Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của một số dòng, giống khoai lang chất lượng cao ở một số vùng sinh thái khác nhau tại tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 80 trang )

1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
Đ/C: Đối chứng
NST: Ngày sau trồng
TB: Trung bnh
P: Khối lượng
CGIAR: Cơ quan tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp của Liên hiệp quốc
IPGRI: Viện Tài nguyên di truyền thực vật Quốc tế
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
FAO: Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc
1
1
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
2
2
3
BIỂU ĐỒ
3
3
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch, tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa, bộ mặt đất nước có nhiều thay đổi, GDP bnh quân đầu người đạt trên
1.000 USD/năm, nước ta đã thoát khỏi nhóm các nước nghèo trên thế giới. Nền
kinh tế đã và đang hội nhập sâu vào kinh tế toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp đã thu được những thành tựu đáng kể, nhiều sản phẩm nông
nghiệp xuất khẩu với khối lượng lớn mang lại nguồn lợi cho đất nước và cho


người sản xuất. Từ một nước thiếu lương thực, hàng năm phải nhập khẩu hàng
nghn tấn lương thực, nay đã trở thành nước đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu
gạo. Do đó chúng ta có điều kiện để chú ý hơn vào phát triển các cây trồng khác,
trong đó cây có củ ngày một phát triển, đặc biệt là khoai lang, đáp ứng nhu cầu
ăn tươi, phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Cây khoai lang (Ipomoea batatas. (L) Lam) là một loài cây có củ, chứa
nhiều tinh bột, có vị ngọt và nó là một nguồn cung cấp rau quan trọng, các sản
phẩm khoai lang được sử dụng theo phương pháp truyền thống ngày càng gia
tăng, công nghệ chế biến (Chips, sấy khô, bánh kẹo, tinh bột và rượu ) ngày
càng phát triển. Hiện nay, xu hướng sử dụng khoai lang chất lượng cao trong ăn
tươi và sau chế biến đang ngày càng tăng cao, đặc biệt tại các thành phố, thị xã.
Những năm qua, ở Miền nam và Tây nguyên đã có các mô hnh sản xuất khoai
lang để xuất khẩu sang Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, thu 60 - 70 triệu đ/ha/vụ.
Khoai lang là một cây trồng truyền thống của tỉnh Bắc Giang với diện tích
được trồng hàng năm trong khoảng 10.000 - 12.000 ha. Do là một cây trồng đa
dụng, có thể sử dụng củ để ăn tươi, chế biến và sử dụng cả thân lá làm thức ăn
gia súc, nên cây khoai lang vẫn có vị trí quan trọng nhất định trong cơ cấu cây
4
4
5
trồng của tỉnh Bắc Giang. Đây là cây trồng phù hợp với nông dân nghèo có điều
kiện đầu tư thấp, nhưng cho thu nhập khá. Tuy nhiên, những năm gần đây diện
tích trồng khoai lang của Tỉnh đã giảm dần, do mở rộng diện tích các cây trồng
khác có hiệu quả kinh tế hơn như lúa, lạc Trong khi năng suất, phẩm chất khoai
lang thấp, không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Từ thực tế đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Đnh gi kh năng sinh
trưng và pht triển của một số dòng, giống khoai lang chất lượng cao 
một số vùng sinh thi khc nhau tại tỉnh Bắc Giang”.
2. Mục tiêu của đề tài
Nhằm chọn ra những dòng khoai lang có chất lượng tốt, năng suất cao, phù

hợp với điều kiện thực tế sản xuất và thị hiếu người tiêu dùng, góp phần phát
triển sản xuất khoai lang ở Bắc Giang.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài sẽ góp phần bổ xung cơ sở lý luận cho việc phát triển các giống
khoai lang chất lượng vụ đông ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu về khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của
một số dòng khoai lang chất lượng vụ đông sẽ là tài liệu cho các sinh viên, nhà
nghiên cứu tham khảo.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá, lựa chọn được các dòng khoai lang chất lượng có khả năng sinh
trưởng, phát triển tốt, cho năng suất phù hợp với điều kiện sản xuất khoai lang ở
Bắc Giang.
Mở rộng diện tích khoai lang góp phần tăng thu nhập trên đơn vị diện tích.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cây khoai lang (Ipomoea batatas. L).
5
5
6
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của
một số dòng khoai lang chất lượng cao vụ đông và trong điều kiện sinh thái tỉnh
Bắc Giang.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Đối với khoa học: Cung cấp số liệu nghiên cứu về một số dòng, giống
khoai lang vụ đông trên địa bàn Bắc Giang.
Đối với sản xuất:
- Xác định khả năng sinh trưởng phát triển, chất lượng của một số giống
khoai lang trong điều kiện sinh thái ở Bắc Giang.
- Lựa chọn dòng khoai lang chất lượng cao bổ xung vào bộ giống khoai
lang cho địa phương.

Đối với xã hội và đời sống: Góp phần tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng thu
nhập cho nông dân.
6
6
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Phân loại, nguồn gốc và phân bố cây khoai lang
Khoai lang (Ipomoea batatas L.) là cây hai lá mầm thuộc chi Ipomoea, họ
bm bm (Convolvulaceae) (Purseglove, 1974 [43]); Võ Văn Chi và CS, 1969
[1]. Trong tổng số 50 chi và hơn 1000 loài thuộc họ này th Ipomoea batatas là
loài có ý nghĩa kinh tế quan trọng và được sử dụng làm lương thực. Số loài
Ipomoea dại đã được xác định là hơn 400 loài nhưng loài Ipomoea batatas là
loài cây trồng duy nhất có củ ăn được. Cây khoai lang với thân phát triển lan
dài, các lá có nhiều hnh dạng khác nhau từ dạng lá đơn đến chia thùy sâu
(Mai Thạch Hoành, 1998) [12]. Mặt khác, cây khoai lang còn có khả năng thích
ứng rộng hơn các cây trồng khác như cây sắn, củ từ, củ mỡ, Cây khoai lang
khác với các loài khác về màu sắc vỏ củ (trắng, đỏ, kem, nâu, vàng, hoặc hồng )
hay màu ruột củ (trắng, kem, vàng, nghệ, đốm tím ) và khác nhau về khả năng
đề kháng với sâu bệnh (Woolfe, 1992) [54].
Khoai lang có nguồn gốc nguyên thuỷ từ vùng nhiệt đới Châu Mỹ lan dần
đến vùng nam Thái Bnh Dương. Tuy nhiên, những nước mà cây khoai lang
đóng vai trò quan trọng nhất lại là những nước mà cây khoai lang mới thu
nhập gần đây. Các thương gia và các nhà thống trị Châu Âu đã mang đến
Châu Phi, Châu á và đông Thái Bnh Dương. Cây khoai lang được đưa vào
Trung Quốc năm 1594 và Papua Niu Ghinê (PNG) khoảng 300 đến 400 năm
trước (Yen, 1974) [59].
Hầu hết các bằng chứng về khảo cổ học, ngôn ngữ học và sử học đều cho
thấy châu Mỹ là khởi nguyên của cây khoai lang (Trung hoặc Nam Mỹ). Bằng
chứng lâu đời nhất là những mẫu khoai lang khô thu được tại hang động Chilca

Canyon (Peru) sau khi phân tích phóng xạ cho thấy có độ tuổi từ 8.000 đến
7
7
8
10.000 năm (Engel, 1970) [33]. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học về cây khoai lang
còn được tm thấy tại thung lũng Casma của Peru có độ tuổi xấp xỉ 2.000 năm
trước công nguyên (Ugent, Poroski và Poroski, 1983) [52], Austin (1977) [23],
OBrien (1972) [41] và Yen (1982) [59] và cây khoai lang thực sự lan rộng ở
Châu Mỹ khi người Châu Âu đầu tiên đặt chân tới.
V vậy, khoai lang được coi là nguồn lương thực quan trọng của người
Mayan ở Trung Mỹ và người Peruvian ở vùng núi Andet (Nam Mỹ).
Vào năm 1492 trong chuyến vượt biển đầu tiên của Christopher
Columbus đã tm ra Tân thế giới (Châu Mỹ) và phát hiện ra khoai lang được
trồng ở Hispaniola và Cuba. Từ đó, khoai lang mới thực sự lan rộng ở châu Mỹ
và sau đó được di thực đi khắp thế giới.
Đầu tiên khoai lang được đưa về Tây Ban Nha, tiếp đó lan tới một số
nước châu Âu và được gọi là Batatas (hoặc Padada), sau đó là Spanish Potato
(hoặc sweet potato).
Các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đã thu nhập cây khoai lang vào châu Phi
(có thể bắt đầu từ Môdămbic hoặc Ănggôla) theo hai con đường từ châu Âu và
trực tiếp từ vùng bờ biển Trung Mỹ, sau lan sang Ấn Độ.
Các thương gia Tây Ban Nha đã du nhập cây khoai lang vào Philippin
(Yên, 1982) [59] và từ Philippin vào Phúc Kiến (Trung quốc) năm 1594. Tuy
nhiên, cũng có ý kiến cho rằng khoai lang vào Trung Quốc có thể sớm hơn từ
Ấn Độ hoặc Myanma.
Người Anh đã đưa khoai lang vào Nhật Bản năm 1615 nhưng đã không
phát triển được. Đến năm 1674 cây khoai lang đã được tái nhập vào Nhật Bản từ
Trung Quốc.
Cây khoai lang được trồng trong phạm vi rộng lớn giữa vĩ tuyến 40
0

Bắc
đến 32
0
Nam và lan đến độ cao 3.000m so với mặt nước biển (Woolfe J.A, 1992)
[54]. Tuy nhiên, cây khoai lang vẫn được trồng nhiều ở các nước nhiệt đới, á
8
8
9
nhiệt đới Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh.
Ở Việt Nam, theo các tài liệu cổ như sách “Thực vật bản thảo”, “Lĩnh
nam tạp kỷ” và “Quảng Đông tân ngữ” của Lê Quý Đôn (Viện Hán nôm, 1995)
[19], (Bùi Huy Đáp, 1984) [5], cây khoai lang có nhiều khả năng là cây trồng
nhập nội và có thể được đưa vào nước ta từ nước Lã Tông (đảo Luzon ngày nay)
vào cuối đời Minh cai trị nước ta.
Trong “Thảo mộc trang” có đoạn viết: Cam thự (Khoai lang) là loài củ
thuộc loài thử dự, rễ và lá như rễ khoai, củ to bằng nắm tay, to nữa bằng cái
bnh, da tía, thịt trắng, người ta luộc ăn (Bùi Huy Đáp, 1984) [5], (Viện Hán
nôm, 1995) [19].
Sách “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam” (Nhà xuất bản khoa học
xã Hội 1987 đã có ghi: “Năm 1558 (năm Mậu ngọ), khoai lang từ Philippin được
đưa vào Việt Nam, trồng đầu tiên ở An Trường - Thủ đô tạm thời của đời nhà Lê
Trung Hưng (Hậu Lê), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá”. Như vậy,
khoai lang đã có mặt ở Việt Nam cách đây khoảng gần 450 năm. Cây khoai lang
được giới thiệu vào Việt Nam có thể từ tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc hoặc đảo
Luzon - Philippin vào cuối thế kỷ 16 (Vũ Đnh Hòa, 1996) [11].
1.2. Những yêu cầu điều kiện ngoại cảnh và đất trồng đối với khoai lang
Khoai lang là cây trồng nhiệt đới và á nhiệt đới nên khí hậu nóng thích
hợp cho cây sinh trưởng và phát triển. Ở những nơi thời tiết ấm khoai lang có thể
được trồng quanh năm. Ảnh hưởng của nhiệt độ đối với cây khoai lang còn tùy
thuộc vào điều kiện, từng thời kỳ sinh trưởng phát triển khác nhau của cây và có

liên quan chặt chẽ đối với thời vụ trồng.
Nhiệt độ thích hợp cho thời kỳ mọc mầm ra rễ của khoai lang từ 20 -
25
0
C. Nếu điều kiện nhiệt độ dưới 10
0
C khoai lang có thể bị chết, dây mới
trồng không bén rễ được, điều này đã giới hạn đến việc trồng khoai lang từ
vùng ôn đới đến những vùng có ít nhất 4-6 tháng không có sương muối cùng
9
9
10
với nhiệt độ cao trong cả thời kỳ (Onwueme, 1978) [42]. Nhiệt độ càng cao
đặc biệt trong điều kiện đủ nước và chất dinh dưỡng thân lá phát triển càng
tốt, sự hnh thành củ thuận lợi do đó số củ/cây càng nhiều. Tuy nhiên, tốc độ
lớn của củ khoai lang còn phụ thuộc vào biên độ chênh lệch nhiệt độ ngày
đêm, chênh lệch này càng lớn th càng có lợi cho sự lớn lên của củ khoai lang
(Trịnh Xuân Ngọ và Đinh Thế Lộc, 2004) [16].
Nhiệt độ thấp làm tăng khả năng hóa gỗ và làm giảm khả năng hóa bần
ở những tế bào trung trụ ở các mô bên trong của ruột củ. Đất khô và có kết
cấu chắc làm tăng khả năng hóa gỗ nhưng lại làm giảm khả năng hóa bần.
Ban đêm nhiệt độ thấp (20
0
C) cùng với điều kiện ánh sáng ngày dài là một
trong những nhân tố quyết định tới sự hnh thành và phát triển của củ ở khoai
lang (Kim, 1961) [35].
Trong điều kiện nhiệt độ từ 10
0
C đến 15
0

C hoặc thấp hơn nữa th khả
năng phân hóa và hnh thành củ hầu như không diễn ra (Spence và Humphris,
1972) [49].
Khoai lang có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, nên cây khoai lang có phản
ứng ánh sáng ngày ngắn (dưới 13 giờ ánh sáng/ngày) thời gian chiếu sáng thích
hợp trong một ngày từ 8 - 10giờ ánh sáng.
Cường độ ánh sáng mạnh thuận lợi cho sự phát triển của khoai lang,
nhưng cường độ ánh sáng yếu lại có tác dụng xúc tiến quá trnh ra hoa của khoai
lang (26,4% cường độ ánh sáng trung bnh). Cường độ ánh sáng thấp làm giảm
cả quá trnh hóa gỗ và hóa bần, đồng thời tr hoãn quá trnh phnh củ. Hàm
lượng N trong đất thấp làm giảm mức độ hóa gỗ và tăng mức độ hóa bần, làm bộ
rễ phát triển nghiêng về phía có nhiều rễ đực (Togari, 1950) [51].
Kotama và CS, (1965) [36] cho rằng đất có độ ẩm cao thường tăng quá
trnh phát triển thân lá hơn quá trnh phát triển củ. Do đó, độ ẩm thích hợp cho
khoai lang là khoảng 70 - 80% độ ẩm tối đa đồng ruộng. Tuy nhiên, nhu cầu về
10
10
11
nước đối với khoai lang qua từng thời kỳ sinh trưởng phát triển cũng khác nhau.
Giai đoạn đầu (từ trồng đến kết thúc thời kỳ phân cành kết củ) th độ ẩm
đất: 65 - 75%.
Giai đoạn thứ 2 (giai đoạn phát triển thân lá) cần khoảng 50 - 60%.
Giai đoạn thứ 3: Quá trnh phát triển tập trung chủ yếu vào sự vận chuyển
tích luỹ vật chất hữu cơ từ thân lá vào củ, và để củ phát triển thuận lợi cũng cần
đảm bảo độ ẩm đất 70 - 80% độ ẩm tối đa đồng ruộng (Trịnh Xuân Ngọ và
Đinh Thế Lộc, 2004) [16].
Khoai lang là cây dễ tính không kén đất, tuy nhiên thích hợp nhất cho
khoai lang phát triển tốt là đất thịt nhẹ, tơi xốp, lớp đất mặt sâu. Theo Bourke
(1985) [27] ở Papua Niu Ghine, khoai lang trồng trên đất thịt nặng, đất than bùn
cũng như đất pha cát, nền đất bằng phẳng cũng như đất sườn dốc nghiêng tới

40
0
. Đất có kết cấu chặt và nghèo dinh dưỡng sẽ hạn chế quá trnh hnh thành củ
khoai lang, dẫn đến năng suất thấp.
Bourke (1985) [26] cho rằng độ pH tối thích cho khoai lang sinh trưởng
phát triển tốt 5,6 - 6,6. Tuy nhiên cây khoai lang có thể sinh trưởng phát triển tốt
ở loại đất có pH = 4,5 - 7,5 trừ đất sét nặng có hàm lượng nhôm trong đất cao.
Cây khoai lang có thể bị chết trong vòng 6 tuần nếu trồng trên đất có độ
nhôm cao và không được bón vôi (Baufort - Murphy, 1889) [27].
Khoai lang được xem là có khả năng chịu được đất nghèo dinh dưỡng.
Trên nền đất được coi là nghèo với một số cây trồng khác th khoai lang vẫn cho
năng suất. Tuy nhiên, năng suất đạt được trên loại đất này chỉ khai thác được
một phần khả năng sản xuất của cây. Muốn khoai lang đạt năng suất cao cần
tăng dinh dưỡng cho cây.
Khoai lang là cây trồng cạn, được trồng chủ yếu trên đất cát ven biển, cát
pha, đất thịt nhẹ, đất một lúa một màu và đất hai vụ lúa một vụ màu. Đối với
11
11
12
chân đất hai vụ lúa và một vụ màu với điều kiện thành phần cơ giới tương đối
nhẹ, chủ động trong việc tưới tiêu, rất thích hợp đối với cây khoai lang.
Đối với điều kiện đất đai của Việt Nam, nhất là khi cây vụ Đông trở
thành vụ sản xuất chính trong sản xuất, tiềm năng đất đai có thể trồng được
khoai lang là rất lớn. V vậy, việc phát triển sản xuất cây khoai lang vụ Đông
trên chân đất hai vụ lúa đã đem lại những giá trị không nhỏ.
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu về phân bón cho khoai lang của
nhiều tác giả cho thấy:
Trong ba nguyên tố dinh dưỡng chính (đạm, lân, ka li) th kali là yếu tố
quan trọng nhất đối với khoai lang. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy khoai lang có
nhu cầu dinh dưỡng về lân không nhiều (J.G De Geus, 1967) [60]. Nhiều nghiên

cứu cũng thu được kết quả là nếu bón nhiều đạm có thể tăng trưởng lá, hạn chế
phát triển củ nên năng suất củ thấp.
- Đạm có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng, phát triển thân lá, đặc biệt ở
thời kỳ đầu khoai lang cần tương đối nhiều đạm. Đạm tác động đến quá trnh
phân hoá và quá trnh hnh thành củ, thiếu đạm khoai lang chậm lớn, ít củ,
năng suất giảm. Theo Đinh Thế Lộc, 1979 [15]: Bón thúc đạm sớm (20-45
ngày sau trồng) năng suất củ tăng 10 -20%, bón thúc đạm muộn (80 - 90 ngày
sau trồng) làm giảm năng suất 10%. Theo Vũ Tuyên Hoàng, Nguyễn Thế Yên
và Mai Thạnh Hoành, 1996; 1999 đều cho rằng: Bón từ 60 - 120 kg N/ha năng
suất thân lá tăng từ 50 -100%, năng suất củ đạt cao nhất khi bón 80kg N/ha.
- Lân ảnh hưởng đến khả năng quang hợp và vận chuyển chất dinh dưỡng.
Thiếu lân năng suất củ giảm nhiều. Đủ lân th hiệu quả của đạm và kali rõ hơn.
- Kali có tác dụng thúc đẩy mạnh quá trnh hoạt động của bộ rễ, đẩy mạnh
khả năng quang hợp hnh thành và vận chuyển Gluxit về củ, thiếu kali khoai
lang chậm lớn, ít củ , tỷ lệ tinh bột giảm, tỷ lệ xơ tăng và thời gian bảo quản
không được lâu. Theo Đinh Thế Lộc, 1979 [15] cho rằng: Năng suất củ khoai
lang đạt cao nhất khi bón 100 - 120 kg K
2
O/ha. Bón thúc kali sớm (45 - 60 ngày
12
12
13
sau trồng) làm tăng năng suất 18 - 55%, bón thúc quá sớm (20 ngày sau trồng)
hoặc quá muộn (90 ngày sau trồng) tác dụng của kali không rõ.
Theo J.N. O’Sulivan và cs, 1997 [61] củ khoai lang có nhu cầu kali cao
hơn so với các cây ngũ cốc. Với năng suất khoảng 20 tấn/ha lấy đi khoảng
100kg K/ha trong củ và sự mang đi sẽ lớn hơn nếu tính cả dây, thậm chí đất mà
có hàm lượng kali cao nhưng cũng trở nên suy kiệt sau một vài vụ liên tiếp.
Bng 1.1: Lượng dinh dưỡng khi lấy đi khỏi đất theo sản phẩm của khoai
lang lúc thu hoạch

Nguyên tố
Lượng lấy đi khỏi đất (kg/ha)
Năng suất 12tấn/ha Năng suất 50 tấn/ha
Củ Thân lá Tổng Củ Thân lá Tổng
Đạm 26 52 78 110 215 325
Lân 6 9 15 25 38 63
Kali 60 90 150 250 376 626
Can xi 3,6 16 19,6 15 65 80
Magiê 3 6,5 9,5 12,5 27 39,5
Lưu huỳnh 1,8 4,3 6,1 7,5 18 22,5
(J.N. Ó Sullivan, C.J. Asher và F.P.C. Blamey, 1997)[61]
Sau một vụ khoai lang, hàm lượng dinh dưỡng bị lấy đi khỏi đất khá lớn
với lượng 78-325 kgN/ha, 15-63kgP/ha, 150-626 kgK/ha và nhiều nguyên tố
khác. Trong đó nguyên tố kali bị mang đi nhiều nhất, gấp đôi đạm và gấp 10
lần lân.
Phân hữu cơ cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất củ của khoai lang, theo
Phùng Huy, 1980 [7]; nghiên cứu ảnh hưởng của bón lót phân chuồng đến năng
suất củ khoai lang (trên nền phân bón: 5 N + 45 P
2
O
5
+ 60 K
2
O) cho thấy: Khi
bón lót phân chuồng (phân hữu cơ) từ 5 tấn/ha đến 20 tấn/ha đã làm tăng năng
suất củ khoai lang từ 151 tạ/ha lên 246,7 tạ/ha.
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang trên thế giới
13
13
14

1.3.1. Tình hình sn xuất
Trên thế giới, cây khoai lang được trồng ở 111 nước khác nhau, trong đó
101 nước là các nước đang phát triển sản xuất và tiêu thụ hầu hết sản lượng
khoai lang của toàn thế giới.
Khoai lang là 1 trong 5 cây có củ quan trọng trên thế giới: sắn, khoai
lang, khoai mỡ, khoai sọ, khoai tây. Nếu không tính đến cây khoai tây (cây có
củ vùng ôn đới) th khoai lang là cây có củ đứng sau sắn ở các vùng Nhiệt đới
và á nhiệt đới. Tnh hnh sản xuất khoai lang trên thế giới trong những năm
gần đây được thể hiện ở bảng 1.2.
Bng 1.2: Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới giai đoạn 2005 - 2009
TT
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2005 9.013.869 14,16 127,607
2006 8.126.828 13,12 106,664
2007 8.282.334 12,19 100,928
2008 8.359.185 12,74 106,501
2009 8.510.621 12,65 107,642
(Nguồn: Faostat 2/2011)[20]
Trong những năm gần đây diện tích trồng khoai lang trên thế giới có xu
hướng giảm xuống một cách rõ rệt từ 9.013.869 ha (năm 2005) xuống chỉ còn
8.510.621 ha (năm 2009). Trong đó, nguyên nhân chính là do năng suất, chất
lượng khoai lang chưa được cải thiện, bên cạnh đó với việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, người nông dân đã lựa chọn những cây trồng có hiệu quả kinh tế cao
để đầu tư thâm canh, nên việc phát triển mở rộng diện tích trồng khoai lang chưa
được quan tâm.

Năng suất khoai lang trên thế giới giảm liên tục qua các năm, từ 14,16
tấn/ha (năm 2005) xuống 12,65 tấn/ha (năm 2009), do đó tổng sản lượng giảm.
14
14
15
Hiện nay Trung Quốc là nước sản xuất nhiều khoai lang nhất trên thế giới,
năm 2009 đạt 3.860.254 ha, với năng suất là 21 tấn/ ha và sản lượng đạt cao nhất
thế giới (81.212.926 tấn).
Tuy nhiên, theo dự báo của cơ quan tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp
quốc tế (CGIAR) của Liên hợp quốc cho biết sản xuất các cây có củ như sắn,
khoai tây, khoai lang từ nay đến năm 2020 sẽ lần lượt tăng với tốc độ: 1,74; 2,02
và 2,7%/năm. Một số tài liệu nước ngoài đề cập tới vai trò của cây có củ như
một trong những chỗ dựa quan trọng của nhân loại trong thế kỷ 21. Bởi hiện tại
tiềm năng cải tiến năng suất của cây có củ là rất lớn, trong khi đó mặc dù năng
suất của các cây ngũ cốc đã khá cao nhưng trong một phạm vi nào đó đã đạt đến
mức giới hạn của năng suất trần. Ngoài ra cây có củ có thể trồng được ở những
vùng đất xấu, khô hạn,…
1.3.2. Tình hình nghiên cứu
Trong công tác lai tạo giống, việc duy tr và bảo quản tập đoàn giống
địa phương phải luôn được tiến hành thường xuyên. Theo số liệu thống kê
trong bản danh mục về tập đoàn khoai lang năm 1980, do Viện tài nguyên di
truyền thực vật Quốc tế (IPGRI) tập đoàn này bao gồm 6.900 mẫu. Mỗi một
nước trên thế giới đều duy tr tập đoàn khoai lang nhất định.
Ở Nhật Bản năm 1993 duy tr tới 3.455 dòng, giống (Komaki, 1994 [37]).
Theo báo cáo của Bacusmo, Acedo, Mariscal và Oracion (1994) [28], ngân hàng
gen khoai lang của Philippin hàng năm lưu giữ 2.777 mẫu.
Tại nhiều Viện nghiên cứu ở Trung Quốc, số lượng giống trong tập đoàn
lưu giữ lên tới 3.000 mẫu và luôn được duy tr trên đồng ruộng; duy tr bằng
invitro và bảo quản bằng invitro (Xiao-Ding, Wang, Wu, Sheng, 1994) [57].
Việc khảo sát quỹ gen khoai lang (vật liệu khởi đầu) không những mô tả

về đặc trưng hnh thái của các mẫu giống, tất cả các mẫu giống đều được khảo
15
15
16
sát về khả năng năng suất, các yếu tố cấu thành năng suất, hàm lượng chất khô,
khả năng chống chịu bọ hà và một số đặc tính khác. Qua khảo sát vật liệu khởi
đầu của Trung tâm khoai tây Quốc tế và Trung tâm khoai tây Quốc tế vùng 7
cho thấy ở khoai lang có sự phong phú đa dạng về các tính trạng số lượng:
năng suất củ, hàm lượng chất khô, khả năng chống chịu bọ hà… Đây chính là
những tính trạng quan trọng được các nhà nghiên cứu sử dụng trong công tác
lai tạo giống khoai lang, nhằm tạo ra nhiều giống khoai lang năng suất cao,
phẩm chất tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt góp phần tạo nhiều giống làm
lương thực và chế biến…
Cũng như nhiều loại củ khác, khoai lang có hàm lượng thủy phần tương
đối cao, kết quả là hàm lượng chất khô thường thấp. Hàm lượng chất khô ở
khoai lang thay đổi chủ yếu theo giống, địa điểm trồng, khí hậu, thời gian sinh
trưởng, loại đất, thời vụ, thời gian sinh trưởng, độ chín hay thành thục của củ,
thời gian bảo quản (Bradburry and Holloway, 1988) [24]. Chất khô của khoai
lang chứa 80-90% Hydrat cacbon và 60-70% tinh bột.
Ở Đài Loan, hàm lượng chất khô của các dòng khoai lang biến động từ
13,6% đến 35,1% (Anon, 1981)[22]. Tại Braxin, hàm lượng chất khô của 18
giống khoai lang từ 22,9% đến 48,2% (Cedera và CS, 1982) [29] và từ 21%
đến 39% của các giống trồng ở các nước Nam Thái Bnh Dương (Bradbury &
Hollway, 1988) [24].
Gluxit là thành phần chủ yếu của cây khoai lang. Trong tổng lượng chất
khô của cây khoai lang gluxit chiếm tới 80-90% chất tươi (Woolfe, 1992) [54].
Gluxit bao gồm tinh bột, đường (glucoza,fructoza, sacaroza, mantoza ) và các
hợp chất pecin, hemixenluloza và xenluloza (xơ) với lượng thấp hơn. Thành
phần tương đối của các hợp chất này biến động không những phụ thuộc vào
giống và độ chín của củ, mà còn phụ thuộc vào thời gian bảo quản, sử dụng hay

chế biến Trong quá trnh bảo quản sau thu hoạch và chế biến thành phần gluxit
16
16
17
sẽ biến đổi. Nơi trồng với các điều kiện sinh thái cụ thể hnh như là tác nhân
quan trọng, ảnh hưởng đến từng loại gluxit (Woolfe, 1992) [54].
Tinh bột là thành phần quan trọng của gluxit. Trung bnh tinh bột chiếm
60 - 70% chất khô (Woolfe, 1992 [54]; Palmer, 1982 [44]). Hàm lượng tinh bột
biến động mạnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố giống là quan trọng
nhất. Tại Braxin 18 giống khoai lang trồng ở một địa điểm có hàm lượng tinh
bột biến đổi từ 42,6% - 78,7% chất khô (Cedera & CS 1982) [29]. Các giống
khoai lang ở Philippines và Mỹ, hàm lượng tinh bột biến động từ 33,2% - 72,9%
chất khô (Truong Van Den, Bienman và Marlett, 1986) [50]. Nếu tính theo chất
tươi th củ khoai lang có hàm lượng tinh bột trung bnh là 18%. Trên 31 giống
tại Ấn Độ có hàm lượng tinh bột biến động từ 11% đến 25,5% chất tươi
(Shanmugan và Venugopal , 1975) [47]; ở 272 giống của Đài Loan biến động từ
7% đến 22,2% chất tươi (Li và Liao, 1983) [38]; ở 75 giống của Thái lan biến
động từ 4,1% đến 26,7% chất tươi (Prabhudham, 1987) [45] và 164 dòng, giống
vùng Nam Thái Bnh Dương biến động từ 5,3% đến 28,4% chất tươi (Bradbury
và Hollway, 1988) [24]. Ở Ấn Độ: 11,0-25,5% chất tươi (31 giống).
Ngoài các yếu tố di truyền, các yếu tố khác như nơi trồng, năm trồng và
độ dài ngày của mùa trồng, cũng có ảnh hưởng đến hàm lượng tinh bột của củ
khoai lang. Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Australia (Bradbury và
Hollway, 1988) [24] hàm lượng tinh bột trung bnh của 8 giống biến động từ
13,1% đến 15,9% khi trồng ở 4 địa điểm khác nhau và của 15 giống từ 17,1%
đến 18,5% giữa 2 năm trồng khác nhau. Các tương tác giữa giống với nơi trồng
hay giữa giống với năm trồng có ý nghĩa cao. V vậy việc phải trồng thử nghiệm
các giống ở các địa điểm khác nhau và các năm là quan trọng, để xác định giống
thích hợp cho từng vùng, từng vụ cụ thể, chẳng hạn như: Hàm lượng tinh bột ở
cùng một giống thu hoạch sau trồng 150 ngày hay 180 ngày cao hơn đáng kể so

với khi thu hoạch ở 120 ngày trong cùng một thời vụ.
17
17
18
Theo nghiên cứu của Sharfuddin và Voican, 1984 [48] cho thấy tác dụng
của phân bón với cây khoai lang th việc bón phân Kali với liều lượng cao (124,4
và 186,7 kg/ha) đã làm tăng đáng kể hàm lương tinh bột trong chất khô.
Hàm lượng đường tổng số trong củ khoai lang biến động phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: Bản chất di truyền của giống, thời gian thu hoạch, các loại củ
khác nhau. Các giống ở Philippines có hàm lượng đường tổng số biến động từ
5,6% đến 38,3% chất khô (Truong Van Den, Bienman và Marlett, 1986) [50]. Tại
Puerto Rico, hàm lượng đường biến động từ 6,3% đến 23,6% chất khô từ các
dạng lương thực qua các dạng trung gian đến ăn tươi (Martin & Deshpande, 1985)
[40]. Trên cơ sở khối lượng chất tươi ở các giống từ các vùng của Nam Thái Bnh
Dương hàm lượng đường tổng số biến động từ 0,38% đến 5,64% (Bradbury và
Hollway, 1988) [24] và các giống ở Mỹ biến động từ 2,9% đến 5,5%.
Nhóm xơ bao gồm các hợp chất pectin (propectin, các axit pectic, axit
pectinic và pectin hoà tan), hemixenluloza và xenluloza. Sự quan tâm nghiên
cứu các hợp chất này tăng lên do xơ tiêu hoá có khả năng làm giảm các bệnh ung
thư ruột kết, bệnh đái đường, bệnh tim và các bệnh đường tiêu hoá (Collins,
1985) [30]; Woolfe, 1992 [54]). Hàm lượng pectin tổng số trung bnh của 8
giống là 5,1% chất tươi, tương đương 20% chất khô.
Hàm lượng protein có trong củ khoai lang thấp, nhưng do năng suất thu
hoạch cao nên sản lượng protein trên đơn vị diện tích không thua kém các loại
hạt ngũ cốc khác (Woolfe, 1992) [54]. Theo tính toán khoai lang cho năng
suất protein trung bnh 184 kg/ha so với lúa mỳ (200kg/ha) và lúa nước (168
kg/ha) (Walter, 1984) [55]. Do vậy khoai lang là một trong những cây trồng
chính của thế giới có khả năng cho 2 triệu tấn protein hàng năm. Trung bnh
protein thô là 5% chất khô hay 1,5% chất tươi (Woolfe, 1992) [54]. Hàm
lượng protein thô của khoai lang biến động từ 1,3% đến hơn 10% chất khô

(Purcel, 1972 [46]; Li, 1974 [39]).
18
18
19
Khoai lang là một trong những nguồn cung cấp vitamin C đáng kể (axit
ascorbic) và chứa một lượng vừa phải thiamin (vitamin B
1
), riboflavin (B
2
),
niaxin cũng như vitamin B
6
, axit pantothenic (B
5
) và axit folic. Ngoài ra khoai
lang còn chứa nguồn Caroten - tiền vitamin A rất quan trọng đối với dinh dưỡng
của người và gia súc. Khoai lang có hàm lượng vitamin C biến động từ 20 đến
50 mg /100g chất tươi (Ezell & Wilcox, 1952) [32].
Theo số liệu công bố của Viện dinh dưỡng (dựa trên số liệu của bảng
thành phần dinh dưỡng của FAO dùng cho vùng Đông á) trong các loại khoai
lang khác nhau hàm lượng vitamin C biến động từ 23 mg/100g chất tươi (củ
khoai lang ruột trắng) đến 30 mg/100g chất tươi (củ khoai lang ruột vàng).
Sắc tố Carôten quyết định mầu sắc thịt củ khoai lang: mầu kem, mầu
vàng, da cam hay da cam đậm tuỳ theo hàm lượng β Caroten. Tỷ lệ này cao
trong các giống ruột củ vàng đến vàng cam đậm. Các giống ruột củ trắng
thường không có Caroten. Ý nghĩa quan trọng của β Caroten trong khẩu phần
ăn là hoạt tính tiền vitamin A.
Caroten - tiền vitamin A là nhóm hợp chất chỉ có ở thực vật và được
biến thành vitamin A có vai trò dinh dưỡng rất quan trọng đối với người và
động vật. Sự thiếu hụt vitamin A gây nên các bệnh khác nhau về mắt, cản trở

quá trnh sinh trưởng và phát triển bnh thường và làm giảm sức đề kháng đối
với các bệnh nhiễm trùng.
Hàm lượng Caroten tổng số đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo số
liệu của các tác giả ở Australia th các mẫu khoai lang của Papua Niu Ghinê
và đảo Solomon chứa trung bnh 0,048 mg/100g chất tươi (Bradbury &
Holloway, 1988) [24]. Các giống khoai Mỹ có hàm lượng Caroten biến động
từ 0,03 đến 3,308 mg/100g chất tươi (Bureau & Bushway, 1986) [25]. Các
giống khoai lang có ruột màu kem đến màu vàng thu thập ở 5 thành phố của
Mỹ, ba tháng một lần trong năm, chứa β- Caroten từ 0,184 mg đến 0,368
19
19
20
mg/100g chất tươi. Các giống có ruột màu vàng da cam đậm là nguồn rất giàu
β- Caroten, biến động từ 3,36 mg đến 19,60 mg/100g chất tươi (Xác định
bằng phương pháp SKLHNC) (Woolfe, 1992) [54]. Ở các dòng, giống của
Đài Loan hàm lượng Caroten biến động từ 0,400 mg đến 24,800 mg/100g
chất tươi giữa các giống có ruột củ màu trắng và màu vàng da cam (Wang &
Lin, 1989) [56]. Các giống khoai lang có màu kem và màu vàng của Niu
Dilon hàm lượng Caroten trung bnh là 0,076 mg/100g chất tươi (Visser &
Burrows, 1983) [53].
Củ khoai lang có hàm lượng tro trung bnh 1% chất tươi (khoảng 3 -
4% chất khô) (Woolfe, 1992) [54].
Trong củ khoai lang hàm lượng một số nguyên tố như Ca, Fe, Mg, Zn
và Mn ở vỏ củ cao hơn ở thịt củ. Hàm lượng chất khoáng còn phụ thuộc vào
giống, nơi trồng, phân bón và cách sử dụng, chế biến
1.4. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình sn xuất
Cây khoai lang được đưa vào trồng ở Việt Nam cách đây hơn 400 năm,
là cây trồng có nhiều ưu việt so với các cây trồng khác như: Thời gian sinh
trưởng ngắn, trồng được nhiều vụ trong năm và là cây có tiềm năng năng suất

rất cao, năng suất khoai lang bnh quân của các nước trên thế giới đạt 14 - 15
tấn/ha trong đó Việt Nam mới chỉ đạt được 6-8 tấn/ha, một số nước có năng
suất cao như: Nhật Bản đạt 30 - 40 tấn/ha, Hàn Quốc đạt 30 -35 tấn/ha, Trung
Quốc đạt 60-80 tấn/ha, Trong quá trnh phát triển sản xuất nông nghiệp ở
nước ta khoai lang chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất lương thực, khoai
lang có thể xếp thứ 3 sau lúa và ngô. V khoai lang là cây lương thực dễ trồng,
đầu tư thấp nhưng lại cho năng suất rất cao. Nếu xét về diện tích và sản lượng
khoai lang, thậm chí nó xếp thứ 2 trong số những cây lương thực ở các vùng
hay xảy ra bão lớn của một số tỉnh ven biển Miền Trung nước ta (Anon, 1998).
20
20
21
Sản xuất khoai lang ở Việt Nam chủ yếu được tiến hành ở hộ nông dân,
nói chung tự sản tự tiêu là chính, ít có tính chất hàng hoá. Hàng chục năm
trước đây, các nhà chọn giống và các nhà nông học đã giới thiệu và phát triển
các giống mới và các biện pháp kỹ thuật, nhưng năng suất không tăng như
mong muốn. Cây khoai lang đang có một triển vọng lớn về nguồn lương thực
bổ sung, về chế biến công nghiệp và cả tiềm năng lớn về thức ăn cho gia súc
nên nó đòi hỏi đầu tư nghiên cứu hơn nữa nhằm tm ra những giải pháp cho
các vấn đề chọn giống, sản xuất và nâng cao giá trị sử dụng.
Bng 1.3: Diện tích, năng suất và sản lượng khoai lang các vùng sinh thái
trong cả nước năm 2009
TT Chia ra các vùng sinh thái
Năm 2009
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000tấn)

1 Đồng bằng Sông Hồng 22,8 8,54 194,7
2 Trung du và miền núi phía Bắc 38,2 6,24 238,2
3 Trong đó: Bắc Giang 7,9 9,48 74,8
4
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung
55,1 5,97 328,9
5 Tây Nguyên 14,1 10,71 151,0
6 Đông Nam Bộ 2,5 8,28 20,7
7 Đồng bằng sông Cửu Long 13,7 20,0 274,1
Tổng cả nước 146,4 8,24 1207,6
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009)[18]
Ở Việt Nam, khoai lang là cây lương thực truyền thống, được trồng ở
khắp mọi nơi trên cả nước từ Đồng bằng đến Miền núi và Duyên hải Miền
Trung. Sản xuất khoai lang ở nước ta không đồng đều cả về diện tích, trnh độ
thâm canh, năng suất thấp và có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng trồng
khoai lang.
Theo số liệu thống kê năm 2009 cho thấy diện tích khoai lang cả nước
đã giảm trên 100 nghn ha, kể từ năm 2000 (254,3 nghn ha) đến năm 2009
21
21
22
(146,4 nghn ha). Trong đó, vùng Bắc Trung bộ luôn dẫn đầu về diện tích
trồng khoai lang là 55,1 nghn ha, thứ đến là vùng Trung du và miền núi phía
Bắc chiếm diện tích 38,2 nghn ha và Bắc Giang là tỉnh dẫn đầu về diện tích
trồng khoai lang 7,9 nghn ha; sau đó là vùng Đồng bằng sông Hồng 22,8
nghn ha đứng thứ ba. Nhn chung năng suất ở 6 vùng trồng khoai lang không
đồng đều, cao nhất là Đồng bằng sông Cửu Long đạt 20,0 tấn/ha, thấp nhất là
vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung đạt 5,97 tấn/ha và vùng Trung
du và chỉ đạt 6,24 tấn/ha.

Về năng suất khoai lang trung bnh ở nước ta còn quá thấp, khoảng 8,24
tấn/ha. Tuy nhiên, vùng có năng suất khoai lang cao nhất năm 2009 là vùng
Đồng bằng sông Cửu Long đạt bnh quân là 20 tấn/ha, các vùng còn lại trong cả
nước năng suất chỉ đạt từ 6,2 tấn/ha đến 10,07 tấn/ha, trong khi năng suất trung
bnh của Nhật Bản, Triều Tiên: 20 tấn/ha, Như vậy, có thể thấy rằng còn rất
nhiều tiềm năng để nâng cao năng suất khoai lang ở nước ta.
Ở Việt Nam, khoai lang được sử dụng rộng rãi làm lương thực và thực
phẩm, nhưng chế biến khoai lang chưa được quan tâm nên mới chỉ ở quy mô
nhỏ hẹp. Ngoài thái con ch và phơi khô để nấu với đỗ, nghiền làm bánh, mứt
(Bùi Huy Đáp, 1984) [5], (Đinh Thế Lộc, 1979) [15], (Lương Thị Thịnh,
1977) [21], th Viện Công nghệ sau thu hoạch đã đưa ra quy trnh kỹ thuật sản
xuất đường nha và dextrin từ khoai lang và sắn (Nguyễn Công Ngữ và CS,
1990) [17]. Hay tinh bột khoai lang có thể sản xuất miến hay sản xuất tinh bột
khoai lang sử dụng enzym (Phùng Hữu Hào, Lê Doãn Diên và CS, 1995) [8].
Việc sử dụng củ hoặc thân lá khoai lang cho người và gia súc cũng rất
khác nhau giữa các vùng. Ở Miền Bắc, những nơi chủ yếu trồng lúa th khoai
lang được sử dụng chính là cho gia súc chiếm từ 40-80%. Có thể thấy việc sử
dụng khoai lang làm lương thực ở các vùng chỉ đạt từ 10% cho đến 40%. Ngoài
22
22
23
ra, chỉ có khoảng 20% khoai lang được lưu hành trên thị trường (Bảng 1.4).
Bng 1.4: Tình hình sử dụng khoai lang ở Việt Nam
(% tổng sản lượng)
Vùng
Đối tượng sử dụng
ĐB Bắc Bộ
Ven biển
Trung bộ
ĐB sông

Mê Công
Sử dụng cho người 30 40 10
Thức ăn gia súc 40-60 20 70-80
Trao đổi thị trường 10-25 20 10-20
Chế biến 0-5 20 0
Nguồn: Đặng Thanh Hà et al, (1991) [31]
1.4.2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, các nhà nghiên cứu tại Việt Nam đã chọn tạo thành công nhiều
giống mới trong đó có một số giống khoai lang được công nhận giống tiến bộ
kỹ thuật.
Giống khoai lang 143 được chọn lọc từ tổ hợp lai CN 1510-25 và Xushu
18 từ vụ Đông 1990. Giống khoai lang 143 có khả năng sinh trưởng thân lá
tốt, vụ đông và vụ Xuân đều cho năng suất cao và ổn định, đạt 25-27 tấn/ha,
hàm lượng chất khô củ đạt 29,6%, chất lượng ăn tươi ngon và được người tiêu
dùng chấp nhận.
Giống khoai lang KL-5 được chọn tạo từ quần thể hạt thụ phấn tự do của
giống Số 8, với mục đích sử dụng làm thức ăn gia súc cho vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Giống khoai lang KL-5 có khả năng sinh trưởng mạnh, thích hợp với
các thời vụ khác nhau, đặc biệt vụ Đông. Giống khoai lang KL-5 đạt năng
suất sinh khối cao hơn đối chứng Hoàng Long trên 50%. Thân lá và củ của
khoai lang KL-5 mềm, ngọt, có thể đáp ứng tốt nhu cầu làm thức ăn gia súc.
23
23
24
Ngoài ra, giống KL-5 còn có khả năng tái sinh nhanh, rất thích hợp với
phương pháp thu hoạch theo kiểu cắt tỉa định kỳ.
Giống khoai lang K51 được lai giữa giống CN 1028-15 với giống Số 8
từ năm 1990 và được công nhận giống quốc gia năm 2002. Giống K51 có thời
gian sinh trưởng khá ngắn, có thể thu hoạch 90 ngày sau trồng ở tất cả các vụ
trong năm. Năng suất của K51 đạt 20-30 tấn/ha. Giống khoai lang K51 có khả

năng chịu rét tốt trong điều kiện vụ đông. Nhược điểm của giống K51 là chất
lượng củ còn thấp, tỷ lệ chất khô củ đạt khoảng 20%.
Giống khoai lang KB-1 được công nhận giống năm 2002. Đây là giống
khoai lang có tiềm năng năng suất cao đạt 25-30 tấn/ha, chất lượng củ tươi khá.
Ngoài ra, giống khoai lang này có hàm lượng chất khô khá cao đạt 28-33% tùy
theo thời vụ trồng và kỹ thuật canh tác. Đây là giống đang được trồng phổ biến ở
nhiều địa phương bởi những ưu thế về năng suất và chất lượng của nó.
Trong thời gian qua, đã có nhiều tiến bộ về biện pháp canh tác tổng hợp cây
khoai lang đưa ra, áp dụng cho nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm đưa ra
công thức hữu hiệu nhất nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm khoai lang.
Khi mô tả cấu tạo củ khoai lang, các tác giả cho rằng: Củ khoai lang là
sự phát triển mạnh của một loại rễ gọi là rễ củ. Nhờ hoạt động nhịp nhàng của
2 lớp tượng tầng sơ cấp và thứ cấp ở rễ củ, mà rễ củ có khả năng tích luỹ dinh
dưỡng được và phnh to lên thành củ khoai lang. Đây là điểm khác cơ bản của
rễ củ đối với các loại rễ khác ở cây khoai lang. Củ khoai lang có mầu sắc,
hnh dáng bên ngoài khác nhau phụ thuộc vào giống và điều kiện canh tác, củ
khoai lang có hai lớp: lớp vỏ và lớp thịt củ, lớp vỏ với chức năng bảo vệ,
trong vỏ có chứa nhiều Tanin và nhựa tập trung nhiều ở đầu củ. Lớp thịt củ có
chứa nhiều tinh bột, đường, protein và ngoài ra còn các thành phần khác như:
24
24
25
protein, các chất vitamin (Vitamin C, tiền vitamin A (caroten), B1, B2…), các
chất khoáng (P, Fe…) góp phần quan trọng trong dinh dưỡng của con người,
nhất là ở các nước nghèo, đang phát triển.
Theo kết quả công bố (1972), của Viện vệ sinh dịch tễ (Bộ Y tế) và Viện
nghiên cứu kỹ thuật ăn mặc (Cục quân nhu, Tổng cục hậu cần); Nguyễn Đạt,
Ngô Văn Tân, 1974 [6] cho thấy: trong củ khoai lang tươi có 68% nước, 28%
gluxit (80% ở củ khô) (Bảng 1.5).
Bng 1.5: Thành phần hoá học 100g thức ăn của củ khoai lang

Chỉ tiêu
Loại củ
Nước
(g,%)
Gluxit
(g,%)
Protein
(g,%)
Lipit
(g,%)
Xenlulo
(g,%)
Tro
(g,%)
Khoai lang tươi 68 28,5 0,8 0,2 1,3 1,2
Khoai lang khô 11 80,0 2,2 0,5 3,6 2,7
Về dinh dưỡng thân lá khoai lang các tác giả: Phùng Huy, 1980 [7] và
Bùi Huy Đáp, 1984 [5] đưa ra kết quả phân tích như sau: Thân lá khoai lang
có 1,21% chất tươi protein và 10,06% chất khô; gluxit 16,50% chất tươi và
38,40% chất khô; lipit trong thân lá khoai lang tươi có tỷ lệ cao hơn trong
thân lá khoai lang khô (Bảng 1.6).
Bng 1.6: Thành phần dinh dưỡng của thân lá khoai lang
Chỉ tiêu
Loại dây
Protein
(%chất khô)
Lipit
(%chất khô)
Gluxit (%chất
khô)

Dây khoai tươi 1,21 3,40 16,50
Dây khoai khô 10,06 2,10 38,40
Tinh bột trong củ khoai lang biến động từ 52,29 - 75,38% chất khô
(Đinh Thế Lộc, 1979) [15].
Đường tổng số trong củ khoai lang từ 12,26 - 18,52% chất khô. Bao
25
25

×