ly hơn.Theo đó, Tiến sĩ Nguyễn Minh
Hịa có nghiên cứu và đưa ra: “tỉ lệ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh và
chiếm 31%- 40%, nghĩa là cứ ba cặp kết hơn thì có một cặp ly hơn.
Đồng thời theo thống kê của các trung tâm tư vấn tình u hơn nhân gia
đình ở Thành phố Hồ Chí Minh, số người đến tư vấn ly hôn chiếm đến
70% trong các ca tư vấn” và báo cáo của tòa án, trung bình hàng năm
Việt Nam có 600.000 vụ ly hơn, có tới 70% vụ ly hơn do người phụ nữ
đệ đơn.

Theo số liệu thống kê trên cho thấy ly hôn hiện đã và đang là một trong
thực trạng cực kì đáng lo ngại của nước ta cũng như trên thế giới hiện
nay. Việc tỷ lệ ly hôn gia tăng không những ảnh hưởng đến một gia đình
hay cá nhân mà còn ảnh hưởng cả một cộng đồng, một xã hội to lớn.
Đây được coi như một bài toán hết sức nan giải dành cho mỗi người, đất
nước và cơ quan chức năng có thẩm quyền phải làm sao để tình trạng ly
hôn ở nước ta giảm đến mức thấp nhất có thể. Để góp phần hạn chế việc
ly hơn phổ biến như hiện tại thì mọi người cần phải tự trang bị cho mình
một vốn kiến thức và giành ra một khoảng thời gian đủ dài để tìm hiểu
đối tượng kết hơn của bản thân. Đồng thời chính quyền địa phương các


cấp ở mọi khu vực cần quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp, các đồn
thể tăng cường cơng tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong
gia đình Việt Nam theo chủ đề nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình
trong gia đình dưới nhiều hình thức.
Khái niệm li hôn:
Theo khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 nêu rõ: Ly hơn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án.
Tòa án là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán quyết chấm dứt quan
hệ hơn nhân của vợ chồng. Phán quyết ly hơn của Tịa án thể hiện dưới
hai hình thức: bản án hoặc quyết định.
– Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hơn thỏa thuận với nhau giải quyết
được tất cả các nội dung quan hệ vợ chồng khi ly hơn thì Tịa án cơng
nhận ra phán quyết dưới hình thức là quyết định.
– Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tịa án ra phán quyết dưới
dạng bản án ly hơn.
Như vậy, ly hôn được định nghĩa tại Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 theo đó ly hơn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án.
Tham khảo tại:
/> /> />THỰC TRẠNG LY HÔN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA:

Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển, dân
trí và mức sống của người dân ngày càng nâng cao. Song, nước ta cũng


phải chịu nhiều ảnh hưởng của mặt trái xã hội. Tiêu biểu được nói trong
bài này là tình trạng hơn nhân của nhiều cặp vợ chồng trở nên căng
thẳng, gay gắt dẫn đến nhiều vụ li hôn sau này.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số vụ li hôn đã xét xử phân theo
địa phương và phân theo cấp xét xử từ năm 2013 đến năm 2018 có xu
hướng tăng nhanh. Nếu năm 2013 chỉ có 18.308 vụ ly hơn thì đến năm
2018 đã tăng đến 28.076 vụ. Kết qủa Tổng điều tra năm 2019 cho thấy,
tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên ly hôn hoặc ly thân là 2,1% tăng so với
năm 2009 là 1.4% . Bất kì cặp vợ chồng nào tiến tới hơn nhân đều mong
hạnh phúc, nhưng khi những rạn nứt bắt đầu xuất hiện thì giải pháp mà
họ chọn là ly hơn. Theo nghiên cứu của các nhà xã hội, có bốn ngun
nhân chính dẫn đến ly hơn: mâu thuẫn về lối sống (28%), ngoại tình
(25%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (7%).
Lấy thống kê từ một thành phố đơng dân – Thành phố Hồ Chí Minh,
theo Trung tâm tư vấn đào tạo tâm lý thể chất chỉ ra rằng hiện nay cứ
bình qn 2,7 cặp kết hơn thì có 1 cặp ly hôn. Độ tuổi ly hôn dưới 30
chiếm tỉ lệ cao và năm sau luôn tăng hơn năm trước.
Theo Viện Nghiên cứ gia đình và Giới, khu vực Tây Nam Bộ, giai
đoạn 2009-2017, ở khu vực đô thị, phj nữ có thể ly hơn ngay cả tuổi
trung niên để bắt đầ cuộc sống mới và nhiều phụ nữ đô thị ly hôn ở độ
tuổi rất cao (ly hôn ở tuổi 30-32 với tỷ lệ khoảng 6%). Ở nông thôn, phụ
nữ càng trẻ tuối càng có xu hướng ly hơn sớm hơn phụ nữ ở đô thị, nông

thôn trở nên cởi mở và tự do hơn về hôn nhân và gia đình (ly hơn ở tuổi
26-30 với tỷ lệ khoảng 7%). Nam giới ở đô thị cũng ly hôn ở độ tuổi cao
nhiều hơn so với nam giới khu vực nông thôn, thể hiện chủ nghĩa cá
nhân mạnh hơn ở khu vực đơ thị. Tác động của hiện đại hóa đang tăng
lên cả ở nông thôn và đô thị khi xem xét tuổi ly hôn của phụ nữ và nam
giới.
Ở Bạc Liêu, tạo tòa án Nhân dân thị xã Gia Rai, có 661 vụ ly
hơn/1.296 vụ án. Ở các huyện nông thôn, tỷ lệ này cũng ngày càng gia
tăng. Đa số vụ ly hơn trong các gia đình trẻ tăng nhanh chóng, trên 60%
số vụ ly hơn thuộc về các cặp vợ chồng dưới 30 tuổi, nhiều vụ ly hôn khi
mới kết hôn từ 1 tới 5 năm. Nhiều cặp vợ chồng trẻ đưa nha ra tịa ly hơn
một cách vui vẻ, xem như kết thúc một mối quan hệ trên mức bạn bè và
đường ai nấy đi.


Ta thấy, số vụ ly hơn ngày càng trẻ hóa. Một nghiên cứu riêng của
Viện Khoa học và Xã hội Việt Nam cho biết thêm rằng 60% số vụ ly
hôn là của các cặp vợ chồng trẻ có độ tuổi từ 23 đến 30 tuổi trong khi
70% số cặp ly hơn có cuộc sống hơn nhân từ 1 đến 2,7 năm. Việc hôn
nhân tan vỡ không chỉ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình, người
thân mà cịn gây nhiều hệ lụy cho xã hội. Sau những cuộc hôn nhân
không thành công là những đứa trẻ phải chịu thiệt thịi, sống trong cảnh
thiếu tình thương và sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha và mẹ.
Đánh giá về thực trạng
Tháng 10/2015 bà Lê Hồng Diệp Thảo giử đơn ly hơn ra tòa do thời
gian dài vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Sau nhiều năm thj lý giải
quyết, đến ngày 20/02/2019, TAND cấp cao tại TP.HCM mở phiên xử
sơ thẩm nhưng bị ông bà kháng cáo. Ngày 5/4 bà Thảo nộp đơn kháng
cáo. Theo đó, bà kháng cáo tồn bộ bản án và bày tỏ nguyện vọng đồn
tụ với ơng Vx, df và là người đứng nguyên đơn trong vụ ly hơn. Ngày

5/12/2019 TAND cấp cao TP.HCM mở phiên tịa xét xử phúc thẩm vụ
tranh chấp hơn nhân gia đình của vợ chồng vua cà phê Trung Nguyên
giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo. Bản án tun
xử cơng nhận thuận tình ly hơn giữa bà Thảo và ông Vũ.
Về cấp dưỡng, bà Thảo được quyền nuôi bốn người con, ông Vũ cấp
dưỡng nuôi các con chung 10 tỷ/năm từ năm 2013 đến khi học xong đại
học.
Về tài sản, tịa giao ơng Vũ sở hữu các bất động sản và tồn bộ cổ
phần tại các cơng ty trong tập đoàn Trung Nguyên, gồm toàn bộ số cổ
phần cảu ơng bà trong cơng ty thuộc tập đồn Trung Nguyên, tương
đương hơn 5.700 tỉ đồng.
Về bất động sản, tịa giao ơng Vũ sở hữu tồn bộ sáu căn nhà và đất
mà ông Vũ đang quản lý và sử dụng có giá trị 350 tỉ đồng tại TP.HCM,
TP Nha Trang (Khánh Hịa) và TP Bn Ma Thuộc (Đắk Lắk). Tòa giao
bà Thảo sở hữu số bất động sản trị giá gần 376 tỉ đồng tại TP.HCM và
TP Đà Nẵng, cùng số tài sản là tiền, vàng, các loại ngoại tệ đang gửi
ngân hàng, tổng cộng là 1.764 tỉ đồng. Ông Vũ phải thanh toán chênh
lệch tài sản cho bà Thảo gần 1.224 tỉ đồng.
Tòa phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện của ơng Vũ để lại tài sản của
mình tại Công ty TNHH Trung Nguyên International – TNI tại


Singapore cho bà Thảo. Tuy nhiên, theo đánh giá, bản án có một số sai
sót và vi phạm thủ tục tố dụng:
Thứ nhất, về quan hệ hôn nhân, vào ngày 5/4/2019, bà Thảo nộp đơn
kháng cáo, muốn được đoàn tụ với ơng Vũ nhưng ơng Vũ khơng đồng ý.
Do đó, bà Thảo và ơng Vũ khơng cịn là thuận tình ly hơn. Tịa án cấp
phúc vẫn cơng nhận thuận tình ly hôn là sai.
Thứ hai, các chứng cứ thư và báo cáo kết quả thẩm định giá đối với
công ty cổ phần Tập đoàn Trung Nguyên phát hành ngày 25-6-2018, đến

ngày xét xử sở thẩm (ngày 20-2-2019) đã hết hiệ lực. Tịa phúc thẩm
khơng định giá lại mà vẫn lấy kết quả thẩm định giá hết hiệu lực để chia
tài sản.
Thứ ba, trong các tài khoảng tại Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam
có tên ơng Lê Hồng Văn (anh bà Thảo) nhưng tịa án khơng làm rõ
nguồn gốc số tiền (1.400.269 GBD và 7.350.000 USD). Tịa hai cấp
khơng làm rõ quá trình quản lý, sử dụng, tài sản hiện tại còn bao nhiêu,
ai là người quản lý mà vẫn xác định là tài sản chung của vợ chồng và
chia cho bà Thảo số tiền này là không đúng.
Thứ tư, việc tòa hai cấp xem xét việc tạo lập, duy trì và phát triển khối
tài sản chung cả vợ chồng là cổ phần trong tập đồn Trung Ngun chia
cho ơng Vũ phần nhiều hơn, chia cho bà Thảo ít hơn ông Vũ 20% giá trị
cổ phần trong tập đoàn là không đảm bảo quyền lợi của bà Thảo.
Thứ năm, về tài sản là tiền, vàng gửi ngân hàng, đại diện cả ông Vũ
xác định tổng số tiền yêu cần phản tố là 1.764 tỉ đồng, Tuy nhiên, tịa án
khơng u cầu bị đơn cung cấp căn cứ đê tính ra số tiền trên mà đã công
nhận số tiền do bị đơn khai tại phiên tịa là chưa có căn cứ vững chắc
Từ tình huống trên, chủng ta có thể nhận thấy thực trạng ly hôn cả
nước ta hiện nay là vấn đề đáng báo động về số lượng ly hôn và cả
những hậu quả tiêu cực mà nó mang lại. Và từ đâu mà việc ly hôn trở
nên phổ biến như vậy. Từ đó chúng ta cần đặt ra yêu cầu cấp bách là cần
nghiên cứu toàn diện các nguyên nhân để đề ra giải pháp hữu hiệu nhằm
hạn chế tình trạng ly hơn ở giai đoạn hiện nay.
Ai cũng hiểu rằng ly hôn đồng nghĩa với việc hai người khơng cịn duy
trì quan hệ vợ chồng, được tự do lựa chọn cuộc sống mới cho mình. Và
những “hệ lụy” mà ly hôn đem lại cũng là điều dễ dàng nhận thấy. “Nạn
nhân” đầu tiên và bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ việc ly hơn chính là


những đứa con. Dù ở bất cứ lứa tuổi nào, dù cha mẹ có chia tay nhau

trong hồn cảnh nào thì đứa trẻ cũng bị ảnh hưởng nhất địng tới cuộc
sống, tâm lý. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (giảng
viên trường đại học KHXH và NV thành phố HCM), trên 70% gia đình
trẻ tan vỡ khi đã có con khiến cho mỗi năm có tới 50.000 trẻ em chịu
cảnh thiếu cha hoặc mẹ. Và có khoảng 30% trẻ em bỏ nhà xuất phát từ
những cuộc ly hôn này. Những đứa trẻ ở trong một gia đình có bố mẹ ly
hôn, chúng sẽ cảm thấy được cảm giác khơng an tồn. Trẻ con thường
có cảm giác bị chối bỏ khi bố/mẹ rời bỏ gia đình. Và nếu bố/mẹ tạo một
mái ấm mới với ai đó thì cảm giác bị chối bỏ lại càng gia tăng. Trẻ con
được nuôi trong những gia đình ly hơn thường có cảm giác oán hận đối
với cả bố lẫn mẹ. Hãy cẩn thận, đừng khiến cho tình cảm của con thêm
khốn đốn khi nói ra những ốn giận với chồng/vợ cũ của mình. Sự oán
giận của bạn chỉ làm cho nỗi đau và cảm giác khơng an tồn cả con trở
nên tồi tệ hơn. Ni dưỡng ốn hận chỉ làm cho vấn đề trở nên rắc rối
hơn. Nhiều trẻ thường có suy nghĩ sai khi tin rằng hành vi của chúng là
lý do khiến bố/mẹ ly dị.
Một “hệ lụy” khác của ly hôn mà chính người trong cuộc hiểu rõ hơn
ai hết, đó là “dư chấn tâm lý hậu ly hôn’’ in nằm trong mỗi người.
Không thể phủ nhận ly hôn thực sự là một dấu mốc bi kịch trong cuộc
đời ai đó, bởi sau ly hôn, người ta không chỉ phải đối mặt với gánh nặng
kinh tế do khối tài sản chung đã chia đôi, với nỗi lo toan cho con cái, sự
trăn trở khi bắt đầu lại cuộc đời mà hơn hết, cịn là nỗi buồn, sự hoang
mang và nỗi cơ đơn đáng sợ, tâm lý chung của nhiều người phụ nữ sau
ly hôn, một lần thất bại trong hôn nhân đã khiến họ mang “hội chứng sợ
hôn nhân”. Từ chỗ ít cơ hội cộng thêm nỗi sợ, sự thất vọng, đánh mất
niềm tin vào đàn ông, rất nhiều người phụ nữ đã bỏ qua cơ hội tìm lại
hạng phúc cho phần đời cịn lại của mình. Bên cạnh đó, người đàn ông
sau khi chia tay cũng mang một gánh nặng tâm lý khơng nhỏ.
Tuy nhiên, nhìn nhận vấn đề ly hơn một cách tồn diện nhất, khách
quan nhất, có thể thấy rằng trong nhiều trường hợp ly hôn thực sự là

điều cần thiết và quyết định ly hôn là đúng đắn. Đó là khi bạo lực gia
đình xảy ra thường xuyên, ngoại tình triền miên, cuộc sống hàng ngày là
sự chì chiết, đay nghiến lẫn nhau trong những hồn cảnh này, hơn nhân
đã khơng cịn là mái ấm gia đình mà chỉ là “địa ngục”, “giam hãm” vợ,


chồng, con cái trong sự đau khổ, thù hằn, tuyệt vọng và do đó, ly hơn
chính là con đường tốt nhất để giải phóng hai người, để tìm lại sự bình
yên, tạo dựng lại hạnh phúc cho bản thân cũng như con cái.

Quan điểm về ly hôn và căn cứ ly hôn trong thời kỳ phong
kiến ở việt nam

Xã hội phong kiến là chế độ xã hội theo sau xã hội cổ đại, và
được hình thành trên cơ sở tan rã của xã hội cổ đại, trải dài hàng ngàn
năm kể từ năm 939 đến năm 1858. Tại thời điểm ấy, xã hội Việt Nam bị
chế độ phong kiến thống trị, nông dân quanh nǎm tay lấm chân bùn, đầu
tắt mặt tối, nhưng vẫn nghèo khổ còn địa chủ thì không nhắc chân động
tay, mà lại cửa cao nhà rộng, phú quý phong lưu. Đó là một chế độ cực
kỳ không công bằng. Phần lớn người dân phải lao động chân tay để kiếm
sống qua ngày nên người đàn ông lúc nào cũng có nhiều lợi hơn phụ nữ
vì đàn ông vốn dĩ có sức khỏe và thể chất tốt. Đây là chế độ “trọng nam
khinh nữ” chỉ thời phong kiến mới có. Thật vậy, trong các quan hệ xã
hội đặc biệt là trong quan hệ hôn nhân và gia đình cũng bị ảnh hưởng
sâu sắc bởi chế độ bất công ấy. Cụ thể về quan điểm ly hôn thì pháp luật
ngày ấy bảo đảm thực hiện quyền yêu cầu ly hôn và căn cứ ly hôn
thường chỉ thuộc về người chồng:
+ Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật thời Nhà Lê) và Bộ luật Gia
Long (thời nhà Nguyễn) là hai đạo luật của xã hội phong kiến ở Việt
Nam (được khảo cứu còn nguyên vẹn cho đến ngày nay), khi quy định

về căn cứ ly hôn đã dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng; đặc biệt là “tội”,
“lỗi” của người vợ. Theo quy định về “thất xuất” của Bộ luật Hồng Đức,
người chồng buộc phải bỏ (ly hôn) vợ khi người vợ bị vơ tử (khơng có
con), đa ngôn (lắm lời), ghen tuông, gian dâm với kẻ khác (ngoại tình,
khơng chung thủy), có hành vi trộm cắp, bất kính với cha, mẹ chồng, bị
ác tật; trường hợp vợ cả, vợ lẽ phạm vào điều nghĩa tuyệt (thất xuất) mà
người chồng giấu diếm, khơng bỏ (ly hơn) thì bị xử tội biếm, tùy theo
việc nặng nhẹ mà xử.
+ Đối với lỗi của người chồng, Bộ luật Hồng Đức quy định: Phàm chồng
đã bỏ lửng vợ 05 tháng không đi lại (vợ được trình quán sở tại và xã
quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn một năm. Vì


việc quan phải đi xa thì khơng theo luật này. “Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn
cấm người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm”.
Quy định về nợi dung căn cứ ly hôn của Bộ luật Hồng Đức
phản ánh xã hội và quan điểm lập pháp của nhà nước phong kiến ở Việt
Nam thời kỳ này: Phân biệt đối xử giữa vợ và chồng sâu sắc; thường chỉ
có người chồng mới thực hiện được quyền hưu thê vợ, còn người vợ
thường khơng thực hiện được quyền ly hơn của mình. Nội dung của căn
cứ ly hôn thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng.
Quan điểm về ly hơn và căn cứ ly hôn trong thời đại hiện nay ở Việt
Nam
Sau khi kết thúc thời kỳ phong kiến khốc liệt thì xã hội Việt
Nam bắt đầu bước tới thời kỳ đổi mới. Năm 1945 dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Ái Quốc, quân dân ta đã đánh đổ đế quốc Pháp và phát-xít Nhật.
Vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc
lập tại quãng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hịa với thủ đơ là Hà Nội. Trong bối cảnh Nhà nước dân chủ nhân
dân vừa mới ra đời, Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận phụ nữa ngang

quyền với đàn ông về mọi phương diện, không còn bất công như xã hội
phong kiến mà phải bình đẳng trong các mối quan hệ, đặc biệt là quan
hệ hôn nhân và gia đình. Quyền gia trưởng của người chồng trong gia
đình đã bị xóa bỏ. Về căn cứ ly hơn, lần đầu tiên pháp luật Việt Nam
quy định những duyên cớ ly hơn bình đẳng giữa vợ chồng mà khơng
phân biệt về phía người vợ, hay người chồng. Vợ, chồng có thể ly hơn vì
một bên ngoại tình; vì một bên bị can án phạt giam; vợ, chồng bỏ nhà đi
quá hai năm khơng có dun cớ chính đáng; vì một bên mắc bệnh điên
hay một bệnh khó chữa khỏi hoặc vợ chồng tính tình khơng hợp hay đối
xử với nhau đến mức không thể sống chung được.
Sự phát triển của các điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội và
thực tiễn các quan hệ HN&GĐ ở Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ năm
1986 đến nay) là nhu cầu khách quan để Nhà nước Việt Nam xây dựng
và ban hành, hồn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về
HN&GĐ.


Cho đến nay, khi mà kế thừa và phát triển từ Luật hôn nhân và
gia đình năm 1959, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có 2
trường hợp sau về ly hôn là ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương :
+ Ly hôn thuận tình: Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu
xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia
tài sản, việc trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án cơng nhận thuận
tình ly hơn; nếu khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng khơng
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc
ly hơn”. Cũng trong Điều 55, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014,
trong việc thuận tình ly hơn, ngồi ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình

ly hơn của vợ chồng, địi hỏi hai vợ chồng cịn phải có sự thoả thuận về
việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng
khơng thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng khơng bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tồ án quyết định giải
quyết việc ly hơn.
+ Ly hôn đơn phương: Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định về ly hơn theo u cầu của một bên như sau:
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án
khơng thành thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ
về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm
nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án
tun bố mất tích u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly
hơn.
3. Trong trường hợp có u cầu ly hơn theo quy định tại
khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tịa án giải quyết cho ly
hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia


đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe,
tinh thần của người kia.
Nguyên Nhân : Những năm gần đây, số lượng vụ án hơn nhân
và gia đình ngày một gia tăng đã gây ảnh hưởng đến xã hội,
dẫn đến tình trạng suy giảm về đạo đức, lối sống, bạo lực trong
gia đình ngày càng trở nên phổ biến. Nguyên nhân của các vụ
án ly hôn là rất nhiều. Cụ thể như sau:
*Thứ nhất : Mâu thuẫn gia đình:

 Đây là nguyên nhân phổ biến dẫn đến sự tan vỡ của hôn
nhân, nguyên nhân này chiếm đến 70%.
 Hiện nay các cặp vợ chồng kết hôn ở độ tuổi rất trẻ cũng
chiếm một tỷ lệ tương đối. Hầu hết đều là các bạn trẻ
trước khi bước vào cuộc sống gia đình chưa được chuẩn bị
những kiến thức, hiểu biết cần thiết về cách tổ chức cuộc
sống cho gia đình mới, quản lý chi tiêu, chăm sóc và ni
dạy con cái; nhận thức về tình u cịn hời hợt, nơng cạn,
thường chỉ thiên về hình thức bề ngồi, u theo cảm
tính…. Chính vì vậy, trong q trình chung sống họ không
thể thấu hiểu, không thể cảm thông cho nhau nên đã phát
sinh mâu thuẫn và muốn đi đến quyết định cuối cùng là ly
hơn.
*Thứ hai : Bạo lực gia đình: 
 Qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hơn cho
thấy, số vụ ly hơn có hành vi ngược đãi, đánh đập cũng
chiếm tỉ lệ tương đối trong các nguyên nhân dẫn đến ly
hôn (khoảng 12%) , trong đó đa phần phụ nữ là nạn nhân
của tình trạng này. 
 Tình trạng bạo lực gia đình ngày càng gia tăng và để lại
nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với
phụ nữ, không chỉ gây hậu quả về thể chất, tâm lý cho bản
thân phụ nữ mà còn với cả trẻ em, khi bạo lực xảy ra sẽ
gây ra nhiều sứt mẽ trong tình cảm. Ly hôn trong trường
hợp này được coi là cứu cánh cho chính bản thân họ và con
cái họ.
*Thứ ba : Ngoại tình :


Xã hội ngày càng phát triển, con người cũng quyết liệt hơn

trong việc bảo vệ cuộc sống hôn nhân của mình. Thời xưa,
những người phụ nữ có thể chấp nhận chuyện chồng mình
có năm thê bảy thiếp nhưng hiện nay không một ai muốn
tiếp tục sống với người đã từng lừa dối, phản bội mình.
Chính vì vậy, khơng có gì ngạc nhiên khi ngoại tình là một
nguyên nhân dẫn đến việc ly hơn. 
 Ngoại tình có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, nhưng có một điểm chung là ngoại tình phá hủy
hạnh phúc gia đình, dẫn đến hai vợ chồng ly hơn. Có sự
khác nhau về giới trong ngoại tình và ly hơn. Đàn ơng
ngoại tình dẫn đến ly hơn thấp hơn phụ nữ ngoại tình dẫn
đến ly hơn. Phụ nữ có thể dễ dàng bỏ qua sự không chung
thủy của đàn ông ngược lại người đàn ông rất khó chấp
nhận sự phản bội của phụ nữ. Khi người phụ nữ ngoại tình
họ đã hình dung ra trước hậu quả của nó với gia đình, do
vậy họ sẽ dễ chấp nhận việc ly hôn hơn. Nguyên nhân này
chiếm khoảng 5% số vụ việc ly hôn.
*Thứ tư : Nghiện hút ma túy, cờ bạc : 
 Có thể nói tệ nạn xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc
sống gia đình. Vướng vào tệ nạn xã hội khơng chỉ làm hủy
hoại cuộc sống của chính bản thân họ mà cịn gây ảnh
hưởng xấu đến cuộc sống của những người xung quanh. 
 Nghiện hút ma túy và cờ bạc làm kinh tế gia đình giảm sút,
gây tâm lý hoang mang, sợ hãi cho người thân sống cùng.
Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững
của gia đình. 
*Thứ năm : Kinh tế khó khăn : 
 Nhiều gia đình có cuộc sống vật chất khó khăn, lại là các
gia đình có đơng con, dẫn đến cảnh gia đình nợ nần, từ đó
gây ra nhiều mâu thuẫn trong đời sống sinh hoạt là

ngun nhân tan vỡ của khơng ít gia đình. Những mối lo
cơm áo gạo tiền khiến con người ta dễ bực bội, nổi cáu dẫn
đến xích mích gây gổ nói chi đến chuyện quan tâm, chăm
sóc nhau. Vì vậy, chuyện ly hơn do mâu thuẫn về kinh tế
khó khăn cũng là nguyên nhân khá quen thuộc dẫn đến
thực trạng ly hôn hiện nay.
*Thứ sáu : Bệnh tật, hiếm muộn: 



Từ xưa đến nay mọi người đều mong muốn có một gia đình
trọn vẹn. Cho nên có thể nói con cái là một sự gắn kết
mạnh mẽ để xây dựng nên một gia đình hạnh phúc. Thế
nhưng trong xã hội hiện nay, việc hiếm muộn hay vô sinh
xuất hiện ngày càng nhiều ở cả nam và nữ. Đây là mối lo
ngại lớn đối với xã hội nói chung cũng như đối với gia đình
nhỏ nói riêng.
 Việc vợ chồng khơng có con chung sẽ chịu rất nhiều áp lực
từ phía gia đình và xã hội. Các cặp vợ chồng khơng có con
hay sinh con theo giới tính khơng mong muốn đều đi đến
quyết định ly hơn như một lối thốt để tìm đến cuộc sống
mới. 
 Bên cạnh đó, vấn đề bệnh tật cũng khiến nhiều gia đình
tan vỡ. Người chồng hay vợ bị bệnh về lâu về dài gây ảnh
hưởng đến kinh tế gia đình. Tình cảm vợ chồng ngày càng
lạnh nhạt, khơng cịn thắm thiết cũng khiến cho vợ chồng
đi đến quyết định ly hơn nhằm giải thốt cho nhau.
*Nguyên nhân khác : Tuy không phổ biến nhưng cũng dẫn đến
sự đổ vỡ của gia đình như một bên mất tích hay vợ chồng xa
cách lâu ngày dẫn đến tình cảm khơng cịn, một bên đang cải

tạo hoặc đang chấp hành án phạt tù,...
Giải Pháp : Thực trạng ly hơn đã ảnh hưởng rất xấu đến q
trình phát triển thể lực, trí lực và nhân cách của mỗi con người.
Sau đây là một số giải pháp cơ bản
*Thứ nhất : 
 Thực tế cho thấy, một nền kinh tế tốt có tính chất phát
triển bền vững, ổn định sẽ khiến cho mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình trở nên tốt đẹp hơn. Những mâu
thuẫn gia đình xuất phát từ lý do túng quẫn, khó khăn về
kinh tế sẽ phần nào giảm bớt. Xã hội càng tiến bộ văn
minh thì con người càng có ý thức trong thiết lập và củng
cố mối quan hệ của mình. Đẩy lùi những mâu thuẫn xuất
hiện trong gia đình chính là hạn chế được phần lớn các vụ
ly hơn. 
 Chính vì vậy, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong đó phát
triển kinh tế hộ gia đình ổn định, tạo nhiều việc làm phù
hợp cho từng lứa tuổi, vùng miền, nhất là lực lượng đang



tuổi lao động chưa có việc làm hay có việc làm nhưng chưa
ổn định, thu nhập thấp.
*Thứ hai :  
 Cần có các giải pháp giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức
đạo đức. Việc hiểu biết pháp luật và có ý thức đạo đức tốt
là vấn đề hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của mỗi con
người. Nó giúp con người có thể xây dựng nên một gia đình
hạnh phúc. 
 Phát huy vai trị của các tổ chức đồn thể như thơng qua

các buổi họp của Đồn thanh niên, chi bộ thơn xóm, thị
trấn, hội người cao tuổi, phụ nữ hoặc qua các phương tiện
thông tin đại chúng… để nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng gia đình, để mỗi người vợ và chồng nâng cao hơn
nữa nhận thức trách nhiệm, vị trí của mình trong gia đình
để cùng giữ gìn hạnh phúc hơn nhân. Cần biểu dương kịp
thời những tấm gương gia đình gia đình văn hóa tiêu biểu
theo từng cụm thơn xóm, thị trấn, các khu dân cư.
*Thứ ba :  Khuyến cáo đến các cặp vợ chồng về việc chung
sống chung thủy với nhau, cùng nhau vun vén cho hạnh phúc
gia đình, cùng nhau ni dạy con cái để các con được hưởng
niềm hạnh phúc gia đình trọn vẹn.
*Thứ tư :  Các tổ chức đồn thể như Đoàn thanh niên, Hội phụ
nữ cũng phải phát huy hết vai trị của mình trong việc xây dựng
lối sống sinh hoạt lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. giáo
dục tích cực trong tầng lớp thanh niên. Cũng như giúp đỡ họ
trong quá trình sản xuất làm kinh tế, góp phần vào sự phát
triển của xã hội và nâng cao dân trí.
*Thứ năm : Cần đưa chỉ tiêu nâng cao việc hòa giải trong việc
giải quyết án ly hơn của ngành Tịa án, để góp phần kìm chế
tình trạng ly hơn gia tăng.

Kết luận:

Ly hơn là quyền tự do của mỗi cá nhân, là sự giải thoát khỏi các mối
ràng buộc của hôn nhân, tuy vậy ly hơn cũng đem đến nhiều tiêu cực
cho gia đình và xã hội. Bài tiểu luận là nghiên cứu và phân tích của


nhóm dựa trên khái niệm, quan điểm, thực trạng và nguyên nhân của ly

hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Từ đó cho thấy sự tích cực
và các mặt chưa hồn thiện trong quy định ly hơn của pháp luật, bên
cạnh đó là sự ảnh hưởng to lớn của ly hôn đối với người trong cuộc đặc
biệt là trẻ em, đối tượng chịu tác động trực tiếp và dễ dàng tổn thương.
Pháp luật giúp xác định rõ ràng vai trò, nghĩa vụ của vợ chồng và giúp
đảm bảo quyền lợi cho hai bên cũng như con cái. Vì vậy Nhà nước ngày
càng cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống quy định để giải quyết triệt để các
mâu thuẩn phát sinh, hơn nữa là sự nỗ lực của các hệ thống chính trị
nhằm làm giảm tỉ lệ ly hơn, cải thiện đời sống tạo điều kiện cho người
dân xây dựng gia đình hạnh phúc. Gia đình là điểm tựa vững chắc cho
sực nghiệp của mỗi cá nhân, gia đình hạnh phúc là chìa khóa cho sự
cống hiến hết mình xây dựng đất nước
/>phap-luat-dai-cuong/tieu-luan-thuc-trang-ly-hon-o-viet-nam-hien-nay/
17087954
/> />
Đề 10

2.1 Những căn cứ được áp dụng án treo
Tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định 03
lý do (điều kiện) áp dụng án treo, mức tối đa là 03
năm tù; đặc điểm nhân thân khơng thấy cần áp dụng
hình phạt tù; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.


- Thứ nhất, tội phạm bị phạt tù cao nhất là 03 năm.
Pháp luật khơng giới hạn đó là tội gì. Đồng thời, nó
có thể là một tội phạm nhỏ, nghiêm trọng hoặc rất
nghiêm trọng, có thể nói như vậy.
- Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm nhân thân của tội

phạm. Ở điểm này, vấn đề cần phải hiểu như thế
nào cho đúng về căn cước của tội phạm để áp dụng
án treo là hết sức cần lưu ý.
Người đủ điều kiện phải là người có phẩm chất cao.
Bởi vì, đặc điểm nhân thân của người phạm tội không
chỉ là căn cứ quan trọng để quyết định xét xử mà cịn
là căn cứ cần thiết để cơng nhận người phạm tội có
khả năng tự học tập, cải tạo hoặc giáo dục trong
những điều kiện nhất định. chấp hành án treo.
Theo hướng dẫn hiện hành, chứng cứ của nhân cách
tốt là ngồi tội này, họ ln tơn trọng các quy tắc xã
hội, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân trong cuộc
sống và nơi làm việc; không vi phạm những điều mà
pháp luật cấm.
( ) ( ý 2 )
-

Thứ ba, tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ để được áp
dụng mức án có điều kiện thì thủ phạm phải có
nhiều tình tiết giảm nhẹ. Khác với , bên phạm tội


phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định
tại định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015
không quy định căn cứ để được hưởng án treo phải
là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều
51.
Theo chúng tơi, việc xác định tình tiết buộc tội là tình
tiết giảm nhẹ trong quy định tại khoản 1 điều 51

nhằm thu hẹp phạm vi của hình phạt bị bác bỏ theo
quy định của pháp luật.
(

/>
) ( ý 1 &3 )
- Thứ tư, phải có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc
ổn định để được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
hướng dẫn, đào tạo.
Nơi ở rõ ràng là nơi ở tạm thời hoặc thường trú có địa
chỉ xác định theo quy định của Luật cư trú, nơi người
chấp hành án treo trở về sinh sống, cư trú thường
xuyên sau khi chấp hành án treo. Nơi làm việc ổn định
là nơi phạm nhân làm việc có thời hạn ít nhất là 01
năm trên cơ sở hợp đồng làm việc hoặc theo quyết
định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Xét thấy
khơng cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, nếu người
phạm tội có thể tự cải tạo và việc bắt giữ họ không đe
dọa xã hội; không làm phương hại đến an tồn, trật
tự, an ninh cơng cộng.
nam/

(

/>
(ý4)


2.2 Về mức hình phạt tù
Điều 10 Sắc lệnh 21/SL quy định:

"Khi phạt tù, tồ án có thể cho tội nhân được hưởng
án treo nếu có những lí do đáng khoan hồng".
Theo quy định này thì án treo là biện pháp giải thoát
cho người chấp hành án phạt tù được hưởng án treo.
Tuy nhiên, trong việc áp dụng án treo, có thời điểm
chúng ta coi án treo nhẹ hơn án tù. Điều này được
khẳng định tại Thơng tư của Tồ án nhân dân tối cao
số 19/TATC ngày 2/10/1974:
"Án treo phải được xem là hình thức xử lí nhẹ hơn tù
giam".
Theo quy định của pháp luật hiện nay, bản án có điều
kiện khơng phải là hình phạt mà chỉ là biện pháp giải
thốt một người khỏi việc chấp hành hình phạt tù có
điều kiện. Hạn chế việc lạm dụng chế độ quản chế và
bảo đảm việc áp dụng chế độ quản chế trên thực tế
thực sự là một biện pháp giảm nhẹ, thực hiện chính
sách nhân đạo, phân biệt đối xử trong đối xử với người
phạm tội và quy định về hình phạt. theo hướng thu
hẹp dần phạm vi áp dụng án treo và mở rộng điều
kiện tranh chấp án treo. Khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về án treo như sau:
“Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,


nếu xét thấy khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt
tù, thì tồ án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các
nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của
Luật thi hành án hình sự”.

Việc tạm tha thể hiện tính nhân văn của pháp luật
hình sự Việt Nam, khuyến khích người bị kết án tự học
tập, làm việc với sự hỗ trợ tích cực của xã hội và người
thân trong gia đình họ, đồng thời cảnh báo nếu phạm
tội khác trong thời gian tạm tha sẽ bị buộc chấp hành
án. công bố án tù.
( />2.3 Về thân nhân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù tội phạm
học; khoa học tư pháp hình sự; khoa học điều tra tội
phạm, tâm lý pháp y...
Nhân thân tội phạm là đặc điểm mô tả rõ nhất bản
chất của tội phạm; những đặc điểm này ảnh hưởng
đến các tình huống; và những tình tiết khách quan
khác làm phát sinh hành vi phạm tội của người này.
Những đặc điểm này có thể bao gồm tuổi tác, nghề
nghiệp; thái độ làm việc, thái độ với người khác; trình
độ văn hóa, lối sống, hồn cảnh gia đình; và đời sống


kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tơn giáo,
tiền án, tiền sự…
( />amp/)
Tội phạm được coi là có nhân thân tốt nếu họ tuân thủ
nghiêm ngặt các quy tắc và pháp luật; làm trịn nghĩa
vụ của cơng dân trước khi xử lý tội phạm. Để xác định
một người có nhân thân tốt hay khơng, có thể thơng
qua chính quyền - ủy ban nhân dân địa phương để xác
minh.
Nếu thủ phạm đã từng vi phạm pháp luật, chẳng hạn
bị kết án về tội chưa được xóa án tích, đã phạm tội

nhưng chưa hết thời hiệu thì coi như chưa được xóa án
tích. bị xử phạt hành chính. . ; nhưng xét mức độ, tính
chất của tội phạm mới phạm là tội nhẹ hơn hoặc người
phạm tội là đồng phạm chưa thành niên thì vẫn có thể
xem xét cho hưởng án treo.
Điều này có nghĩa là nếu bạn là một tội phạm nghiêm
trọng hoặc cao hơn đã từng bị kết án trọng tội hoặc bị
phạt hành chính, thì bạn khơng thể đáp ứng các yêu
cầu về tư cách tốt. , bạn khơng được hưởng án treo
(

/>
moi.aspx#13-co-it-nhat-hai-tinh-tiet-giam-nhe-trach-nhiem-hinh-su-tro-len

2.4 Có tình tiết giảm nhẹ

)



×