Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

xác định một số đặc điểm sinh học và các bệnh thường gặp của nhím bờm nuôi nhốt trong nông hộ tại tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 69 trang )

1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cs Cộng sự
Tr Trang
n Số con
STT Thứ tự
Đvt Đơn vị tính
h Giờ
g Gam
Kg Kilogam
đ Đồng
% Phần trăm
kl khối lượng
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
1
1
2
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hòa cùng với sự phát triển của nền kinh tế các nước trên thế giới và trong khu
vực, nền kinh tế nước ta cũng có những bước phát triển, nhu cầu của người tiêu
dùng về thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao ngày càng được người tiêu dùng quan
tâm. Cùng với nghề nuôi gấu lấy mật, nuôi hươu lấy nhung, nuôi ong lấy mật thì
nghề nuôi nhím đang phát triển rầm rộ trong vài năm gần đây và hiện đang trở
thành nghề chăn nuôi có giá trị thu nhập cao.
Nhím bờm là loại động vật hoang dã quý hiếm sống trong rừng núi ở nhiều địa
phương của nước ta và các nước trên thế giới. Đây là loài động vật đặc sản quý
hiếm: Thịt có mùi thơm đặc biệt, tỷ lệ đạm cao, rất bổ phù hợp với thị hiếu của
nhiều người tiêu dùng được bán trên thị trường với giá tướng đối cao. Nhím bờm có
tầm vóc cơ thể khá lớn, chịu được kham khổ, dễ nuôi, chống chịu bệnh tật tốt,


nguồn thức ăn đa dạng phong phú, phù hợp với điều kiện kinh tế, khí hậu tập quán
chăm sóc của nhân dân ở nhiều địa phương và ở vùng núi, vùng cao. Trong một số
năm gần đây, chúng cũng đang bị săn lùng ráo riết đẩy chúng vào nguy cơ diệt
vong. Một số nơi đã bắt đầu thuần hóa và nuôi chúng, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng ngày một tăng.
Tuy nhiên, đến nay có rất ít công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên
cứu về giống nhím bờm này. Do vậy những nghiên cứu góp phần xác định về các
đặc điểm sinh trưởng, phát triển, sinh lý sinh dục, sinh sản và các bệnh thường gặp
của giống nhím bờm là cần thiết. Các nghiên cứu này nhằm cung cấp những thông
tin về giống nhím bờm cho các nhà chăn nuôi để có cơ sở so sánh với các giống
nhím khác. Từ đó góp phần đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nâng cao
hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi động vật hoang dã và thuần chủng chúng để sinh
sản và phát triển. Trước thực tiễn đó chúng tôi tiến hành đề tài: “Xác định một số
đặc điểm sinh học và các bệnh thường gặp của nhím bờm nuôi nhốt trong nông
hộ tại tỉnh Bắc Kạn”.
2
2
3
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Xác định được một số đặc điểm sinh học cơ bản của nhím bờm như quá
trình sinh trưởng phát triển, sinh lý sinh dục, sinh sản, khả năng cho thịt và
chất lượng thịt.
2.2. Xác định được một số bệnh thường gặp và biện pháp phòng trị
2.3. Đưa ra một số biện pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả nuôi nhím bờm trong nông
hộ
3. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những tư liệu góp phần nâng cao hiểu biết
về những đặc điểm sinh học cơ bản của nhím bờm.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Những nội dung nghiên cứu của đề tài có thể áp dụng vào thực tiễn chăn
nuôi của người dân nhằm nâng cao thu nhập cho người dân.
- Góp phần đẩy mạnh chương trình phát triển chăn nuôi nhím trong nông hộ
ở khu vực miền núi phía Bắc.
Chương 1
3
3
4
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vị trí phân loại của nhím trong hệ thống phân loại động vật
Nhím Bờm có tên khoa học là Acanthion Subcristatum. Tiếng la tinh có
nghĩa là: Quill big (lợn lông) mặc dù nó chẳng phải là lợn.
Theo Lê Hiền Hào 1973[7] nhím bờm là một loài động vật hoang dã có tên
khoa học là Acanthionsubcristatum.
Tiếng Anh là Porcupine.
Tiếng Thái là Tô Miển.
Nhím thuộc loài: Hytrixhodgsoni.
Họ Nhím Hysticidac có bộ răng 1.0.1.3./1.0.1.3 = 20 chiếc
Bộ gặm nhấm Rodentia.
Theo Lê Hiền Hào 1973 [7], loài nhím bờm phân bố ở một số nước như
Nêpan, Axan, Têlaxêrim, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia,Việt Nam, Trung
Quốc (ở tỉnh thiểm tây và các tỉnh phía nam lưu vực sông Trường Giang và có cả ở
đảo Hải Nam).
Nhím bờm là loài thú phổ biến gặp ở các địa phương vùng núi và trung du
trừ đồng bằng Miền Bắc Việt Nam. Nhím cùng thường gặp trên các đảo gần bờ ở
phía Đông Bắc Bộ, Võ Văn Sự và cs 2006 [31].
Nhím lông hay thường được gọi là nhím là tên gọi cho một số loài động vật
thuộc bộ Gậm Nhấm (Rodentia). Chúng phân bố trên cả Cựu Thế Giới và Tân Thế
Giới. Tên gọi nhím trong tiếng Việt cũng có thể đề cập đến một số loài trong bộ
nhím gai (Erinaceomorpha) hay họ Tachyglossidae của bộ Monotremata, có nhiều

đặc điểm khác hẳn với họ nhím lông Cựu Thế Giới (Hystricidae) và Họ Nhím lông
Tân Thế Giới (Erethizontidae). Sau lợn nước và hải ly, nhím phân bố rộng thứ ba
trong bộ gặm nhấm. Phần lớn những con nhím dài 630 - 910 mm với chiếc đuôi dài
khoảng 200 - 250 mm. Với khối lượng 5,4 kg - 16 kg, chúng hay cuộn tròn và chậm
chạp, nhím có nhiều màu sắc như: nâu, xám và ít khi có màu trắng.
* Các loài Nhím
4
4
5
Có khoảng 27 loài nhím trong hai họ Hystricidae và Erethizontidae. Chúng
có khả năng tự vệ nhờ bộ lông sắc nhọn xung quanh. Các loại nhím khác nhau có
khối lượng khác nhau khá nhiều: Loại nhím Rothschild (Coendourothschild) ở
Nam Mỹ có khối lượng ít hơn 1kg trong khi đó loại nhím châu phi
(Hystrixcristata) có thể nặng tới 10kg. Hai họ nhím này khá khác nhau mặc dù
chung cùng thuộc cận bộ Hystricognathi trong bộ gậm nhấm rộng lớn theo


.africaonline.com [52].
Mười một loài nhím trong họ nhím Cựu Thế Giới gần như chỉ sống trên mặt
đất. Chúng được cho rằng tách ra từ cận bộ Hystricognathi từ 30 triệu năm về trước,
sớm hơn nhiều so với họ nhím lông Tân Thế Giới.
Những loài thuộc họ Nhím lông Tân Thế Giới nói chung nhỏ hơn nhiều so
với những loài thuộc họ nhím lông Cựu Thế Giới, mặc dù loài nhím Bắc Mỹ
(Erethirron dorsatum) dài đến 85 cm và nặng đến 18 kg. Các lông của chúng mọc
đơn lẻ chứ không mọc thành cụm và chúng leo trèo cây rất tốt, tiêu tốn nhiều thời
gian trên cây. Các loài nhím lông Tân Thế Giới đã tiến hóa lông gai của chúng một
cách độc lập và có họ hàng gần gũi với một vài họ khác của tiểu bộ Caviomorpha
(tiểu bộ chuột lang) của bộ gặm nhấm hơn là so với nhím lông Cựu Thế Giới.
* Phân loại Nhím
Bộ Rodentia

Phân bộ Hystricomorpha
Cận bộ Hystricognathi
Họ Hystricidae: Nhím lông Cựu Thế Giới
Nhím đuôi chổi châu Phi, Atherusrus apricanus
Nhím đuôi chổi châu Á, Atherusrus macrourus
Nhím châu Phi, Hyrtrix cristata
Nhím Cape, Hyrtrixafricaeaustralis
Nhím Himalaya, Hyrtrix hodgsoni
Nhím Ấn Độ, Hyrtrix indicus
Nhím Ma Lai, Hyrtrix brachyura
5
5
6
Nhím Suda, Hyrtrix javanica
Nhím Sumatra, Hyrtrixsumatrae
Nhím Borneo, Thecurus crassispinis
Nhím Philippine,Thecurus pumilis
Nhím đuôi dài, Trichys pasciculata
Họ Thryonomyidae: Chuột mía
Họ Petromuridae: Chuột đa man (đề thỏ)
Họ Bathyergidae: Chuột chũi châu phi
Họ Caviidae: Chuột lang
Họ Dasyproctidae: Agouti và acouchi
Họ Erethirontidae: Nhím lông Tân thế giới
Nhím Brasil, Coendou prehensilis
Nhím gai hai màu, Coendou bicolor
Nhím Koopman, Coendou koopmani
Nhím Rothschild, Coendou rothschildi
Nhím cây Mexico Sphiggururus mesicanus
Nhím cây Nam Mỹ Sphiggururus spinosus

Nhím Nam Mỹ Sphiggururus Spinosus
Nhím lùn lông Bahia, Sphiggurus in sidiosus
Nhím lùn lông Pallid, Sphiggururus pallidus (tuyệt chủng)
Nhím lùn lông Brown, Sphiggururus vestitus
Nhím lùn lông gai da cam, Sphiggururus villosus
Nhím Bắc Mỹ, Erethizon doasatum
Nhím đuôi cụt, Echinoprocta rufescens
Nhím gai cứng, Chaetomys subspinosus (đôi khi được coi thuộc họ Echimyidae)
Họ Chinchillidae: Sóc sinsin (chuột lông tơ) và viscacha
Họ Octohontidae: Chuột đá Nam Mỹ, degu
Họ Ctenodactylidae: Gundi
Họ Myocastoridae: Coypu
6
6
7
Họ Ctenomyidae: Tuco - tuco
1.2. Những hiểu biết về nhím
Theo “Quỹ Động vật hoang dã Nam Phi” African Wildlife Foundation, nhóm
nhím Nam Phi có 3 giống đó là: Nhím bờm (Crested porcupine) khá phổ biến, tiếp
theo là nhím Nam Phi - South African porcupine (Hystrix africaeaustralis) và cuối
cùng là nhím đuôi chổi (African brush - Tailed porcupine Atherurus africanus) nhỏ
hơn, thon thả hơn và sống cách biệt ở Kenya (Võ Văn Sự và cs, 2005) [32].
Theo các tư liệu của Trường Đại học Michigan, Viện bảo tàng Động vật
(2003) [45] thì vùng Bắc Mỹ cũng có nhím với tên gọi là: nhím, nhím Bắc Mỹ,
nhím Châu Mỹ (American Porcupines)
Như vậy ta có thể phân loại nhím làm 3 nhóm: Việt Nam, Nam Phi và Bắc
Mỹ. Sau đây là các đặc điểm cơ bản của từng nhóm.
1.2.1. Nhím bờm Nam phi
Là một trong loài gặm nhấm to (thân dài 30 inch ~ 75 cm) và nặng nhất
Châu Phi (44 bảng Anh ~ 20 kg), tuy nhiên khá khác nhau về kích thước. Đầu hơi

tròn, mũi ngắn mắt và tai nhỏ. Chân nhím bờm ngắn, khỏe. Bàn chân có 5 ngón và
được bọc bằng các móng sắc nhọn, chia thành các đoạn đen, nâu, hơi vàng và trắng.
Lông lưng, hai sườn, và đuôi có lẫn với các loại lông mềm khác. Độ dài của lông
thay đổi theo bộ phận trên thân, lông lưng giao động từ 2,5 cm đến 30 cm. lông
thường nằm bẹp úp với thân, chỉ có khi nào gặp kẻ thù nó mới dựng và xù lên, lông
cũng dễ bứt ra khỏi da.
* Nơi ở: Nhím Nam Phi thường sống ở vùng đồi núi, núi đá, nhưng cũng rất rễ
thích nghi ở các địa hình khác. Người ta còn phát hiện nhím này có ở vùng núi
Mt.Kilimanjaro, cao 11,480 feet. Chúng thường sống trong các hốc đất, gốc cây, hang
đá đã được sửa chữa cho phù hợp với yêu cầu của chúng. Nhím cũng có thể ở trong
các hang hốc mà con vật khác đã làm, nhưng chúng cũng có thể tự đào lấy hang riêng
cho mình. Nếu chúng sống ở một hang hố nào đó vài ba năm thì hang hố đó có thể có
một vài cửa ra - vào theo Phùng Quang Trường (2006) [39].
7
7
8
* Tập tính: Là một loài vật được vũ trang tốt, nguy hiểm nhím luôn cảnh báo
với các kẻ thù tiềm ẩn khác. Khi có báo đông, nhím dẫm mạnh chân, nghiến răng,
dựng và xù ra bộ lông điển hình của loài này. Khi xù lông đuôi vây nó tạo thành
tiếng động. Nếu kẻ thù cứ tiếp tục tấn công thì nó sẽ lùi lại và chọc lông vào kẻ thù.
Thường quả đánh đó rất hiệu quả vì phần mông của nhím nặng nhất và lông thường
cắm thẳng vào đuôi.
Nhím thích đi dọc đường, lối mòn vào ban đêm chúng có thể đi xa đến 9 dặm
để kiếm ăn. Thức ăn chính của nó chủ yếu là rễ cây, củ, quả, hoa quả tự nhiên
nhưng cũng rất thích ăn các loại củ quả do con người trồng như sắn, khoai lang và
cà rốt Mặc dù là động vật ăn chay, nhưng chúng cũng thích ăn cả xương động vật
và các loại khoáng chất khác.
* Đời sống tình dục: Nhím Bờm Châu Phi có số ngày mang thai là 112 ngày.
Một lứa có thể đẻ được từ 1 đến 4 con. Nhím con phát triển nhanh và mở mắt ngay
khi đẻ ra. Hai tuần sau nhím con có thể rời tổ và lông bắt đầu cứng. Nhím con khá

hiếu động và thích chạy đùa cùng nhau. Nhím con bú mẹ từ 6 đến 8 tuần và tập ăn
cây cỏ sau tuổi này. Tuổi thọ của nhím khá cao, có con sống đến 20 năm. Khi quần
thể nhím đông đúc, chúng có thể gây hại cho hoa màu. Có thể hun khói hoặc dùng
chó săn, bẫy để đuổi và săn bắn chúng.
* Kẻ thù: Nhím trông bề ngoài nhím cực kỳ hung dữ, nhưng nhím cơ bản là
một loài nhút nhát. Dã thú của nó là con trăn, con báo, chó sói cũng là kẻ thù của
lũ nhím, đôi khi kẻ thù của nhím cũng chết do lông nhím đâm vào họng.
1.2.2. Nhím Bắc Mỹ
Có mặt hầu hết ở các vùng Bắc Mỹ từ Alaska đến Labrado. Tại Trung Mỹ có
ở các bang Lake States và New England, ở vùng Trung Bắc có nhiều ở bang
Michigan, Winsconcin và Minnesota. Nhím Bắc Mỹ nặng từ 3 đến 7 kg. Một số
chiều đo của cơ thể như sau:
Chiều Dài thân: 64 đến 93 cm
Đuôi dài : 15 đến 30 cm
Tai dài : 2 đến 4 cm
8
8
9
Chân sau dài : 8,5 đến 12,5 cm
Nặng : 4 đến 8 kg
Màu lông thường nâu sẫm. Lông lưng, hai sườn và đuôi có lẫn với các loại
lông mềm khác. Độ dài của lông thay đổi theo bộ phận trên thân, lông lưng giao
động từ 2,5 cm đến 30 cm. Lông thường nằm bẹp úp với thân, chỉ có khi nào gặp kẻ
thù nó mới dựng và xù lên, lông cũng dễ bứt ra khỏi da. Lông nhím có thể hơn 30
ngàn cái, lông dài nhất là ở đuôi và ngắn nhất là ở vùng má.
Bàn chân trước có 4 ngón và chân sau có 5 ngón, như vậy đây là một điểm
khác cơ bản giữa nhím Châu Mỹ và Nam Phi. Nhím cái có 2 hàng vú, nhưng cũng
đã bắt gặp cá thể có 3 hàng vú, nhím Bắc Mỹ hoạt động quanh năm. Thức ăn mùa
hè của nó là các loại lá cây và cỏ. Mùa đông chúng ăn lớp vỏ bên trong của cây.
Chúng rất thích muối nên thường hay ra đồng nơi mà muối được rắc kết với nhau

thành băng (ice) xung quanh khu vực người ở, chúng gặm nhấm tất cả những gì có
chứa muối. Nhím Châu Mỹ cũng rất thích ăn cả xương động vật cũng như nhím
Châu Phi.
Sinh sản xẩy ra vào đầu mùa đông. Nhím cái thuộc loại động dục nhiều lần
(Polyestrous) và chu kỳ động dục này là 25 - 30 ngày nếu như thụ thai không xảy ra
trong thời kỳ rụng trứng. Rụng trứng xảy ra đồng thời và có thể thay nhau từ buồng
trứng phải đến buồng trứng trái. Thời gian động dục kéo dài 8 đến 12 giờ. Nhím
đực thường đánh nhau tranh giành con cái. Cuộc vuốt ve thường bao gồm các công
đoạn: Kêu to một điệu múa khôi hài ngắn và con đực vãi nước tiểu vào người con
cái, noãn hoàn của nhím đực xa xuống bìu, nhím cái khi muốn giao phối nước tiểu
của chúng cũng nặng mùi.
Quá trình sinh tinh xảy ra cực điểm vào tháng 10, sau khi giao phối nhím cái
xua đuổi nhím đực. Thời gian chửa là 90 - 95 ngày và con sinh ra vào tháng 4 đến
tháng 6.
Nhím mẹ nuôi con đến 6 tháng tuổi, tại phòng thí nghiệm người ta nuôi nhím
con trong vài tháng, nhưng trong cuộc sống hoang dã nhím con có thể tồn tại được
vài tuần sau khi sinh với thức ăn cây cỏ. Sau 2 tuần nhím con có thể ăn thức ăn
9
9
10
cứng, 16 đến 24 tháng tuổi nhím đạt độ thành thục. Nhím có thể sống được 10 năm,
trong điều kiện hoang dã nhím có thể sống được 5 - 6 năm. Nhím thường sống độc
thân, tuy nhiên nhiều lúc cũng sống thành từng nhóm đặc biệt là vào mùa đông,
mùa đông chúng thường trú ẩn trong hang hốc. Khi gặp thời tiết xấu chúng cũng
không rời khỏi nơi trú ngụ. Mùa hè chúng thường leo lên cây để tránh sâu bọ.
Nhím nhìn kém, nhưng bù lại cảm giác và khứu giác khá tốt. Nhím thuộc
loài ăn đêm nhưng đôi lúc cũng bò ra kiếm ăn băn ngày. Chúng thường ở một nơi
qua nhiều năm, chúng cũng hay di cư từ nơi này sang nơi khác để kiếm sống.
Nhím không bắn lông nhưng cũng dễ cắm lông chúng vào con vật tấn
công chúng.

Nhím cũng là những “vận động viên bơi lội khá giỏi”. Các tập tính khác của
nhím con Châu Mỹ cũng giống như nhím Nam Phi.
Nhím được xem như động vật vô ích, tuy nhiên đâu đó vẫn được dùng làm
thực phẩm, lông nhím được người Mỹ bản xứ làm hộp, đồ trang sức và các sản
phẩm nghệ thuật khác Theo North American Porcupine (2005) [55].
1.2.3. Nhóm nhím Việt Nam
Theo Lê Hiền Hào 1973 [8] loài nhím Bờm có ở một số nước như Ne Pan,
Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia, Việt Nam, Trung Quốc (ở tỉnh Thiểm Tây
và các tỉnh phía nam lưu vực sông Trường Giang và có cả ở đảo Hải Nam).
Nhím là loài thú phổ biến gặp ở các địa phương thuộc vùng núi và trung du
trừ đồng bằng ở Miền Bắc Việt Nam. Nhím cùng thường gặp trên các đảo gần bờ ở
phía Đông Bắc Bộ. Vật mẫu của nhím đã sưu tầm được ở hầu hết các tỉnh: Quảng
Ninh, Hà Bắc, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh
Phú, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ, Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, ở Nam Hà cũng gặp nhím nhưng chỉ
phát hiện ở gần đồi núi tiếp giáp với tỉnh Hòa Bình theo Lê Hiền Hòa (1973) [7].
Nhím bờm là loại lớn nhất trong bộ gặm nhấm, nặng trung bình từ 15 - 20
kg, thân và đuôi dài từ 80 - 90 cm. Hình dáng nặng nề, mình tròn đầu to, mõm ngắn
10
10
11
có 4 răng cửa rẹt và rất sắc, mắt nhỏ, tai nhỏ, chân ngắn (4 chi) 2 chi sau ngắn hơn 2
chi trước, móng chân nhọn sắc để bới rễ, bới củ cây rừng và đào hang trú ẩn.
Trên lưng lông là những gai cứng, nhọn nhất là nửa lưng phía sau (có hai loại
lông cứng: 1 loại dài nhỏ và một loại dài to, ngắn), lông là những tiêm tròn cứng dài
từ 10 đến 30 cm và nhọn có khúc trắng, khúc đen mọc thành chùm từ 3 - 4 cái.
- Ở vùng bụng lông nhím biến thành sợi cứng có mầu đen. Sau gáy có một
dải lông trắng dựng ngược như cái mào, xung quanh cổ viền lông trắng, đuôi ngắn
có những sợi lông phía đầu phình ra thành từng cốc rỗng ruột mầu trắng. Khi cần
thiết gặp kẻ thù thì nhím dung đuôi, những lông chuông này tạo thành một tiếng kêu

“lách cách”, “lè xè” để dọa nạt kẻ thù và thông báo với những con vật cùng đàn
những tín hiệu để lẩn tránh kẻ thù theo Ngô Trọng Lư (2002) [14].
Nhím có 4 chiếc răng cửa dẹt và rất sắc, tai nhỏ chân ngắn, móng chân nhọn
và rất sắc dùng để đào bới kiếm ăn và làm hang để ở.
1.2.4. Một số bài thuốc từ con nhím
Ngoài ra, các bộ phận khác của nhím cũng được sử dụng vào nhiều việc :
Mật nhím được dùng để chữa đau mắt và xoa bóp các vết thương và cũng có thể
dùng để chữa đau lưng. Thịt, ruột già, gan và cả phân nhím cũng được sử dụng để
chữa bệnh phong nhiệt, đặc biệt dạ dày của nhím lại là vị thuốc rất độc đáo để chữa
cho chính dạ dày của người. Vì vậy, người ta săn bắt nhím nhiều cũng là bởi muốn
lấy được cái dạ dày của chúng, người Trung Quốc rất mê vị thuốc này.
Theo Đỗ Tất Lợi (2001) [13], dạ dày của nhím có thể chữa được nhiều bệnh.
Người ta gọi dạ dày nhím là thích vị bì, ta không dùng cả cái dạ dày mà chỉ bóc lấy
lớp màng bao phủ dạ dày sau đó đem sấy khô để dùng dần. Khi dùng sao chúng
bằng cát nóng, màng sẽ nở phồng lên, sắc thuốc hoặc tán thành bột để uống.
Dạ dày nhím có vị đắng, ngọt, tính bình nó có tác động vào kinh vị và đại
tràng và có tác dụng lương huyết (mát máu), giải độc, giảm đau, trị lậu ra huyết. Có
thể dùng nó để chữa những trường hợp trĩ lòi dom chảy máu, di mộng tinh, nôn
mửa, lỵ ra máu. Người ta vẫn thường dùng với liều lượng từ 6 - 16 gam dưới dạng
thuốc bột hay sắc uống. Một số đơn thuốc có sử dụng dạ dày nhím mà theo Đỗ Tất
Lợi (2001) [13] đã nêu ra như sau.
11
11
12
1. Chữa lòi dom chảy máu
Dạ dày nhím sao phồng (với hoạt thạch rồi bỏ hoạt thạch) dùng 10g hoa hoè
sắc kĩ với 100 ml nước. Sau đó dùng 3 - 6 gam dạ dày nhím đã sao vàng và tán
thành bột hoà với nước hoa hoè đã sắc chia làm 3 lần uống trong ngày.
2. Chữa thuỷ thũng, cổ trướng, hoàng đản
Đốt dạ dày nhím và tán mịn. Mỗi lần lấy 8g hoà với rượu và uống, bệnh sẽ

thuyên giảm.
Theo cuốn “Những động vật cho vị thuốc quý chữa bệnh” thì tác giả
Nguyễn Hữu Đảng [1] còn liệt kê một loạt bài thuốc có dùng đến nhím gồm:
1. Thuốc chữa đau dạ dày
a, Dạ dày nhím: 1 cái
Dùng than củi sấy khô dạ dày nhím, sau đó rang cùng với cát tới khi từ vàng
chuyển màu đen là được. Đem tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g với nước nghệ
loãng. Sau khi uống hết một đợt thuốc, cần nghỉ 2 - 3 ngày. Sau đó lại uống tiếp.
b, - Dạ dày nhím 12g - Củ mài 30g - Đường trắng 30g
Dạ dày nhím sấy khô vàng, cùng các vị thuốc tán bột mịn, mỗi lần uống 3g
với nước sôi để nguội, ngày 2 lần sáng, tối.
c, - Da nhím 30g - Tổ ong mật 15g
Da nhím và tổ ong mật đều được sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 3g với nước
ấm, ngày uống 3 lần.
2. Thuốc chữa cấm khẩu
- Lông nhím 30g - Quả bồ kết 30g - Giun đất 40g
Cho các vị thuốc vào nồi đất bịt kín và đốt bên ngoài. Khi các vị thuốc cháy
hết thành than, tán bột cho uống, trẻ em mỗi lần dùng 4g, người lớn mỗi lần dùng
8g. Uống với nước nguội, ngày 2 - 3lần.
3. Thuốc chữa liệt dương
a, - Da nhím 80g - Tôm 100g
Cả hai sao vàng tán bột, ngày uống 2 lần mỗi lần 6g với nước sôi có pha
50% rượu.
12
12
13
b, - Da nhím 40g - Hạt hẹ 30g - Múi sầu riêng 100g
Da nhím sao cát cho vàng, các vị thuốc còn lại sấy cho khô, tất cả tan bột,
ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g với nước sôi có pha 50% rượu vang. Cần uống liên tục
1 tháng, trong thời gian uống thuốc không gần phụ nữ.

c, - Da nhím 30g - Nhộng tằm 100g
- Tổ bọ ngựa ở cây dâu (tang phiêu tiêu)
Da nhím sao cát cho vàng, các vị thuốc còn lại sấy cho khô, tất cả tan bột,
ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g với nước sôi có pha 50 % rượu vang. Cần uống liên tục
1 tháng, trong thời gian uống thuốc không gần phụ nữ.
4. Thuốc chữa di tinh
a, - Da nhím 20g - Ngó sen 100g - Lá đậu ván 150g
Da nhím sao cát cho vàng, các vị thuốc khác sấy khô tán bột mịn. Ngày uống
1 lần trước khi đi ngủ, lượng thuốc 10g với 30ml rượu vang hâm nóng.
b, - Da nhím 50g - Hạt sen 100g
- Cam thảo 30g - Hoa mướp 50g
Da nhím sao cát cho vàng, các vị thuốc khác sấy khô tán bột mịn. Ngày uống
1 lần trước khi đi ngủ, lượng thuốc 10g với 30ml rượu vang hâm nóng.
c, - Da nhím 60 g - Dây tơ hồng 60g (có thể dùng hạt)
- Ngũ vị tử 30g - Phá cố chỉ 30g
Da nhím sao cát cho vàng, các vị thuốc khác sấy khô tán bột mịn. Ngày uống
3 lần, mỗi lần 5g thuốc với 30ml rượu vang hâm nóng.
5. Thuốc chữa viêm tuyến tiền liệt
- Da nhím 35g - Bột hoạt thạch 300g
Da nhím tươi làm sạch cắt thành miếng dài 5cm rộng 3 cm, cho vào bột hoạt
thạch sao nhỏ lửa, khi da nhím khô vàng là được. Lấy da nhím tán bột. Ngày uống 2
lần sáng, tối, mỗi lần 6g thuốc với nước cơm.
6. Thuốc thông sữa
a, - Da nhím 25g - Da lợn 50g
Cả hai sao cát cho khô, tán bột uống mỗi lần 10g với 10ml rượu vang hâm
nóng, ngày hai lần.
13
13
14
b, - Thịt nhím 50g - Móng lợn 1 đôi (300g) - Vẩy tê tê 3 cái

Thịt nhím sao cát cho khô vàng, tán bột. Vẩy tê tê nướng trên than củi cho
phồng đều, tán bột. Hai bột thuốc này trộn đều. Móng lợn lấy từ khuỷu đến bàn
chân, làm sạch chặt miếng đem ninh nhừ trước khi ăn cho bột thuốc quấy đều chia 2
lần uống trong ngày.
7. Thuốc chữa chảy máu đường tiêu hoá
a, - Da nhím 30g - Trắc bách diệp 60g - Ngó sen 240g
Da nhím sao cát cho cháy đen, ngó sen trắc bách diệp sao cháy tất cả tán bột
mịn, mỗi lần uống 10g, ngày uống 3 lần với nước sôi để ấm.
b, - Da nhím 60g - Hà thủ ô 120g
Da nhím sao cát cho cháy đen, hà thủ ô chia 2 phần, 1 phần sao cháy, 1 phần
sấy khô. Tất cả tán bột mịn mỗi lần uống 10g, ngày uống 3 lần với nước sôi để ấm.
c, - Da nhím 50g - Dây mướp 120g
Da nhím sao cát cho cháy đen, dây mướp sấy khô, trộn đều cả 2 thứ mỗi lần
uống 10g, ngày uống 3 lần với nước sôi để ấm.
8. Thuốc chữa cam tích
a, - Thịt nhím 100g - Củ mài 25g - Hạt sen 50g
- Phục linh 20g - Củ súng 30g
Thịt nhím sấy khô, cùng các vị thuốc tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10g
thuốc với nước sôi để ấm.
b, - Thịt nhím 150g - Vỏ quả bưởi 100g
Thịt nhím sấy khô, vỏ bưởi phơi khô, nướng đen tất cả tán bột ngày uống 3
lần mỗi lần 6g với nước sôi để ấm.
9. Thuốc chữa bỏng
a, - Lông nhím 50g - Nghệ vàng 50g
Lông nhím đốt thành than, nghệ sấy khô, cả hai tán bột mịn cho vào 50ml
dầu vừng trộn đều bôi chỗ đau.
14
14
15
1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng phát dục

1.3.1. Cơ sở di truyền học của sự sinh trưởng
Một số tính trạng năng suất của nhím đều có chung bản chất di truyền như
với các giống gia súc khác, nhưng những biểu hiện cụ thể về giá trị kiểu hình của
các tính trạng ấy lại mang các đặc thù riêng do các gen quy định về di truyền của
từng loài. Theo Nguyễn Ân và cs (1983) [1], Trần Đình Miên và cs (1995) [16],
Nguyễn Văn Thiện (1995) [36], Nguyễn Văn Thiện và cs (1998) [37]: hầu hết các
tính trạng về năng suất hay tính trạng có giá trị kinh tế của gia súc như: khả năng
cho thịt, khả năng sinh sản, sinh trưởng, cho sữa, cho lông, cho da… đều là các tính
trạng số lượng. Ở các tính trạng số lượng, giá trị kiểu hình (Phenotype Value - P)
của tính trạng do giá trị kiểu gen (Genotyp value - G) và sai lệch môi trường
(Environmental deviation - E) quy định. Quan hệ này được biểu thị bằng công thức
P = G + E.
Khác với tính trạng chất lượng, giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do
nhiều gen có hiệu ứng nhỏ (minor gene) cấu tạo thành. Đó là gen mà hiệu ứng riêng
biệt của từng gen thì rất nhỏ, nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ có ảnh hưởng rất rõ
rệt tới tính trạng nghiên cứu. Hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen (Polygene).
Các minor gen này tác động lên tính trạng theo 3 phương thức: cộng gộp, trội và át
gen. Giá trị kiểu gen thể hiện qua công thức: G = A + D + I
Trong đó:
A: là giá trị cộng gộp hay giá trị giống (Additive value or Breeding value)
D: là sai lệch trội (Dominance deviation)
I: là sai lệch tương tác (Interaction deviation)
A là thành phần quan trọng nhất của kiểu gen vì nó ổn định, có thể xác định
được và di truyền cho đời sau. Hai thành phần D và I cũng có vai trò quan trọng vì
đó là giá trị giống đặc biệt và chỉ xác định được thấp nhất con đường thực nghiệm.
1.3.2. Sự sinh trưởng và các chỉ tiêu đánh giá sức sinh trưởng ở nhím
- Khái niệm về sự sinh trưởng
Sinh trưởng là một quá trình tích lũy các chất hữu cơ do đồng hóa và dị hóa,
là sự tăng chiều dài, chiều cao, bề ngang, thể tích, khối lượng các cơ quan bộ phận
15

15
16
và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở các tính chất di truyền từ đời trước truyền lại
theo Trần Đình Miên và cs (1975) [17].
Quá trình phát triển của cơ thể là quá trình đồng hóa các vật chất dinh dưỡng,
các chất dinh dưỡng lấy vào cơ thể vừa là điều kiện để tế bào sinh sôi, nảy nở, vừa
là cơ sở để hình thành chất trong tế bào và giữa các tế bào, đó là protein, lipit, gluxit
và các chất khoáng…Đàm Văn Tiện và cs (1992) [38] quá trình sinh trưởng là sự
tổng hợp sự sinh trưởng của các phần cơ thể như thịt, xương, da, mỡ…
Về mặt sinh học, sinh trưởng ở nhím được xem là sự tăng cường tổng hợp
protein trong các mô bào, vì thế thường lấy việc tăng khối lượng và kích thước các
chiều làm chỉ tiêu đánh giá quá trình sinh trưởng. Quá trình này thể hiện ở ba mặt:
Phân chia tế bào để làm tăng số lượng tế bào.
Tăng thể tích của mỗi tế bào.
Tăng thể tích giữa các tế bào.
Người ta biết rằng sinh trưởng của gia súc là một quá trình mang 3 đặc tính:
tốc độ, thời gian và tính chất diễn biến. Tốc độ sinh trưởng biểu thị sự tăng khối
lượng, thể tích, kích thước các chiều cơ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Thời gian sinh trưởng là khoảng thời gian xác định để cân đo và tính tốc độ sinh
trưởng nói trên, Trần Đình Miên và cs (1975) [17].
* Các chỉ tiêu đánh giá sức sinh trưởng
Trong chăn nuôi nhím và các gia súc, gia cầm người ta thường dùng 3 chỉ
tiêu đánh giá tốc độ sinh trưởng là sinh trưởng tích lũy, sinh trưởng tuyệt đối và sinh
trưởng tương đối.
Sinh trưởng tích lũy: Là sự tăng lên về khối lượng cơ thể, kích thước theo
thời gian khảo sát.
Sinh trưởng tuyệt đối: là sự tăng lên về khối lượng, thể tích và kích thước các
chiều cơ thể trong khoảng thời gian giữa 2 lần khảo sát theo TCVN (1977) [21] .
Tốc độ sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lượng,
thể tích và kích thước các chiều cơ thể lúc kết thúc khảo sát so với lúc đầu khảo

sát theo TCVN (1977) [22].
16
16
17
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
* Yếu tố bên trong (di truyền)
- Ảnh hưởng di truyền của dòng, giống cá thể. Trong chăn nuôi gia súc,
dòng, giống có thể có ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng. Con sinh ra tiếp thu từ
bố mẹ và truyền lại cho đời sau khả năng sinh trưởng mang tính đặc thù của dòng,
giống. Tính di truyền về khả năng sinh trưởng ảnh hưởng tới năng suất vật nuôi.
Ảnh hưởng của dòng, giống đến sự sinh trưởng được nhiều tác giả nghiên cứu và
khẳng định trên các loại gia súc, gia cầm.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [30] cho biết: Yếu tố di truyền là một
trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục
của gia súc. Quá trình sinh trưởng phát dục của nhím tuân theo các quy luật sinh
học, nhưng chịu ảnh hưởng của các giống nhím khác nhau.
Nguyễn Thiện và cs (2005) [36] cho rằng: Giống cũng là một yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục, năng suất và phẩm chất thịt.
- Điều khiển quá trình trao đổi chất của các hormone. Hormone tham gia vào
tất cả các quá trình trao đổi chất của tế bào và giữ cân bằng các chất trong máu.
Trong thời kỳ đầu tiên của quá trình sống, kể cả khi chưa có sự hoạt động của tuyến
giáp đã có sự tham gia của tuyến ức trong điều khiển quá trình sinh trưởng. Về sau
điều khiển quá trình sinh trưởng có sự tham gia của tuyến yên. Hormon của thuỳ
trước tuyến yên STH (somatotropin hormone) là loại hormon rất cần thiết cho sinh
trưởng của cơ thể. Theo tác giả Hoàng Toàn Thắng và cs (2006) [35]: STH có tác
dụng sinh lý chủ yếu kích thích sự sinh trưởng của cơ thể bằng cách làm tăng sự
tổng hợp protein và kích thích sụn liên hợp phát triển, tăng tạo xương (nhất là các
xương dài). Khi thiếu hoặc thừa loại hormon này sẽ dẫn đến cơ thể quá nhỏ bé
(nanismus) hoặc quá to (gigantismus). Vào thời kỳ thành thục về tính, các hormon
sinh dục như hormon của dịch hoàn và buồng trứng (androgen và oestrogen) tham

gia vào quá trình điều khiển hoạt động sinh dục của cơ thể và hình thành nên các đặc
tính sinh dục thứ cấp. Hormon sinh dục của con cái tạo ra từ buồng trứng cũng có tác
động đáng kể đến sinh trưởng. Ngoài ra các loại hormon của các tuyến như tuyến tụy
và tuyến thượng thận cũng tham gia điều tiết sự phát triển của bộ xương và cơ.
17
17
18
* Yếu tố bên ngoài (môi trường)
Trong chăn nuôi nhím ngoài việc cải tiến giống thì thức ăn dinh dưỡng là
một yếu tố quyết định đến khả năng sinh trưởng và phát triển.
- Vai trò và nhu cầu về protein, axit amin.
Theo Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi (1985) [3]: Protein là nhóm chất hữu cơ
có phân tử lượng cao và có chứa nitơ. Protein đảm nhiệm nhiều chức năng quan
trọng và là nguồn nguyên liệu cấu tạo nên tế bào. Quá trình sinh trưởng là quá trình
tăng lên của khối lượng protein, hàm lượng protein trong cơ thể rất cao.
Axit amin là thành phần cấu tạo cơ bản của protein. Theo Từ Quang Hiển và
cs (1995) [9] vai trò của các axit amin trong cơ thể rất đa dạng, nó là thành phần
chủ yếu của protein, nhu cầu protein của cơ thể chính là nhu cầu về axit amin. Cơ
thể con vật chỉ có thể tổng hợp nên protein của nó theo mức cân đối các axit amin
trong thức ăn, những axit amin nào nằm ngoài cân đối sẽ bị oxy hóa cho năng
lượng.
Trong các loại thức ăn hàm lượng các loại protein rất khác nhau. Một số loại
giàu protein động vật như cá, bột cá, bột thịt, bột máu, tôm, cua, trứng, sữa Một số
loại protein thực vật như các loại đậu, đỗ và sản phẩm phụ của nó.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [30] cho biết: Nói chung gia súc con tiêu
hóa protein một cách dễ dàng, nhưng do nguồn gốc của thức ăn (động vật hay thực
vật) và bản chất protein khác nhau nên sự tiêu hóa có những đặc điểm khác nhau .
- Vai trò và nhu cầu về khoáng chất đối với nhím.
Theo Từ Quang Hiển và cs (2003) [8] gia súc non cần được cung cấp đầy đủ
khoáng chất để phát triển bộ xương và đảm bảo cho các quá trình xảy ra trong cơ

thể. Nếu tính theo mức tăng trọng thì khoáng chất chiếm 3 - 4% khối lượng cơ thể
tăng. Khả năng sử dụng khoáng chất trong thức ăn của gia súc non tốt hơn gia súc
trưởng thành. Quá trình trao đổi khoáng mà chủ yếu là trao đổi canxi và phot pho
xảy ra mạnh mẽ ở gia súc non. Khi gia súc còn non khả năng tích luỹ canxi, phot
pho cao. Tuổi càng tăng, khả năng tích luỹ giảm. Nhìn chung, gia súc non yêu cầu
can xi lớn hơn phot pho, càng lớn và trưởng thành nhu cầu can xi giảm, nhu cầu
18
18
19
phot pho tăng lên. Để đảm bảo cho quá trình tiêu hoá hấp thu và sử dụng canxi,
photpho được tốt, tránh được hiện tượng còi xương. Ở gia súc non cần chú ý cung
cấp đầy đủ, cân đối canxi, photpho.
- Vai trò và nhu cầu về vitamin
Vitamin là loại vi chất dinh dưỡng, nó rất cần thiết để xúc tác cho mọi quá
trình trao đổi chất cho sinh trưởng của động vật.
Trong các loại Vitamin thì, Vitamin A và Vitamin D là hai loại Vitamin quan
trọng nhất cho sinh trưởng. Trong đó Vitamin A xúc tiến quá trình sinh trưởng, nếu
thiếu vitamin A có thể dẫn đến mù lòa, tốc độ sinh trưởng giảm, lông xù, gầy còm,
năng suất sinh sản thấp. Vitamin D cần thiết cho sự trao đổi can xi, phốt pho để phát
triển bộ xương.
Nhu cầu Vitamin được thỏa mãn từ nguồn rau xanh, ngũ cốc và Vitamin
được tổng hợp bổ sung vào thức ăn ở dạng Premix.
- Thời tiết và khí hậu cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển
của nhím.
- Nhiệt độ và ẩm độ môi trường.
Nhiệt độ môi trường không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khoẻ mà còn
ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Nếu nhiệt độ môi trường không
thích hợp thì sẽ không thể đảm bảo quá trình trao đổi chất diễn ra bình thường cũng
như cân bằng nhiệt của cơ thể nhím. Việc đảm bảo nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp
cho các loại khác nhau phải căn cứ vào khả năng điều tiết thân nhiệt của chúng và

điều kiện môi trường đảm bảo mùa đông ấm áp mùa hè mát mẻ.
- Ánh sáng: Ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển
- Các yếu tố khác: Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển
nhím đã nêu trên còn có các yếu tố khác như vấn đề chuồng trại, chăm sóc, nuôi
dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi như không khí, tốc độ gió lùa, nồng độ các khí thải
1.4. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu các tính trạng của nhím
Ở động vật nói chung và nhím nói riêng, trong quá trình phát triển của mỗi
cá thể, mỗi tính trạng được hình thành là kết quả của hàng loạt các quá trình sinh
19
19
20
hóa xảy ra dưới ảnh hưởng của các Enzyme có tính chất đặc thù, là kết quả tác động
qua lại của nhiều gen trong kiểu gen cơ thể.
Mặc dù giới hạn phân biệt không rõ rệt song trong di truyền học có thể chia
tính trạng vật nuôi ra thành hai loại: Nhóm tính trạng chất lượng và nhóm tính trạng
số lượng (tính trạng năng suất) theo Trần Đình Miên và cs (1994) [18] .
* Bản chất di truyền của các tính trạng chất lượng
Một số tính trạng chất lượng của động vật (như màu sắc lông, màu mắt ) do
vài cặp gen lớn quyết định. Các tính trạng chất lượng không hoặc ít bị tác động của
môi trường và sự khác nhau trong biểu hiện các tính trạng chất lượng rất rõ rệt,
Nguyễn Văn Thiện (1998) [37] .
Tính trạng chất lượng di truyền theo các quy luật của Men Đen ít chịu ảnh
hưởng của ngoại cảnh hoặc là độc lập với điều kiện môi trường. Vì thế có thể thông
qua kiểu hình mà xác định được kiểu gen của chúng. Những tính trạng này cho
phép phân loại về Phenotyp rõ rệt: Trội (Dominant) hoặc lặn (Recessive) và thường
được quy định bởi một gen, hoặc bởi sự tương tác đơn giản của một số ít gen.
* Bản chất di truyền của các tính trạng số lượng
Các tính trạng số lượng là những tính trạng phần lớn có thể xác định được
bằng cân, đong, đo, đếm như khối lượng cơ thể, sản lượng trứng, độ dài của thân,
lông, số lượng con đẻ ra trong một lứa

Theo tác giả Đặng Hữu Lanh và cs năm (1999) [12] cho biết các tính trạng
số lượng do nhiều gen kiểm soát. Mỗi alen của chúng có một hiệu ứng nhỏ và riêng
biệt. Nhưng hiệu ứng chung của chúng là rất lớn. Như vậy kiểu hình của một cá thể
phụ thuộc vào kiểu gen của nó ở một lô cút tương ứng, mà mỗi alen hoặc thêm vào
hoặc bớt đi một đơn vị hiệu ứng kiểu hình nên các tính trạng số lượng còn gọi là
tính trạng đa gen, các gen này hoạt động theo 3 phương thức.
- Cộng gộp: Hiệu ứng tích lũy của từng gen (A)
- Trội: Hiệu ứng do tương tác giữa các gen cùng một lô cút
Hiệu ứng cộng gộp A tạo nên giá trị giống (Breeding value) thường được tính
toán và có sử dụng trong chọn lọc. Để đo được giá trị truyển đạt từ bố mẹ cho đời sau
20
20
21
phải qua một giá trị có liện hệ với gen gọi là hiệu ứng trung bình (Aditive effect) của
các gen. Hiệu ứng trung bình của mỗi gen là sai lệch trung bình của cá thể so với
trung bình của quần thể mà nó đã nhận được gen của cha mẹ trong quần thể đó.
Tổng các hiệu ứng trung bình của các gen mà cá thể đó được gọi là giá trị cộng gộp
hay giá trị giống của cá thể.
Hiệu ứng D (Dominante) và át chế I (Epitasis Interaction) là giá trị giống
thường đặc biệt khó có thể xác định trước được, mà chỉ xác định được qua thực
nghiệm và có ý nghĩa trong lai giống.
Do đó kiểu di truyền được xác định: G = A + D + I
Các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường E
(Environment).
Bộ phận di truyền có liên quan đến tính trạng số lượng được gọi là di truyền
học số lượng (Quanttative characte) hoặc di truyền học sinh trắc (Biomen Trical
gentics). Di truyền học số lượng vẫn lấy các quy luật của di truyền học Men Đen
làm cơ sở, nhưng do đặc điểm riêng của tính trạng số lượng so với tính trạng chất
lượng nên đối tượng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở mức độ cá thể mà phải mở
rộng đến mức độ quần thể bao gồm các nhóm cá thể khác nhau và sự sai khác nhau

giữa các cá thể không chỉ là sự phân loại mà nó đòi hỏi phải có sự đo lường các cá
thể. Biểu hiện bên ngoài hoặc các đặc tính bên ngoài của một cá thể được gọi là
kiểu hình, kiểu hình này do kiểu gen và môi trường gây ra.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng số lượng.
- Giá trị cộng gộp (Additive value) hoặc giá trị giống.
Trong di truyền bố mẹ chỉ truyền đạt cho con cái các gen của chúng chứ
không phải truyền đạt kiểu gen do vậy kiểu gen phải được sáng tạo lại ở mỗi thế hệ.
Giá trị kiểu gen truyền đạt từ bố mẹ cho đời con gọi là ”hiệu ứng trung bình” của
các gen.
Các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng của sai lệch môi trường (E) gồm
có 2 loại:
21
21
22
- Sai lệch môi trường chung (Eg): (General Environmental deviation) là sai
lệch do các nhân tố môi trường tác động thường xuyên lên tính trạng một cách lâu
dài. Các yếu tố đó là: Thức ăn, khí hậu, chế độ chăm sóc… tác động lên một nhóm
cá thể hay một quần thể gia súc Nguyễn Văn Thiện và cs (1995) [36].
- Sai lệch môi trường riêng (Es): (Special Environmental deviation) là sai
lệch do các nhân tố môi trường tác động riêng rẽ lên từng cá thể riêng biệt trong
nhóm vật nuôi, hoặc một vài bộ phận riêng biệt của một cá thể nào đó trong quần
thể trong một thời gian ngắn và không thường xuyên.
Như vậy khi giá trị kiểu hình của một tính trạng nào đó chi phối bởi từ 2
locus trở lên thì giá trị ấy được biểu thị như sau: P = G + E = A + D + I + Eg + Es.
Các tính trạng năng suất ở nhím cũng như ở các vật nuôi khác là kết quả tác
động giữa các yếu tố di truyền và các yếu tố môi trường. Các vật nuôi khác nhau
đều nhận được từ bố mẹ chúng một vốn di truyền nhất định.
* Bản chất di truyền của sự sinh sản.
Sinh sản là một quá trình để tái tạo ra thế hệ sau, là một chỉ tiêu được quan
tâm hàng đầu và lâu dài trong công tác giống. Sự phát triển hay hủy diệt của một

loài trước tiên phụ thuộc vào khả năng sinh sản của loài đó.
Quá trình hoạt động sinh sản của vật nuôi là do hệ thống thần kinh thể dịch
của cơ thể điều khiển và chịu ảnh hưởng của các yếu tố di truyền và các yếu tố
ngoại cảnh (thời tiết, khí hậu, thức ăn, chăm sóc, nuôi dưỡng ). Khả năng sinh sản
của vật nuôi được thể hiện qua các mặt: Chu kỳ động dục, tuổi và khối lượng phối
giống lần đầu, thời gian mang thai, số con đẻ trên lứa
Đặc tính sinh sản của nhím còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, tuổi,
ánh sáng, nhiệt độ, chăm sóc nuôi dưỡng
Theo Lê Hiền Hào (1973) [ 7 ] đối với các động vật hoang dã được nuôi nhốt
trong môi trường bán hoang dã thì các tính trạng như khả năng đẻ con, sức sống của
thú con, khả năng cho sữa, tốc độ lớn thì phần biến dị cho sự đổi vật chất di truyền
thường là thấp. Các tính trạng về sức sản xuất của thú được nuôi trong điều kiện
bán hoang dã do nhiều gen chi phối. Hơn nữa các tính trạng này còn phụ thuộc vào
22
22
23
môi trường trong, môi trường ngoài. Điều này giải thích vì sao các tính trạng số
lượng lại biến dị trong phạm vi rộng, liên tục và không ngừng.
Cơ sở di truyền các tính trạng số lượng cũng là các gen nằm trên nhiễm sắc
thể do vậy cũng tuân theo các quy luật di truyền cơ bản như phân li, tổ hợp, liên kết,
hoán vị, trao đổi chéo
1.5. Đặc điểm sinh sản của nhím
Sinh sản là quá trình sinh lý quan trọng và cơ bản nhất của gia súc trong việc
duy trì nòi giống, là một quá trình mà ở đó có con đực và con cái đã thành thục về
tính dục, con đực sản sinh ra tinh trùng và con cái sản sinh ra trứng.
Theo [51] sinh sản của nhím vào tháng 8 - 9
và tháng 3 - 4 hàng năm, mỗi lứa đẻ từ 2 - 4 con, nhím đẻ một năm 2 lứa, con cái có
thời gian mang thai là 90 - 95 ngày, con mới nở ra còn mọng nước vài giờ sau nước
mất dần lông nhỏ bám kín trên mình, sau đó các sợi lông cứng dần lên biến thành
gai dài 20 - 25 cm để thành bộ giáp. Nhím mẹ cho con bú khoảng 3 tuần tới tuần thứ tư

thì nhím con đã tự kiếm ăn. Trong tự nhiên 2 tháng tuổi nhím đã tách đàn và đi kiếm ăn
một mình. Nhím có thể sống được 15 - 20 năm theo Lê Thị Biên và cs (2001) [2].
1.6. Cơ sở nghiên cứu các tính trạng ngoại hình ở động vật
1.6.1. Mầu sắc da, lông
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt như giống, dòng.
Màu lông liên quan đến một số chỉ tiêu chất lượng của giống như giới tính, khả
năng sản xuất và khả năng sinh sản. Màu sắc da lông cũng là một chỉ tiêu chọn lọc.
Tính trạng màu sắc da lông do một số ít gen kiểm soát và ít chịu ảnh hưởng của điều
kiện ngoại cảnh. Tính trạng ở thú như một số loài gặm nhấm còn có gen liên kết với
giới tính về màu sắc lông.
- Theo F.B.Hutt (1978) [41] thì sự thay đổi màu sắc lông là do màu sắc, hình
thức và sự phân bố các hạt màu trong tế bào, do số lượng các lớp tế bào cấu trúc và
khả năng nhận ánh sáng của các tế bào ấy.
1.6.2. Ngoại hình
Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt dòng, giống của nhím. Kích thước
23
23
24
của đầu, mình và các chi thay đổi theo từng giai đoạn phát triển. Chi sau của nhím
ngắn hơn chi trước. Kích thước của nhím liên quan đến khối lượng cơ thể.
1.7. Cơ sở nghiên cứu tập tính của động vật
1.7.1. Tập tính của động vật
Tập tính là sự vận động trả lời của động vật trước những biến đổi của môi
trường mà động vật của nó đang sống, nhờ sự tham gia của hệ thống thụ quan, hệ
thống giác quan và hệ thần kinh - thể dịch. Tất cả các biểu hiện của tập tính đều có
thể quan sát trực tiếp trong đời sống hàng ngày của con vật như sự vận động (chạy
nhảy, bay, bơi ) các cử động (xù lông, tư thế, vẫy cánh, rung lông tạo tiếng kêu )
và các hoạt động sống khác như kiếm ăn, tự vệ, giao phối, cạnh tranh theo Phan
Cự Nhân (1999) [26]
Tập tính của động vật phản ánh toàn bộ hoạt động sống của chúng, biểu hiện

các mối quan hệ rất đa dạng giữa động vật với môi trường, giữa các cá thể cùng loài
hay khác loại, gắn bó hữu cơ với quá trình tiến hóa và sự biến đổi của ngoại cảnh.
Tác giả Phan Cự Nhân (1999) [26] tập tính được chia thành ba dạng chính là:
1.7.1.1. Tập tính bẩm sinh
Đây là các hoạt động bản năng, chúng không thay đổi, có lợi và đặc trưng
cho từng loài.
Tập tính bẩm sinh là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên lâu dài, được
khởi động từ những kích thích đơn giản. Dạng này ứng với các phản xạ không
điều kiện.
1.7.1.2. Tập tính tiếp thu
Đây là những tập tính được hình thành do "bắt trước, học tập" hoặc qua huấn
luyện hình thành qua một thời gian nhất định. Dạng tập tính này không có khả năng
di truyền, vì vậy dễ dàng thay đổi theo điều kiện ngoại cảnh.
1.7.1.3 Tập tính hỗn hợp
Đa số các tập tính ở động vật bậc cao đều được coi là tập tính hỗn hợp, vì
trên đối tượng này phần tiếp thu tăng lên rõ rệt nên khó phân biệt giữa phần bẩm
sinh và phần tiếp thu.
Tập tính chịu ảnh hưởng của tính di truyền, các kiểu hoạt động thần kinh cấp
24
24
25
cao và các yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm và nước, strees, sự cách
ly và sự học tập.
1.7.2. Cơ sở di truyền tập tính ở động vật
Gần đây, nhờ các nghiên cứu thực nghiệm, các nhà khoa học đã chứng minh
được tính chất di truyền, cơ sở di truyền phân tử của tập tính. Nhưng việc xác định
vai trò cụ thể của các gen trong sự hình thành tập tính sinh học của động vật, nhưng
vai trò của môi trường cũng không nhỏ. Tác động thường xuyên và có tác động gián
tiếp tới sự hình thành tập tính của động vật.
- Cơ chế tập tính được ”chương trình hóa” trong bộ máy di truyền của loài,

có sự kết hợp, tương tác giữa nhân tố bên trong (như các hoocmon, yếu tố thần
kinh, yếu tố thể dịch ), nhân tố di truyền và môi trường.
1.8. Cơ sở nghiên cứu đề kháng của động vật
Sức đề kháng (theo nghĩa rộng) là tính không thụ cảm và khả năng chống lại
bệnh tật của cơ thể. Những cá thể có sức đề kháng cao thường do sức chống đỡ của
thể trạng theo bẩm sinh, được củng cố trong kiểu gen hoặc do tập nhiễm dưới tác
động của môi trường.
Sức kháng bệnh là tính trạng do nhiều gen kiểm soát và chịu ảnh hưởng của
điều kiện môi trường. Tuy nhiên vẫn có trường hợp là đơn gen. Các vật nuôi vùng
nhiệt đới có khả năng chống bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng tốt hơn
những vật nuôi sứ lạnh F.B Hutt (1699)[41] cho rằng nhiễm sắc thể giới tính có vai
trò đối với sức đề kháng nhiễm sắc thể giới tính Z ở con đực mang gen đề kháng,
nhiễm sắc thể giới tính W ở con cái mang gen cảm nhiễm
Sức sống của một số loài động vật là tính trạng số lượng đặc trưng cho từng
cá thể, từng giống, dòng, loài. Trong điều kiện chăm sóc bình thường, tỷ lệ nuôi
sống của một số loài động vật con thường đạt tỷ lệ 90%. Trong số các yếu tố ngoại
cảnh thì nhiệt độ và ánh sáng có ảnh hướng lớn đến sức sống. Nhiệt độ cao hay thấp
đều gây sốc nhiệt cho một số loài động vật.
25
25

×