Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Triết học Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.14 KB, 100 trang )

TRIẾT HỌC MAC -LÊ
Câu 1: Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh rằng,
việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình lịch sử - tự
nhiên?
Câu 2: Trên cơ sở phân tích khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất, đồng
chí hãy đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ
của lực lượng sản xuất thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
ở Việt Nam hiện nay.
Câu 3: Nội dung của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện
nay và vấn đề đặt ra. Liên hệ thực tiễn ở địa phương?
Câu 4: Trên cơ sở phân tích vai trị của giai cấp đối với dân tộc, đồng chí hãy
làm rõ tầm quan trọng của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc và cơng cuộc đổi mới, từ đó đề xuất phương hướng
phát triển giai cấp cơng nhân hiện nay.
Câu 5: Đồng chí hãy phân tích cơ sở lý luận, nội dung của nguyên tắc Xây
dựng Nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu, tham nhũng và liên hệ việc vận dụng nguyên tắc này ở Việt Nam
hiện nay.
Câu 6: Vận dụng quan điểm cơ bản của Triết học Mác-Lênin về con người
trong việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. Liên hệ thực tiễn
địa phương (hoặc cơ quan).
Câu 7: Những thách thức và những vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng
ý thức xã hội mới Việt Nam? Liên hệ thực tiễn địa phương.
Câu 8: Ý thức xã hội mới Việt Nam và vai trị của nó đối với q trình xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay? Liên hệ thực tiễn với địa
phương (hoặc cơ quan, ngành).
Câu 9: Những giá trị bền vững của Triết học Mác – Lênin. Đồng chí hảy rút
ra những giá trị của bản thân khi nghiên cứu Triết học Mác – Lênin.
Câu 10: Đồng chí hãy phân tích vai trị của chủ nghĩa duy vật macxit trong
việc xây dựng thế gới quan khoa học ý nghĩa của việc đấu tranh chống biểu
hiện mê tín dị đoan trong một bộ phận cán bộ nhân dân hiện nay, liên hệ bản


thân.
Câu 11: Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học, yêu cầu, ý nghĩa của quan
điểm khách quan. Sự vận dụng quan điểm khách quan ở Việt Nam trước đổi
mới và hiện nay.
Câu 12: Vai trò phương pháp luận của phép biện chứng duy vật trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn? Liên hệ đối với bản thân?
Câu 13: Trên cơ sở lý luận về mâu thuẫn biện chứng, đồng chí hãy chỉ ra và
phân tích một mâu thuẫn biện chứng đang tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện
nay và đề xuất phương hướng, giải pháp giải quyết.
Câu 14: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với lý luận? Ý nghĩa phương
pháp luận đối với việc khắc phục bệnh giáo điều của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ta? Liên hệ bản thân?
Câu 15: Lý luận và vai trò của lý luận đối với thực tiễn? Ý nghĩa phương
pháp luận đối với việc khắc phục bệnh kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta? Liên hệ bản thân.

1

Tran
g
2
8

14
24

32

38
46

54
59
68

76
82
91
96
103


Câu 1: Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh rằng, việc bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình lịch sử - tự nhiên?
Hiện nay, vấn đề nhận thức về sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ
nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kiên trì phấn đấu theo lý tưởng và mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân còn chưa được đầy đủ. Vấn đề này cũng
đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm. Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam đó là sự phát triển tất yếu ở Việt Nam, được Đảng và Hồ
Chủ Tịch vạch ra từ năm 1930 (trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt trong luận
cương chính trị của Đảng) và ngày càng hoàn thiện hơn trong các kỳ Đại hội Đảng gần
đây. Vì vậy, trong sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc
nhận thức về tính tất yếu con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mang
tính cấp thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, bản thân xin vận dụng
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh rằng, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam là một quá trình lịch sử - tự nhiên với mong muốn được hiểu cũng
như làm rõ hơn về vấn đề này.
Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội thì: hình thái kinh tế - xã hội là một
phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ một xã hội tồn tại trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của xã hội đó, phù hợp
với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, và một kiến trúc thượng

tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Q trình lịch sử - tự nhiên của sự
phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được hiểu là sự phát triển đó tn theo những
quy luật khách quan vốn có, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con
người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không phải sáng tạo một cách tùy tiện, chủ quan, mà
sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề vật chất nhất định, phù hợp với quy
luật khách quan. Những quy luật khách quan chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của các
hình thái kỉnh tế - xã hội là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, quy
luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng,V.V.. Trong những quy luật
này thì quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quan trọng nhất. V.I.Lênin cho rằng, chỉ có quy những quan hệ xã hội về quan hệ sản
xuất, quy quan hệ sản xuất về trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được
một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên. Nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn thế giới, lịch sử loài
người phát triển tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội. Song, do đặc
điểm lịch sử - cụ thể, thì khơng phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình
thái kinh tế - xã hội mà có thể phát triển theo con đường “bỏ qua” một hoặc một vài
hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Đó là khả năng “phát triển rút ngắn” và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng theo hình thái này.
Quy luật chung của sự phát triển xã hội là tuần tự từ hình thái kỉnh tế - xã hội
thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao: Hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, hỉnh thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn thấp nhất là chủ nghĩa xã hội. Động lực thúc đẩy tiến trình phát triển đó là sự xuất
hiện của phương thức sản xuất mới, mà ở đó năng suất lao động của xã hội mới cao hơn
2


hẳn năng suất lao động của xã hội cũ. Tuy nhiên, do những điều kiện lịch sử cụ thể quy
định, nên sự phát triển xã hội không nhất thiết “tuần tự” mà có những “bước nhảy” “bỏ qua” nấc thang này hay nấc thang khác để chuyển lên nấc thang cao hơn cũng

khơng trái tiến trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử. Nếu trong tự nhiên có phát triển
tuần tự và nhảy vọt thì trong xã hội (một bộ phận đặc biệt, hình thức tổ chức cao nhất
của 3 giới tự nhiên) cũng có phát triển tuần tự và rút ngắn. Quy luật kế thừa của lịch sử
cho phép trong sự giao lưu, hợp tác với trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật
chất, về khoa học kỹ thuật, về văn hóa, chính trị,v.v.. một số nước đi sau, trong những
điều kiện nhất định, có thể rút ngắn tiến trình lịch sử của mình mà khơng phải lặp lại
tuần tự các quá trình nhân loại đã trải qua. Như vậy, phát triển theo con đường rút ngắn
là xu hướng tất yếu, khách quan, hợp quy luật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người thì cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Thực chất bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là bỏ qua “gián tiếp” theo tinh thần của V.I.Lênin, là “bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giúp
chúng ta nhận ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, cần phải tiếp thu, kế thừa những nhân tố tích cực của chủ nghĩa tư bản, kết hợp
với phát triển “rút ngắn” để đưa đất nước phát triển; không thể bỏ qua “giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” như quan niệm trước đây, không thể phủ định sạch trơn những
tiến bộ của nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Chúng ta hiện nay đang quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải theo phương thức trực
tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian, phải bắc những “chiếc cầu nhỏ” đi lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, về
cơ bản, chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Bỏ qua việc xác lập vị trí chi
phối của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nền sản xuất xã hội đang vận động đi
lên chủ nghĩa xã hội, cũng có nghĩa ở đó cịn tồn tại ở mức độ nhất định các quan hệ
sản xuất tư bản và tiền tư bản, chúng vận động và tác động đến sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, trong thực tiễn

cần có những chính sách để các quan hệ này vận động, đóng góp vào sự tăng trưởng
chung, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của chúng. Quan hệ sản xuất luôn phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Một khi lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn thấp, đa dạng,
cần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, nghĩa là cần có các quan hệ sản xuất đa dạng
để tạo điều kiện khai thác các nguồn lực và mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Trên phạm vi quốc gia, chúng ta bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa song trong phạm vi cụ thể như doanh nghiệp, hay các đặc khu
kinh tế, quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa, cách thức quản lý theo kiểu tư bản chủ nghĩa
vẫn tồn tại, vận hành theo các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Sựvân ḥ ành và chi
phối của quan hê ̣sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn diễn ra trong quá trình sản xuất, song
với không gian và thời gian nhất định. Pham vi không gian và thời gian này đươc quy
đinh bởi các luât và quy định của Nhà nước xã hôi chủ nghia.̃ Việc bỏ qua chế độ tư
3


bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là bỏ qua xác lập vị trí chi phối của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, mà còn là
bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, cũng như việc tước đoạt tư liệu sản xuất
của người lao động, đẩy những người lao động trở thành người làm th. Sau khi giành
được chính quyền, giai cấp cơng nhân và những người lao động trở thành những người
chủ của xã hội mới, thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất, từng bước xây dựng và đưa
quan hệ sản xuất mới ngày càng chiếm vị trí chi phối trong nền sản xuất xã hội. Do vây,
bỏ qua chế đô ̣tư bản chủ nghĩa cũng còn là viêc b ̣ ỏ qua tao d ̣ ưng giai c ̣ ấp thưc hi ̣
ên s ̣ ự thống tri ̣ , bóc lôt giai c ̣ ấp công nhân và những người lao đông trong ̣ chủ
nghĩa tư bản. Song, trong thời kỳ quá đô ̣ cùng với xây dưng giai c ̣ ấp công nhân là
viêc h ̣ ình thành tầng lớp doanh nhân, cùng với những người lao đông cùng làm chủ xã
hôi, cùng xây dưng x ̣ ã hôi ṃ ới. Vậy bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là việc bỏ qua sự
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
đồng thời bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất và tư liệu sản xuất của người lao động, bỏ

qua việc tạo dựng giai cấp thống trị, bóc lột người lao động, và đương nhiên tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ cơ sở lý luận của quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội và cơ sở thực tiễn là trinh độ lực lượng sản xuất vừa
thấp vừa không đồng đều ở nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trình độ của công cụ lao động ở nước ta hiện nay rất đa dạng, không
đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ cơng chiếm phần lớn trong nơng
nghiệp, cịn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn. Nhưng bên cạnh đó,
ở nước ta cũng đã có cơng cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự động hóa.
Những cơng cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong một cơ sở sản xuất, trong
một nhà máy. Nếu như phương Tây, nhìn một cách đại thể, phát triển tuần tự từ lao
động thủ cơng lên cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở Việt Nam hiện nay có lĩnh vực phát
triển tuần tự, lại có lĩnh vực phát triển theo kiểu đi tắt, đón đầu. Điều này nói lên tính
chất đa dạng, nhiều trình độ của cơng cụ lao động ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phù hợp với sự đa dạng của công cụ lao động sản xuất như vậy, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác nhau. Từ
đó, trình độ tổ chức và phân cơng lao động, trình độ ứng dựng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
Thứ ba, khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung ở trình độ thấp, chậm phát
triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Điều đó cho thấy trình
độ khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay cũng rất đa dạng. Như vậy, trình độ của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Theo
quy luật, muốn sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay đa dạng, khơng đồng đều,
nhiều trình độ, do đó, theo lơgíc, tất yếu 6 quan hệ sản xuất cũng phải đa dạng. Tính đa
dạng của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ:
Một là, đa dạng thành phần kinh tế, tức là phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, chủ trương xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần không phải là một chủ trương xuất phát từ ý muốn

4


chủ quan, mà nó dựa trên quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hiện nay, ở nước ta có các thành phần: kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển
phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Điều này
giúp chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy ý chí của thời kỳ
trước đổi mới ở Việt Nam với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể. Hai là, đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý. Khác với
trước kia (hai hình thức sở hữu là tồn dân và tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình
thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân. Ba là, đa dạng trong phân phối. Nếu như
trước kia, chúng ta phân phối theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân
phối theo nhiều cách khác nhau như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ),
theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, theo phúc lợi
xã hội, an sinh xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định:
“phát triển lực lượng sản xuất và xây dụng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa”; “Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn,... cần chú trọng hơn đến:
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp”. Trong lịch sử có thể thấy những nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh cũng đã từng lựa chọn con đường cách mạng tư sản để đấu tranh nhưng không
thành công. Điều đó cho thấy con đường đấu tranh bằng cách mạng Tư sản không phù
hợp với thực trạng nước ta lúc bấy giờ. Đến với con đường đấu tranh của Hồ Chí Minh,
Người đã chọn hình thức đấu tranh vơ sản, do giai cấp công nhân, nông dân lãnh đạo,
và đã giành được thắng lợi thể hiện ở Cách mạng Tháng Tám thành công, miền Bắc đi

lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng này chứng minh sự lựa chọn của Đảng
và nhân dân ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế VN. Đồng thời ,theo lý luận khoa học
của Lê Nin thì: Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có thể diễn ra ở các nước thuộc địa.
Thứ hai, giữa 2 giai đọan của chế độ chủ nghĩa xã hội ko có vách ngăn phù hợp,
vì vậy miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội trước miền Nam. Thứ ba, “Quá độ bỏ qua” chế
độ tư bản chủ nghĩa trong thời đại hịên nay chỉ là sự vận dụng đúng lịch sử của nhân
lọai đã có như Nga Đức Pháp Mỹ... từ chế độ nô lệ bỏ qua chết độ phong kiến lên tư
bản chủ nghĩa.
Tóm lại, có thể trả lời câu hỏi: “Vì sao Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
tư bản chủ nghĩa là một quá trình lịch sử - tự nhiên ?” qua các lý so sau: phù hợp với
chí ý nguyện vọng của nhân dân; phù hợp với hiện thực Việt Nam; phù hợp với cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa, vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa đấu tranh
chống Đế quốc Mỹ ở miền Nam cũng là sự phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay:
chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sâu sắc chắc chắn sẽ bị
thay thế bởi hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa tư bản
khơng phải là tương lai của lồi người. Đây là xu hướng khách quan thích hợp với lịch
5


sử. Ngoài ra, đây cũng phù hợp với lịch sử của Việt Nam thể hiện ở sự phù hợp thời kỳ
quá độ ở nước ta với lý luận chung về tính chất tất yếu của thời kỳ quá độ, cụ thể là:
Nhà nứớc ta đã thực hiện rõ điều này trên quan điểm: “Bỏ qua chủ nghĩa tư bản tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa nhưng hấp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời
tư bản chủ nghĩa.” Đất nước ta cịn yếu kém, nhìều tàn dư của chế độ xã hội cũ và chiến
tranh để lại. Công cuộc đi lên chủ nghĩa xã hội là một cơng việc khó khăn phức tạp do
đó cần phải có thời gian để cải tạo xã hội, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho chủ
nghĩa xã hội. Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã có đủ

điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là những điều kiện: Nhân dân đoàn kết tin
tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa; Chính quyền thuộc về giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có sự giúp đỡ của các nước tiên
tiến, các nước xã hội chủ nghĩa anh em và phong trào cách mạng tiến bộ của thế giới.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa là tính tất
yếu, tự nhiên, là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng và Nhân dân ta. Trước những vấn đề
nêu trên, chúng ta xác định được những nhiệm vụ trong thời gian tới của Việt Nam khi
bỏ qua tư bản chủ nghĩa: phát triển nhanh mạnh lực lượng sản xuất, nhằm xây dựng cơ
sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, muốn vậy phải phát triển cả lực lượng sản
xuất và sức lao động, đặc biệt là sức lao động (nhân tố con người) phải thực hiện Cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, phải phát triển nhanh nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở nước ta; xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo; kinh tế hợp tác
xã bao gồm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ v.v..., kinh
tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế
tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến; chủ động hội nhập kinh
tế khu vực và quốc tế; phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện tiến
bộ công bằng xã hội; Đảng khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước là của dân do dân và vì dân; mọi người
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy khả năng sáng tạo, tính
tích cực chủ động của mọi cá nhân. Như vậy, chúng ta hồn tồn có thể khẳng định
rằng, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển
rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu, khách
quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của cách mạng Việt Nam,
là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật. Và, về thực chất,

đó là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản
xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại. Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh
vực là q trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”.
Trên đây là bài thu hoạch với nội dung “Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
6


để chứng minh rằng, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình
lịch sử - tự nhiên”.

Câu 2: Trên cơ sở phân tích khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất, đồng chí
hãy đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ của lực
lượng sản xuất thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam
hiện nay.
Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về
một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ
tư là “Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu
tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp
bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội, gắn chặt với q trình hội
nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi
đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá
trong phát triển kinh tế-xã hội”.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập
sâu rộng với nền kinh tế thế giới, vì vậy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là
một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước. Vì vậy,
muốn có một xã hội ổn định, một nền kinh tế phát triển thì nhiệm vụ hàng đầu phải phát

triển, xây dựng lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật cho
mỗi hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất
khác nhau. Lực lượng sản xuất ln đóng vai trị to lớn trong đời sống xã hội. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế xã hội, nó dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản xuất do đó kiến trúc
thượng tầng thay đổi theo dẫn đến hình thái kinh tế xã hội cũ được thay thế, hình thái
kính tế mới cao hơn, tiến bộ hơn.

7


Từ cơ sở phân tích khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất, đề xuất phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất thích ứng
với cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái niệm, kết cấu lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước
hết là công cụ lao động nhằm tạo ra sức sản xuất vật chất nhất định. Lực lượng sản xuất
biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nó thể hiện năng lực của con người
trong việc chinh phục giới tự nhiên. Trong lực lượng sản xuất, người lao động giữ vị trí
hàng đầu. Người lao động có thể lực, trí lực, tâm lực. Những yếu tố này đều được sử
dụng trong quá trình lao động sản xuất vật chất. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại kinh tê khác
nhau, vai trò của các yếu tố này cũng khơng giống nhau.
Ví dụ, trong thời kỳ cơng trường thủ công, lao động chân tay là đặc trưng cơ bản
của người lao động; trong thời kỳ sản xuất dựa trên cơng cụ cơ khí thì khía cạnh năng
lực, kỹ năng, kinh nghiệm điều hành máy móc lại nổi trội hơn (lao động chân tay kết
hợp với lao động trí óc); còn trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay (hàm lượng tri thức
trong sản phẩm chiếm tỷ lệ ngày càng cao) thì khía cạnh tri thức, trí tuệ lại nổi trội. Đối
với các nước trên thế giới hiện nay, đầu tư cho giáo dục là đầu tư có tính chất chiến
lược, vô cùng quan trọng. Ở nước ta hiện nay, Đảng ta chủ trương giáo dục, khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để
thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”.
Một yếu tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất bao
gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao
động và phương tiện lao động (phương tiện sản xuất hay kết cấu hạ tầng). Đối tượng
lao động bao gồm đối tượng sẵn có trong tự nhiên và đối tượng qua chế biến.
Trong lực lượng sản xuất, nếu con người là yếu tố quan trọng nhất thì cơng cụ
lao động là yếu tố động nhất. Trình độ phát triển của cơng cụ lao động thể hiện trình độ
chinh phục giới tự nhiên của con người. Sự thay đổi một cách căn bản công cụ lao động
sẽ kéo theo sự thay đổi của các thời đại kinh tế - xã hội. Theo nghĩa này, C.Mác cho
rằng, cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng nghiệp. Chính vì quan trọng như vậy,
nên người ta cịn phân thời đại theo cơng cụ lao động như thời đại đồ đá, thời đại đồ
đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước,v.v.. Trong lịch sử, trình độ của cơng
cụ lao động nhìn chung đã trải qua ba giai đoạn chủ yếu: thủ cơng, cơ khí và tự động
hóa.
Ngày nay, đối tượng lao động cũng được mở rộng. Nếu trong nền văn minh nông
nghiệp, đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất; trong nền văn minh cơ khí, đối tượng
lao động lại được mở rộng ra, ngồi ruộng đất thì đối tượng lao động chủ yếu của thời
kỳ này là các nguyên vật liệu như than đá, chất đốt, dầu khí, các nguyên liệu hóa thạch,
hầm mỏ, sắt, thép, sợi,... nói chung là các nguyên vật liệu cần cho các ngành công
nghiệp, các nhà máy, công xưởng; trong thời đại ngày nay, ngoài những yếu tố trên, đối
tượng lao động chủ yếu lại là thơng tin, trí tuệ, vật liệu mới, vốn, năng lượng,v.v..
8


Hiện nay, khoa học - công nghệ đang thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất. Khoa học - công nghệ thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất,
đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Theo dự báo, với sự phát triển của

cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (thế giới thực và ảo xích lại gần nhau dựa trên
nền tảng cơng nghệ số và tích hợp tất cả các cơng nghệ thơng minh để tối ưu hóa quy
trình, phương thức sản xuất; những cơng nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là cơng
nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, rơbốt,
cơng nghệ năng lượng,...) lực lượng sản xuất sẽ có những phát triển rất mạnh mẽ, tạo ra
bước tiến vượt bậc của con người.
Mặc dù khoa học - công nghệ được ứng dụng mạnh mẽ vào sản xuất, nhưng
khoa học - công nghệ không thay thế được con người trong sản xuất vật chất. Máy tính
có thể tính nhanh và chính xác gấp triệu lần con người, rơbốt có thể làm được những
việc mà con người khơng thể làm nổi, nhưng những cái đó suy cho cùng đều do con
người chế tạo ra và điều khiển chúng, nếu thiếu con người thì tự bản thân chúng cũng
không thể phát huy tác dụng. Khoa học - công nghệ chỉ thực sự phát huy vai trò to lớn
khi thông qua con người, chịu sự chi phối của con người. Do vậy, những nhà tư tưởng
tuyệt đối hóa, thổi phồng, khuếch đại vai trị của khoa học - cơng nghệ,v.v.. là phủ nhận
vai trò của người lao động, xét đến cùng, chỉ nhằm mục đích phủ nhận học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C.Mác.
Lực lượng sản xuất tồn tại khách quan, bởi lẽ, theo C.Mác, người ta không được
tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình, vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã
đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua, không phải do họ tạo ra, mà
do thế hệ trước tạo ra (ví dụ như đối tượng lao động, phương tiện sản xuất). Theo nghĩa
đó, lực lượng sản xuất là vật chất dưới dạng xã hội. Mỗi thế hệ sau kế thừa những lực
lượng sản xuất do thế hệ trước để lại và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho quá
trình sản xuất mới.
Lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay không chỉ được xã hội hóa mà đã ở
trình độ quốc tế hóa sâu sắc. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ của
người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản lý, trình độ ứng
dụng khoa học - cơng nghệ, cách thức mà con người tiến hành trong quá trình sản xuất),
trình độ của công cụ lao động, phương tiện lao động, trình độ phân cơng lao động xã
hội.
2. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ của lực lượng sản

xuất thích ứng với cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ cơ sở lý luận của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và cơ sở thực tiễn là trình độ lực lượng sản xuất
vừa thấp vừa không đồng đều ở nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trình độ của công cụ lao động ở nước ta hiện nay rất đa dạng, không
đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ công chiếm phần lớn trong nông
nghiệp, cịn trong cơng nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn. Nhưng bên cạnh đó,
ở nước ta cũng đã có cơng cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự động hóa.
Những cơng cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong một cơ sở sản xuất, trong
9


một nhà máy. Nếu như phương Tây, nhìn một cách đại thể, phát triển tuần tự từ lao
động thủ công lên cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở Việt Nam hiện nay có lĩnh vực phát
triển tuần tự, lại có lĩnh vực phát triển theo kiểu đi tắt, đón đầu. Điều này nói lên tính
chất đa dạng, nhiều trình độ của cơng cụ lao động ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phù hợp với sự đa dạng của công cụ lao động sản xuất như vậy, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác nhau. Từ
đó, trình độ tổ chức và phân cơng lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
Thứ ba, khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung ở trình độ thấp, chậm
phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Điều đó cho thấy
trình độ khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay cũng rất đa dạng.
Như vậy, trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng,
khơng đồng đều, nhiều trình độ. Theo quy luật, muốn sản xuất phát triển thì quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay đa dạng, khơng đồng đều, nhiều trình độ, do đó, theo lơgíc, tất yếu quan hệ sản
xuất cũng phải đa dạng. Tính đa dạng của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ:
Một là, đa dạng thành phần kinh tế, tức là phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành

phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy, chủ trương xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần không phải là một chủ trương xuất phát từ ý muốn
chủ quan, mà nó dựa trên quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hiện nay, ở nước ta có các thành phần: kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển
phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Điều này
giúp chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy ý chí của thời kỳ
trước đổi mới ở Việt Nam với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể.
Hai là, đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý. Khác
với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình
thức sở hữu: tồn dân, tập thể và tư nhân.
Ba là, đa dạng trong phân phối. Nếu như trước kia, chúng ta phân phối theo chủ
nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều cách khác nhau như theo
lao động (tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ), theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác, theo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”; “Trong
nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn,... cần chú trọng hơn đến: bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
10


Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay là cần phát triển khoa học kỹ
thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát

triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Muốn phát
triển sản xuất ở Việt Nam hiện nay, không chỉ cần phát triển lực lượng sản xuất mà cịn
phải xây dựng, hồn thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức là phải từng bước xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, điều
đó có nghĩa là, phải hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết những nhiệm vụ này sẽ là tiền đề để đưa nước ta từng bước thực hiện
mục tiêu đã được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII: Phấn đấu
đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước ta trở thành nước đang phát
triển có cơng nghiệp, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành
lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các
lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hồn tồn
mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Nhiều
nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc cách mạng này có thể mang lại sự bất bình
đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay
thế người lao động bằng máy móc có thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giữa lợi
nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với sức lao động.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng và tác động của Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, địi hỏi người lao động phải có trình độ chun môn kỹ thuật cao, kỹ năng
mềm tốt trong khi chất lượng lực lượng sản xuất ở Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Sự dịch chuyển sang nền kinh tế số, công nghệ số dẫn tới nhiều ngành nghề chứa
hàm lượng tri thức cao. Đây là thời kỳ mới để chính người lao động Việt Nam phải tăng
cường học hỏi, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng mặt khác, nó cũng tạo ra
tình trạng bất bình đẳng về cơ hội việc làm, bất bình đẳng giới, chênh lệch thu nhập dẫn
đến khoảng cách giàu – nghèo lớn và các hệ quả xã hội khác.
Ở Việt Nam, để nâng cao trình độ lực lượng sản xuất thích ứng với cuộc Cách
mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Cần tập trung phát triển người lao động bằng cách thực
hiện các giải pháp sau: Một là, nâng cao nhận thức của người lao động về vị trí, vai trị,
trách nhiệm của mình trong nền sản xuất hiện đại. Hai là, đổi mới hệ thống giáo dục và

đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao. Ba là, đầu tư cho nhân lực khoa học –
công nghệ. Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo và xuất khẩu lao động để thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, của chất lượng người lao động nói
riêng. Năm là, có chính sách dự báo nguồn nhân lực kịp thời cho các ngành, nghề trong
thời gian ngắn hạn và dài hạn. Sáu là, nâng cao chất lượng người lao động phải gắn liền
với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe toàn dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Kể từ khi tiến hành đổi mới đất nước cho đến nay, Đảng ta vẫn luôn chú trọng
mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, coi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
thước đo trình độ phát triển của đất nước. Trình độ đó được quyết định bởi tư liệu sản
xuất tiên tiến; bởi khoa học – công nghệ hiện đại và người lao động với thể lực tốt, trí
lực cao. Đặc biệt trong thời đại của kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế như hiện nay thì
11


yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất lại càng trở nên cấp thiết. Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nâng cao tay nghề, kỹ năng, tri thức cho người lao động. Thêm nữa, không chỉ là vấn đề
nâng cao trí lực cho người lao động mà việc nâng cao thể lực của người lao động cũng
rất cần được chú trọng, nhằm tạo ra đội ngũ lao động phát triển toàn diện. Đứng trước
yêu cầu của thời đại, người lao động Việt Nam cũng đã có những sự thay đổi nhất định:
có sự cải thiện về thể lực, sức khỏe, trình độ tay nghề và các kỹ năng mềm. Tuy nhiên,
do điểm xuất phát thấp cộng với các điều kiện kinh tế xã hội khác nên người lao động
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Nhờ vào các thành tựu khoa học – công nghệ mới mà
đối tượng lao động được mở rộng hơn, công cụ lao động hiện đại và đem lại năng suất
lao động cao hơn, các phương tiện lao động cũng góp phần tích cực vào q trình sản
xuất.

Câu 3: Nội dung của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay và
vấn đề đặt ra. Liên hệ thực tiễn ở địa phương?
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động trực

tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như quá trình phát triển của lồi
người. Do đó, khi nghiên cứu về q trình vận động, phát triển của xã hội loài người,
V.I. Lê nin đã bàn đến các vấn đề kinh tế, chính trị. Việc nghiên cứu về kinh tế và chính
trị là một trong những cơ sở quan trọng để hiểu rõ hơn về nội dung đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. Vậy:
Kinh tế: là những cách thức và phương thức của con người trong một xã hội nhất
định dùng để sản xuất và trao đổi với nhau.
Chính trị: là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia
có liên quan tới vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước. Hoặc: chính trị là
hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước để hiện thực hố lợi
ích cơ bản của mình trong mối tương quan với các chủ thể chính trị khác.
12


Từ tình hình thực tế tại Việt Nam, Đại hội VI, Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật
và đã nhận ra: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi
q xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Từ việc nhận thức lại quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; từ thực tiễn
phát triển kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ; trên tinh thần tôn trọng quy luật kinh tế khách
quan, Đại hội VI của Đảng ta đã xác định, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển sang
vận hành theo cơ chế mới. Cùng với đó là sự nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung và quan niệm của các nhà kinh điển mácxit về mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị nói riêng, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương đổi mới toàn diện và triệt để tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
đặc biệt Đảng đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong quá trình đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Đổi mới kinh tế được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập 2
trung bao cấp, căn bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là
bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là khép kín sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực
và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái và từng bước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nội dung đổi mới kinh tế ở
Việt Nam, đó là:
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế
hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đường lối kinh tế ấy được tiếp
tục khẳng định tại Đại hội VII là: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước” và nền kinh tế đó: “có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định rõ hơn mơ hình kinh tế của nước ta là: “Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đến Đại hội IX (2001) Đảng khẳng định, mơ hình kinh tế tổng quát là: “nền kinh
tể thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Đại hội X (2006) Đảng chủ trương tiếp tục:
“Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Đến Đại hội XI (2011), Đảng ta chủ
trương: “Phát triển nền kình tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối...”. Tại Đại hội XII, Đảng yêu cầu phải tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xây dựng và hoàn thiện “quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình
thức sở hữu, 3 nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
13



kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Đại hội XIII của Đảng bổ
sung nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Về hội nhập kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Mở cửa nền kinh tế với khu vực và thế giới để giải phóng
sức sản xuất xã hội.
Tại Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra phương châm:
“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ
bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu cột mốc quan trọng khởi đầu của Việt Nam tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ mới, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế đối ngoại song phương và đa phương. Từ đây, Đảng ta đã đưa ra chủ trương
tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia
ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ
kinh tế và mở rộng với các nước khác”.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), với mục tiêu xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
cập đến việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu phục vụ sự
nghiệp phát triển đất nước, tiếp tục đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong nhận
thức về nhu cầu cần tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội IX (2001) Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh việc chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được
tầm quan trọng của hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số
07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế.

Tại Đại hội X (2006), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Giai đoạn
này cũng đánh dấu một trong những sự kiện nổi bật về hợp tác kinh tế quốc tế khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1-2007. Ngày 05-022007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW
về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.
Tại Đại hội lần thứ XI (2011), Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại của đất nước
trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế”. Để cụ thể hóa chủ trương này, ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế, với mục tiêu củng cố mơi
trường hịa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng
14


bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng
họp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự
nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đại hội XII của Đảng (2016) đã đánh dấu những bước phát triển mới trong chủ
trương hội nhập quốc tế với tinh thần “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, thể hiện
tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đảng ta đã xác định trong Vãn kiện Đại hội
XII: mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất qn đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa
trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy
và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp
phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định mục tiêu: “Bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, họp tác, cùng có lợi... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn
lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Để thực hiện được mục
tiêu đó cần “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định, khơng ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của
Việt Nam”.
Có thể nói, q trình hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện rõ tính chủ động, tích cực trên tinh thần độc
lập, sáng tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn kết mục tiêu cách
mạng và định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát triển của thời đại. Quan
điểm chủ động trong hội nhập quốc tế trước hết là hoàn toàn chủ động quyết định chủ
trương, đường lối, chính sách hội nhập quốc tế trên cơ sở nắm vững quy luật, tính tất
yếu của các xu thế quốc tế, sự vận động kinh tế toàn cầu. Đồng thời phát huy đầy đủ
năng lực nội sinh, xác định lộ trình, nội dung, quy mơ, bước đi phù hợp, đa dạng hóa,
đa phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế. Chủ động còn bao hàm sự sáng tạo, lựa
chọn phương thức hành động đúng, dự báo được những tình huống trong hội nhập quốc
tế.
Trên tinh thần đó, Việt Nam đã tham gia nhiều quan hệ quốc tế cơ bản với
những mức độ, phạm vi và tính chất khác nhau. Hội nhập quốc tế sâu rộng, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng
trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới; đồng thời,
tạo động lực mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Những
mốc đặc biệt đánh dấu sự hội nhập kinh tế của Việt Nam phải kể đến là Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định thương mại tự do (FTA) và
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA).

15


Từ khi đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi căn bản. Nền kinh tế từ chỗ
là nền kinh tế mang nặng tính chất hiện vật (quan hệ hàng hóa - tiền tệ chỉ được thừa
nhận về mặt hình thức, cịn trên thực tế là thực hiện chế độ cấp phát, giao nộp, phân
phối theo kế hoạch đến tận tay người tiêu dùng), các đơn vị kinh tế khơng có quyền tự
chủ trong sản xuất - kinh doanh, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, các đơn vị kinh tế
có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất, kinh doanh. Từ một nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thống nhất cao độ chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, dần xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Từ nền kinh tế
nhà nước là chủ thể quyết định phân phối dẫn tới xác định rõ vị trí, vai trị của phân
phối lần đầu với phân phối lại và vai trò của thị trường, vai trò của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phân phối. Từ chỗ thực hiện phân phối bình quân, sử dụng tem phiếu
sang phân phối theo hiệu quả kỉnh tế, theo kết quả lao động, theo vốn đóng góp và theo
phúc lợi xã hội.
Trong kinh tế đối ngoại, từ chỗ chủ yếu trao đổi ngoại thương với các nước xã
hội chủ nghĩa dưới hình thức nghị định thư, hợp tác kinh tế, nhà nước độc quyền ngoại
thương, chuyển sang nền kinh tế mở, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ và các hình thức kinh tế đối ngoại; từ nền kinh tế khép kín, kinh tế Việt Nam đã
chuyển sang nền kinh tế mở, hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế và trở thành một bộ
phận của nền kinh tế thế giới.
Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ở nhiều mức độ khác nhau với trên 200
quốc gia và vùng lãnh thổ, vì hịa bình, hợp tác hữu nghị, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Với những quan điểm đúng đắn và phù hợp trong hội nhập quốc tế trong những năm
qua, ngày 7-6-2019, Việt Nam được bầu trở thành nước ủy viên không thường trực của
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020- 2021 với 192/193 phiếu. Đây là số
phiếu cao nhất trong 75 năm phát triển của Liên Hợp quốc; góp phần tiếp tục khẳng
định vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và

chính trị, Đảng ta xác định: đổi mới chính trị khơng phải thay đổi định hướng xã hội
chủ nghĩa; đổi mới chính trị cho phù hợp với đổi mới kinh tế nhưng phải phù hợp với
bản chất của chế độ kinh tế của chủ nghĩa xã hội, góp phân khẳng định quyền làm chủ
của nhân dân, củng cố quyền lực của nhân dân.
Đổi mới chính trị là “đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị... việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và
chuẩn bị rất nghiêm túc, khơng cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn.
Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ
chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân”.
Bởi, chính trị là lĩnh vực rộng lớn, đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và
nhạy cảm, nên phải có sự cân nhắc, nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, thận trọng,
không thể vội vàng. Quá trình đổi mới chính trị, xuất phát từ thực tiễn đất nước.
Trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, từ Đại hội VII, Đảng ta chủ trương tiến
hành đổi mới chính trị mà thực chất là tập trung vào đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đó, “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là
thực chất của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là
16


động lực của cơng cuộc đổi mới”. Đồng thời, “Tồn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Điều đó cho
thấy, q trình đổi mới hệ thống chính trị gắn liền với việc bảo đảm quyền lực chính trị
thật sự thuộc về nhân dân, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Công việc đầu tiên trong đổi mới hệ thống chính trị là xác định rõ vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối liên hệ lẫn nhau của các tổ chức đó trong một
thiết chế chung thống nhất, khắc phục tình trạng trùng lắp, lấn sân hoặc đùn đẩy lẫn
nhau, không thực hiện đủ và đúng trách nhiệm của mình.
Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị trong những năm đầu đổi mới là tập
trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống.

Bởi, vấn đề đặt ra bức xúc lúc đó là tình trạng bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, nhiều
tầng nấc trung gian không cần thiết gây trở ngại cho sản xuất và quản 8 lý xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới.
Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới
toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, và
coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ
lớn “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt”.
Đại hội X, với mục tiêu: “đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi,
hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực
tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt
động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ
phận của hệ thống chính trị”.
Đại hội XI của Đảng tập trung ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu. Một là, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Hai là, xây dụng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Ba là, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương. Đây là ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính
trị mà Đại hội XI của Đảng xác định. Trong đó, đổi mớỉ phương thức lãnh đạo của
Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Đến Đại hội XII, Đảng ta khẳng định rằng, cần tập trung cao độ cho đổi mới
chính trị, đặc biệt là chú trọng cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh. Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục chủ trương đó đã khẳng định:
“Tiếp tục đổi mới, hồn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người...,
đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.


17


Do vậy, hiện nay chính trị tập trung giải quyết những vấn đề: cải cách hành
chính; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; đổi mới công tác cán bộ; làm trong sạch đội
ngũ cán bộ, đảng viên...
Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, thực chất của đổi mới
chính trị được hiểu là: đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường lên
chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị,
trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
Tuy nhiên, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 11994), Đảng ta đã chỉ ra những thách thức, những nguy cơ lớn đối với sự nghiệp đổi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Những thách thức là: nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…; nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa…; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn
biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau,
tác động lẫn nhau” và hiện vẫn đang đe dọa sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vạch rõ: “Bốn nguy
cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào
bẩy thu nhập trung bình cịn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường, chưa đảm bảo
phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát
huy điều kiện kinh tế xã hội đặc thù. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ củng

như những mâu thuẩn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tăng cường
chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, giữ 10 gìn mơi trường hịa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu,
dịch bệnh là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với sự nghiệp
đổi mới và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian tới.
Đổi mới kinh tế đã mang lại thành quả rất lớn. Tuy nhiên q trình đổi mới kinh
tế nước ta vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, thách thức đó là: một là, q trình chuyển đổi
mơ hình phát triển kinh tế chưa được đồng bộ và đạt được các kết quả mạnh mẽ trong
việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động diễn ra khá chậm so với sự phát triển của nền kinh tế; ba
là, các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy hết vai trị củng như động lực phát triển
của mình; Bốn là kết cấu hạ tầng chưa theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế; năm
là, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa theo kịp với trình độ phát triển kinh tế, vẫn cịn
nặng tính địa phương, vùng miền, …Từ những khó khăn và thách thức trên có thể đưa
nước ta đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, rơi vào bẩy thu nhập trung bình so với
các nước trong khu vực và trên thế giới đây là nguy cơ thường trực và khó khắc phục.
18


Đổi mới về chính trị tuy chưa hồn tồn đáp ứng được yêu cầu của đất nước
trong tình hình mới, nhưng cần khẳng định, đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to
lớn hiện nay. Những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước
thẳng thắn chỉ rõ và tìm cách khắc phục, như Đại hội XII đề cập: “Đổi mới chính trị
chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Trong quá trình đổi mới chính trị vẫn cịn tiềm ẩn nhiều
nguy cơ thách thức, đó là:
Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn. Trong cơ chế thị
trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, ngồi phân phối theo lao động
cịn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân

hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất công xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan
hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của
chủ nghĩa xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức
nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa thể hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng
của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà
nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự
băng hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc;...
Nguy cơ từ tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để. Để khắc chế nguy cơ
này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và
chống, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả những biểu hiện suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: Sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn tới
tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc.
Những thời cơ và thách thức, cơ hội và nguy cơ luôn xuất hiện đan xen nhau và
việc nhận diện chúng đóng vai trị hết sức quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế,
đổi mới chính trị trong điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó, cần tận
dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu
cao cả là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bạc Liêu vẫn ngày càng
trù phú do phù sa bồi lấn ra biển và hơn hết là nhờ sự “chung sức, đồng lòng” dựng xây

quê hương của ba dân tộc Kinh, Khơme và Hoa. Từ khi tái lập tỉnh đến nay, tỉnh Bạc
Liêu không ngừng đổi mới và phát triển. Khi mới tái lập tỉnh chỉ có 4 đơn vị hành chính
gồm: 3 huyện (Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai) và thị xã Bạc 12 Liêu, trong đó thị xã Bạc
19


Liêu là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh. Đến nay, tỉnh Bạc Liêu có 07 đơn vị hành chính, gồm: 01
Thành phố (Thành phố Bạc Liêu), 01 thị xã (Thị xã Giá Rai) và 05 huyện (huyện Phước
Long, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Hồ Bình, Đơng Hải). Khi mới tái lập tỉnh, Bạc Liêu đứng
trước mn vàn khó khăn: thiếu vốn, nhân lực, yếu về cơ sở hạ tầng, kinh nghiệm quản
lý, xa các trung tâm kinh tế lớn…Từ đó nhiệm vụ đổi mới kinh tế, xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh là yêu cầu cấp bách được đặt ra. Với vị trí xuất phát thấp, xa các
trung tâm kinh tế lớn, Bạc Liêu ln đứng ở vị trí cuối bảng xếp hạng về tăng trưởng
kinh tế của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long sau những năm mới tách tỉnh (năm
1997). Từ tình hình trên tỉnh đã tiến hành các giải pháp, tập trung khai thác tốt các tiềm
năng, lợi thế và quán triệt phương châm hành động hóa giải các nguy cơ trở thành thời
cơ, tạo thêm động lực mới cho phát triển, Bạc Liêu đã xác định được hướng đi của
mình bằng việc xây dựng 5 trụ cột phát triển đó là: Nơng nghiệp, trọng tâm là nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất tôm, lúa gạo; Năng lượng
tái tạo, gồm: điện gió, điện mặt trời và điện khí; Phát triển du lịch; Phát triển thương
mại dịch vụ, giáo dục, y tế chất lượng cao; Phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc
phịng, an ninh. Theo đó, làm chuyển biến cơ bản những khó khăn, từng bước hóa giải
những thách thức và bước đầu đã khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế vốn có, góp phần
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và vượt lên vị trí thứ hai của khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long về tăng trưởng năm 2020. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình
năm sau cao hơn năm trước; Thu thập bình quân đầu người đạt gần 55 triệu đồng/năm;
tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 28.500 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 785 triệu
USD…Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh khóa XVI (nhiệm kỳ 2020- 2025) xác
định: bên cạnh việc phát huy nội lực, chú trọng thu hút ngoại lực và kết hợp chặt chẽ
hai nguồn lực này để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến cuối

nhiệm kỳ, đưa Bạc Liêu trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực và trung bình khá
của cả nước, gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ
Tỉnh ngày càng vững chắc. 13 Bên cạnh cải cách về kinh tế Bạc Liêu củng tập trung đổi
mới về chính trị mà cụ thể là: tập trung cải cách hành chính, xây dựng chính quyền điện
tử, dịch vụ đô thị thông minh đáp ứng yêu cầu phát triển; phát triển và nâng cao năng
lực cạnh tranh của kinh tế tư nhân; phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, điều hành ở các cơ quan quản lý công và khu vực doanh nghiệp. Qua
hơn 20 năm xây dựng và phát triển, với quyết tâm đổi mới, chỉ đạo, điều hành quyết liệt
của cả hệ thống chính trị cùng với sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, tỉnh Bạc Liêu
đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định và phát triển khá; hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực, năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên không
ngừng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, đối với
một tỉnh xa trung tâm, điều kiện giao thông không thuận lợi, cùng với những diễn biến
phức tạp về dịch bệnh và tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng sẽ là những khó
khăn, thách thức rất lớn. Mặc dù, kinh tế – xã hội của tỉnh đã có sự phát triển nhưng
chưa bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch vẫn còn chậm; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã
hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, điện, thủy lợi; đời sống
một bộ phận nhân dân vẫn cịn khó khăn; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao; nhu cầu
đầu tư phát triển của tỉnh rất lớn nhưng khả năng cân đối vốn của ngân sách có hạn, q
trình đổi mới kinh tế cịn có nhiều bất cập, có thời điểm còn chưa xác định được mục
tiêu trọng tâm, còn mắc bệnh chủ quan, bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, đường lối,
20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×