Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(Tiểu luận) bài tập nhóm môn tư pháp quốc tế đề số 02 bình luận các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.06 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHĨM
MƠN: TƯ PHÁP QUỐC TẾ
ĐỀ SỐ 02:
Bình luận các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong
pháp luật Việt Nam
Nhóm

: 02

Lớp

: N08.TL1

Khoá

: 46

Hà Nội - 2022

h


BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM

STT MSSV

HỌ VÀ TÊN


THÀNH
PHẦN

XẾP
LOẠI

1

453213 Trịnh Thu Phương

Thành viên

A

2

462310 Nguyễn Thị Ngọc Bảo

Thành viên

A

3

462311 Bùi Hà Minh Châu

Thành viên

A


4

462312 Nguyễn Mai Chi

Nhóm trưởng

A

5

462313 Trương Quế Chi

Thành viên

A

6

462315 Phạm Ngọc Diệp

Thành viên

A

7

462317 Hoàng Trường Giang

Thành viên


A

8

462318 Nguyễn Bảo Giang

Thành viên

A

9

462319 Phạm Hương Giang

Thành viên

A

KÝ TÊN

Kết quả điểm bài viết:……...
Kết quả điểm thuyết trình:………
Tổng điểm:………
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2022
NHÓM TRƯỞNG

MỤC LỤC

h



Trang
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................1
I.

Một số khái niệm và nguyên tắc cơ bản liên quan đến quốc tịch của

pháp nhân.....................................................................................................1
1. Khái niệm.........................................................................................1
1.1. Pháp nhân.....................................................................................1
1.2. Quốc tịch của pháp nhân.............................................................2
2. Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân.............................2
2.1. Dựa trên nơi thành lập pháp nhân.............................................2
2.2. Dựa trên nơi pháp nhân đặt trụ sở.............................................2
2.3. Dựa trên nơi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của
pháp nhân..............................................................................................2
II. Phân tích và bình luận về các quy định về quốc tịch của pháp nhân
trong pháp luật Việt Nam...........................................................................3
1. Ưu điểm của các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong
pháp luật Việt Nam hiện hành................................................................4
2. Hạn chế của các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong
pháp luật Việt Nam hiện hành................................................................7
III. ....... Kiến nghị hoàn thiện các quy định về quốc tịch của pháp nhân
trong pháp luật Việt Nam.............................................................................9
C. KẾT LUẬN...............................................................................................10
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................11
E. PHỤ LỤC..................................................................................................12

h



A. MỞ ĐẦU
Tư pháp quốc tế là một ngành luật vô cùng quan trọng để điều chỉnh
các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Tư pháp quốc tế chứa đựng nhiều
chủ thể, mỗi chủ thể lại có một đặc điểm khác nhau. Trong đó, đặc điểm của
pháp nhân, cụ thể là quốc tịch của pháp nhân là một vấn đề rất phức tạp trong
quan hệ tư pháp quốc tế. Với mong muốn được tìm hiểu kĩ khía cạnh này,
nhóm quyết định khai thác đề tài: “Bình luận các quy định về quốc tịch của
pháp nhân trong pháp luật Việt Nam”.
B. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm và nguyên tắc cơ bản liên quan đến quốc tịch của
pháp nhân
1. Khái niệm 
1.1.

Pháp nhân

Các hệ thống pháp luật trên thế giới đều ghi nhận sự tồn tại hợp pháp
của các tổ chức dưới khái niệm pháp nhân. Hiện nay, pháp luật Việt Nam
không quy định cụ thể về khái niệm pháp nhân, tuy nhiên qua các điều kiện
để trở thành pháp nhân quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 20151, có thể hiểu
khái niệm cơ bản của pháp nhân như sau: Pháp nhân là một tổ chức của con
người (một chủ thể pháp luật) do nhà nước thành lập hoặc thừa nhận theo quy
định của pháp luật một quốc gia nhất định, nhằm thực hiện những chức năng
hoặc mục đích nhất định. Pháp nhân và có tư cách pháp lý độc lập, có thể
tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội,… theo quy định của
pháp luật.
1


Điều 74. Pháp nhân

1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.

1

h


1.2.

Quốc tịch của pháp nhân

Quốc tịch của pháp nhân là tình trạng pháp lý của một pháp nhân. Pháp
nhân hợp pháp khi nó được thành lập và hoạt động phù hợp với pháp luật của
nước mà nó mang quốc tịch. Quốc tịch của pháp nhân còn được hiểu là mối
liên hệ pháp lí lâu dài, vững chắc giữa pháp nhân với một quốc gia nhất định
đã thành lập ra pháp nhân đó.
2. Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân
Để xác định quốc tịch của pháp nhân, các tiêu chí chính được áp dụng
thông thường bao gồm: nơi đặt trụ sở của pháp nhân; trung tâm các hoạt động
của pháp nhân; pháp luật nước mà pháp nhân được thành lập; trường hợp đặc
biệt sẽ căn cứ vào quốc tịch của người thực sự làm chủ hay lãnh đạo pháp
nhân đó. Cụ thể như sau:
2.1.


Dựa trên nơi thành lập pháp nhân

Đây được xem là tiêu chí phổ biến nhất được hầu hết các hệ thống pháp
luật trên thế giới áp dụng để xác định quốc tịch của pháp nhân. Dựa trên tiêu
chí này, pháp nhân thành lập tại quốc gia nào thì pháp nhân sẽ mang quốc tịch
của quốc gia đó. Cách xác định trên tương đối dễ dàng và có tính ổn định cao,
nhưng đồng thời cũng có thể dẫn đến tình trạng lẩn tránh pháp luật trong quá
trình điều chỉnh hoạt động của pháp nhân, do người thành lập ra pháp nhân có
thể tính tốn lựa chọn quốc tịch bằng cách lựa chọn nơi thành lập cho pháp
nhân đó.
2.2.

Dựa trên nơi pháp nhân đặt trụ sở

Với tiêu chí trên, pháp nhân đặt trụ sở tại quốc gia nào thì sẽ mang
quốc tịch của quốc gia đó. Việc xác định theo tiêu chí này khơng có tính ổn
định cao và có thể xảy ra trường hợp nơi đặt trụ sở thực tế khác với trụ sở
trong điều lệ của pháp nhân. Tuy nhiên, ưu điểm của cách xác định này sẽ
giúp tránh sự lạm dụng việc tính tốn, lựa chọn quốc tịch cho pháp nhân.
2.3. Dựa trên nơi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của pháp
nhân
2

h


Theo tiêu chí này, quốc tịch của pháp nhân là quốc gia nơi pháp nhân
tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tiêu chí này sẽ hạn chế tối đa
việc lẩn tránh pháp luật trong việc điều chỉnh hoạt động của pháp nhân.

Nhưng các hoạt động sản xuất, kinh doanh của pháp nhân có thể tiến hành
trên lãnh thổ nhiều quốc gia khác nhau, vì vậy tiêu chí này cũng dễ thay đổi
và gây khó khăn trong việc xác định quốc tịch của pháp nhân hơn.
Như vậy, mỗi quốc gia sẽ có nguyên tắc xác định quốc tịch pháp nhân
riêng của mình và các quốc gia khác có nghĩa vụ phải thừa nhận năng lực chủ
thể của pháp nhân đã được xác lập theo pháp luật mà pháp nhân mang quốc
tịch. Theo xu hướng của các quốc gia Châu Âu lục địa thì quốc tịch của pháp
nhân sẽ được xác định dựa trên việc đặt trung tâm quản lý của pháp nhân. Mặt
khác, với các quốc gia theo hệ thống luật Anh – Mỹ thì lại căn cứ vào nơi
thành lập hoặc đăng ký điều lệ của pháp nhân.
Theo pháp luật Việt Nam, nguyên tắc xác định quốc tịch pháp nhân
được quy định tại hai văn bản pháp luật là Luật Doanh nghiệp 2020 và Bộ
luật Dân sự 2015, dựa trên tiêu chí nơi thành lập pháp nhân. Theo đó, quốc
tịch của pháp nhân sẽ được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân
thành lập. Trong trường hợp pháp nhân được thành lập tại Việt Nam hoặc
thành lập tại quốc gia khác và lựa chọn pháp luật áp dụng để thành lập (nếu
quốc gia sở tại không cấm) thì đều mang quốc tịch Việt Nam. Khi mang quốc
tịch Việt Nam, pháp nhân sẽ có các quyền, nghĩa vụ pháp luật tương ứng theo
quy định tại các văn bản pháp luật điều chỉnh.
Xác định quốc tịch của pháp nhân có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định
các quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, thẩm quyền của cơ quan tài phán trong
việc giải quyết các tranh chấp giữa pháp nhân và chủ thể khác. Đồng thời
giúp quốc gia sở tại kiểm sốt hoạt động của pháp nhân, góp phần bảo vệ chủ
quyền an ninh quốc gia và lợi ích kinh tế - xã hội của chính quốc gia đó.
II.

Phân tích và bình luận về các quy định về quốc tịch của pháp
nhân trong pháp luật Việt Nam

3


h


1. Ưu điểm của các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong
pháp luật Việt Nam hiện hành
Thứ nhất, Điều 80 Bộ luật Dân sự 2015 là một điểm mới so với Bộ luật
dân sự 1995 và 2005, trong đó ghi nhận mối liên hệ pháp lý đặc biệt và vững
chắc giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các pháp nhân
có quốc tịch Việt Nam. Đây là lần đầu tiên mối quan hệ đặc biệt này được ghi
nhận trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể, Điều 80 Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ:
“Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt
Nam”. Quy định này chứa đựng một quy phạm tư pháp quốc tế trong nước và
là một quy phạm xung đột một chiều. Theo đó, khi mang quốc tịch Việt Nam,
pháp nhân sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng theo quy định tại các văn
bản pháp luật chuyên ngành thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. 
Hệ thuộc luật quốc tịch là một trong những hệ thuộc luật cơ bản của tư
pháp quốc tế, thường được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
việc thành lập, giải thể, nguyên tắc tổ chức hoạt động của pháp nhân… Chính
vì vậy, theo Điều 80 Bộ luật Dân sự 2015, pháp nhân có quốc tịch Việt Nam
hoạt động ở nước ngoài sẽ được nhà nước bảo hộ thông qua con đường ngoại
giao, đồng thời việc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, chấm dứt pháp
nhân và thanh lý tài sản trong các trường hợp này sẽ được tuân theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, việc công nhận địa vị pháp lý của pháp nhân theo quy định tại
Điều 80 Bộ luật Dân sự 2015 cịn góp phần thúc đẩy giao lưu thương mại
giữa Việt Nam và nước ngoài. Pháp nhân Việt Nam khi tham gia vào các
quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài sẽ được nhà nước Việt Nam đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp. Nhờ đó, các pháp nhân Việt Nam sẽ an tâm và
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình hợp tác, kinh doanh với pháp

nhân nước ngồi. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển mối
quan hệ giao thương giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, đặc biệt là
trong thời đại hội nhập kinh tế hiện nay. Không những vậy, sử dụng hệ thuộc
4

h


luật quốc tịch của pháp nhân, không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở chính hay
nơi kinh doanh chính của pháp nhân đó cịn tạo điều kiện thuận lợi cho các
công ty xuyên quốc gia mở rộng thị trường tại Việt Nam.
Thứ ba, quy định mới về nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân
trong Bộ luật Dân sự 2015 đã góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam. So với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 bổ sung thêm khoản
1 Điều 676, quy định nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân. Theo đó,
“quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp
nhân thành lập”. Đây là điểm tiến bộ, giúp khắc phục thiếu sót của Bộ luật
dân sự 2005 và cũng là lần đầu tiên pháp luật Việt Nam trực tiếp ghi nhận căn
cứ để xác định quốc tịch của pháp nhân là pháp luật ở nơi thành lập pháp
nhân. Theo tiêu chí này, pháp nhân thành lập ở đâu thì pháp luật nước đó sẽ là
căn cứ để xác định quốc tịch của pháp nhân. 
Trước đây, vấn đề quốc tịch của pháp nhân là một yếu tố lý lịch quan
trọng nhưng chưa có quy định pháp luật cụ thể nên việc bổ sung quy định mới
giúp hệ thống pháp luật đầy đủ hơn. Hơn nữa, Bộ luật Dân sự 2005 tồn tại
quy định liên quan đến pháp nhân nước ngoài nhưng phần quy định về pháp
nhân lại khơng có điều luật lý giải thế nào là “pháp nhân nước ngoài”. Trong
thực tế, quốc tịch của pháp nhân được xác định theo khoản 4 và khoản 5 Điều
3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi2. Theo đó, cơ quan, tổ chức pháp nhân nước ngoài là đối tượng

được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, những quy định trong
nghị định này chưa cụ thể mà chỉ mang tính khái quát. Thêm vào đó, mặc dù
Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 đều khơng có quy định về ngun tắc xác
định quốc tịch của pháp nhân nói chung nhưng một số luật chuyên ngành lúc
đó lại có các quy định về quốc tịch của một số loại pháp nhân nhất định. Ví
dụ, khoản 9 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Doanh nghiệp Việt
Lý Vân Anh, Một số đánh giá về những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 91/2017.
2

5

h


Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật
Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam”. Vì vậy, việc bổ sung quy định về
quốc tịch của pháp nhân Việt Nam và pháp nhân nước ngồi trong Bộ luật
Dân sự 2015 khơng những hồn thiện, khắc phục thiếu sót của Bộ luật dân sự
2005 mà còn giúp cho các điều luật trong Bộ luật dân sự thống nhất với nhau
và tạo nên sự tương đồng, đồng bộ giữa các luật.
Thứ tư, việc quy định về quốc tịch pháp nhân trong Bộ luật Dân sự
2015 giúp các cơ quan có thẩm quyền xác định rõ ràng pháp luật được lựa
chọn để điều chỉnh hoạt động của pháp nhân và lựa chọn hệ thống pháp luật
nào để giải quyết tranh chấp giữa các pháp nhân có quốc tịch khác nhau. Theo
quy định tại Điều 80 Bộ luật Dân sự 2015, pháp nhân được thành lập theo
pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam. Như vậy, nếu pháp nhân thành
lập tại quốc gia khác nhưng theo quy định của pháp luật ở nước sở tại, pháp
nhân có quyền lựa chọn áp dụng pháp luật Việt Nam để thành lập thì pháp
nhân đó vẫn mang quốc tịch Việt Nam. Trong trường hợp này, hoạt động của

pháp nhân vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, Điều 676
Bộ luật Dân sự 2015 quy định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân; tên
gọi của pháp nhân; đại diện theo pháp luật của pháp nhân; việc tổ chức, tổ
chức lại, giải thể pháp nhân; quan hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp
nhân, trách nhiệm của pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối với các
nghĩa vụ của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân
có quốc tịch. Như đã phân tích ở trên, hệ thuộc luật quốc tịch là thường được
sử dụng để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc thành lập, giải thể,
nguyên tắc tổ chức hoạt động của pháp nhân… Nếu khơng có quy định về
ngun tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tại Điều 80 và Điều 676 Bộ luật
Dân sự 2015 thì khi xảy ra những tranh chấp liên quan đến các vấn đề nêu
trên giữa các pháp nhân có quốc tịch khác nhau, việc xác định pháp luật áp
dụng để giải quyết tranh chấp sẽ gặp phải khó khăn và trở ngại.
6

h


2. Hạn chế của các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong
pháp luật Việt Nam hiện hành
 Cùng với sự phát triển của chính trị xã hội, pháp luật mỗi quốc gia đều
có một chế định riêng trong việc xác định quốc tịch của pháp nhân. Theo xu
hướng các quốc gia Châu Âu lục địa thì quốc tịch pháp nhân sẽ được xác định
dựa trên trung tâm quản lý của pháp nhân; còn với các quốc gia theo hệ thống
luật Anh-Mỹ thì lại căn cứ vào nơi thành lập hoặc đăng ký điều lệ pháp nhân.
Do quy định pháp luật các nước về nguyên tắc xác định quốc tịch có sự khác
nhau nên sẽ tạo ra xung đột pháp luật quốc tịch pháp nhân. Thực tế, có nhiều
trường hợp, pháp nhân được đặt trụ sở ở nước này nhưng trung tâm hoạt động
lại nằm ở nước khác, pháp nhân được thành lập theo luật của nước này nhưng
lại hoạt động chính ở nước khác hoặc khơng có nơi hoạt động cố định,... So

sánh với quy định của Việt Nam tại Điều 676 BLDS 2015 “quốc tịch của
pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập” 
ta sẽ nhận thấy rõ một tất yếu xung đột nếu các bên chủ thể tham gia đến từ
các quốc gia có nguyên tắc xác định quốc tịch pháp nhân khác nhau. Xung
đột là hiện tượng đặc thù của Tư pháp quốc tế, vì nó mang yếu tố “nước
ngồi”, tức các quan hệ dân sự chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật của
hai hay nhiều quốc gia. Mặc dù là điều tất yếu, nhưng đã là xung đột thì ít
nhiều khơng tránh khỏi việc ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh thương mại
của các chủ thể. Khi xảy ra xung đột, thường có hai hướng xử lý: Một là dùng
phương pháp thực chất (thông qua các điều ước quốc tế hoặc tư pháp quốc
tế). Tuy nhiên, hạn chế của quy phạm này ở chỗ không phải quốc gia nào
cũng tham gia vào các cam kết quốc tế này ví dụ như Việt Nam mặc dù có
quan hệ ngoại giao với hơn 160 quốc gia nhưng mới chỉ ký kết được hơn 80
Hiệp định thương mại với các quốc gia có chứa các quy phạm thực chất thống
nhất điều chỉnh quan hệ thương mại có yếu tố nước ngồi, trong đó chưa có
điều nào liên quan đến vấn đề quốc tịch pháp nhân. Hai là, dùng phương pháp
xung đột, dùng quy phạm xung đột là dựa vào việc lựa chọn hệ thống pháp
7

h


luật của một quốc gia để áp dụng giải quyết. Vấn đề đặt ra ở chỗ Tồ án nói
chung và Tồ Việt Nam nói riêng khi xem xét hệ thống luật pháp của nước
mình để tìm ra các quy định cần thiết giải quyết vụ việc có đảm bảo tính
khách quan hay không khi lựa chọn luật để áp dụng thì đều đã thấy trước hệ
quả của việc áp dụng đó xảy ra như thế nào? Trong quan hệ thương mại quốc
tế, người ta thường áp dụng loại hệ thuộc xung đột mới là tự do lựa chọn luật
áp dụng. Chính sự tự do này đơi khi khiến cho các bên đương sự lạm dụng
quốc tịch của mình khi tránh không phải áp dụng một hệ thống pháp luật mà

đáng lẽ nó phải được áp dụng dẫn tới nhiều vụ việc tranh chấp giữa các pháp
nhân với nhau khó đi đến kết quả ví dụ như những hành vi thay đổi nơi cư trú
hoặc chuyển hố tài sản để nó có thể áp dụng được nước có quy định pháp
luật “nhẹ nhàng hơn”. Vậy điều này có thật sự trung lập hay khách quan khi
quy phạm pháp luật xung đột dẫn chiếu đến luật nước nào thì áp dụng luật
nước đó3. Các nước hiện nay đều coi đây là hiện tượng bất bình thường và
đều tìm biện pháp hạn chế hoặc ngăn cấm. Vì vậy đây vẫn là bất cập nói
chung của Tư pháp quốc tế và vấn đề nói riêng của Tư pháp quốc tế Việt Nam
trong vấn đề quy định quốc tịch pháp nhân. 
    

Ngoài ra, mặc dù pháp luật Việt Nam đã bổ sung các quy định về quốc

tịch của pháp nhân nhằm hoàn thiện và đồng bộ các quy định trong hệ thống
pháp luật nhưng chưa thật sự triệt để. Bởi trong một số luật chuyên ngành lại
có các quy định khác về quốc tịch của một số loại pháp nhân nhất định. Ví dụ,
theo khoản 12 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020: “Doanh nghiệp Việt Nam là
doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp
luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam”. Theo quy định này, Doanh
nghiệp Việt Nam là pháp nhân được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo
pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam. Vì vậy, quy định về quốc
tịch tại điều 80 Bộ luật Dân sự 2015 chưa thực sự tương thích với quy định
của Luật Doanh nghiệp 2020 vì nội dung của quy định trong Luật Doanh
3

Phan Trung Hoài (2001), “Tản mạn về xung đột pháp luật”, Tạp chí Khoa học Pháp luật, số 1/2001.

8

h



nghiệp không chỉ tập trung vào việc thành lập mà cịn đề cập tới trụ sở chính
của pháp nhân.  Hay theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005
thì thương nhân nước ngồi là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nước ngồi hoặc được pháp luật nước
ngồi cơng nhận. Theo Luật Thương mại 2005, hệ thuộc luật quốc tịch của
thương nhân nước ngồi khơng chỉ là luật của nước nơi thương nhân đó thành
lập, đăng ký kinh doanh mà cịn là luật của nước cơng nhận thương nhân đó là
thương nhân của mình. Đây là hệ thuộc luật phát sinh từ lý thuyết kiểm sốt
trong pháp luật cơng ty các nước thuộc hệ thuộc luật Anh - Mỹ, theo đó, một
cơng ty được thành lập, đăng ký kinh doanh (đăng ký thương mại) tại một
quốc gia, nhưng lại thuộc sở hữu hay chịu sự kiểm soát của cá nhân hay tổ
chức của quốc gia khác thì cịn có cả quốc tịch của cả quốc gia khác đó. Vì
vậy, các luật chuyên ngành thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam cần điều chỉnh
kịp thời quy định về quốc tịch của một số loại pháp nhân nhất định để phù
hợp với quy định chung tại Bộ luật Dân sự 2015.
III.

Kiến nghị hoàn thiện các quy định về quốc tịch của pháp nhân
trong pháp luật Việt Nam

Dựa trên phần phân tích trên, bài viết kiến nghị xem xét sửa đổi một số
vấn đề sau. Thứ nhất, đồng bộ các quy định trong hệ thống pháp luật điển
hình như đồng bộ hố quy định ở điều 80 BLDS 2015 với khoản 12 điều 4
Luật Doanh Nghiệp 2020. Thứ hai, đồng bộ quy định ở khoản 1 điều 6 Luật
Thương mại 2005 với điều 80 BLDS 2015 và điều 676 BLDS 2015 về hệ
thuộc luật quốc tịch của pháp nhân vừa tạo thuận lợi cho quá trình xác định
quốc tịch, quản lý quốc tịch của pháp nhân vừa giúp cho việc giao lưu kinh tế,
văn hố, chính trị của quốc gia được mở rộng, thúc đẩy sự phát triển của đất

nước.
Nhìn chung hiện nay, Luật quốc tịch Việt Nam tập trung điều chỉnh chủ
thể là cá nhân mà khơng có bất cứ quy định nào về pháp nhân, trong khi đó,
các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam điều chỉnh các vấn đề liên quan
9

h


đến chủ thể nước ngoài tập trung tại Phần thứ năm Bộ luật Dân sự 2015 cũng
chưa có đủ quy định điều chỉnh và dự liệu giải quyết tranh chấp liên quan đến
việc xác định quốc tịch của pháp nhân. Thơng thường trong tư pháp quốc tế
khi có xung đột pháp luật, điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên xem xét áp dụng.
Tuy nhiên những trường hợp Việt Nam khơng có ký kết điều ước quốc tế hay
các hiệp định tương trợ tư pháp liên quan, cộng thêm sự hạn chế quy phạm
pháp luật trên chắc chắn sẽ gây nhiều khó khăn trong q trình xác định quốc
tịch pháp nhân cũng như giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi
theo đó. Vì vậy, kiến nghị tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật, bổ sung
các quy phạm xung đột điều chỉnh vấn đề quốc tịch của pháp nhân. Pháp nhân
cũng cần được quan tâm, quy định và hướng dẫn đầy đủ như cá nhân trong
Luật quốc tịch. Từ đó giúp cơng tác quản lý và xét xử các vấn đề quốc tịch
của pháp nhân trở nên rõ ràng, dễ dàng và có hiệu quả hơn.
C. KẾT LUẬN
Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, những năm gần đây
số lượng người nước ngoài đến Việt Nam đầu tư, kinh doanh, du lịch…ngày
càng nhiều. Các quan hệ dân sự trong và ngoài nước ngày càng phát triển,
điều đó kéo theo những tranh chấp, mâu thuẫn có yếu tố nước ngồi ngày
càng tăng cao. Một trong số đó có vấn đề xác định quốc tịch pháp nhân. Việc
xác định quốc tịch của pháp nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Xác định quốc
tịch chính là việc xác định quyền và nghĩa vụ của một nhà nước với pháp

nhân và ngược lại. Trên cơ sở pháp lý, quốc tịch giúp quốc gia xây dựng và
áp dụng quy chế pháp lý phù hợp với pháp nhân là chủ thể của quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi. Vì vậy, Việt Nam cần điều chỉnh pháp luật đối với pháp
nhân cả trong và ngồi nước, tích cực hồn thiện chính sách pháp luật về quốc
tịch của pháp nhân, đồng thời có những chính sách luật pháp phù hợp, đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 
10

h


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Giáo trình
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, 2022.
* Sách
1. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân
sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2017.
2. Đỡ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật
dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, TPHCM, 2016.
3. Nguyễn Minh Tuấn, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, 2016.
4. Ngô Hồng Anh, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 (Thực hiện
từ 01/01/2017), Nxb. Lao động. 2016.
* Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự năm 1995.
2. Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Luật Doanh nghiệp năm 2020.

5. Luật Thương mại năm 2005.
6. Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi.
* Bài viết tạp chí
1. Lý Vân Anh, Một số đánh giá về những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015
về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số
91/2017.
11

h


2. Phan Trung Hoài, Tản mạn về xung đột pháp luật, Tạp chí Khoa học Pháp
luật, số 1/2001.
E. PHỤ LỤC
Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” là:
a) Các quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao
động có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
b) Các quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao
động mà các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam, nhưng căn cứ để
xác lập, thay đổi, chấm dứt theo pháp luật nước ngoài, phát sinh ở nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.
2. “Người nước ngồi” là người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm

người có quốc tịch nước ngồi và người khơng quốc tịch.
3. “Người Việt Nam định cư ở nước ngồi” là người có quốc tịch Việt Nam
và người gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
4. “Cơ quan, tổ chức nước ngoài” là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ
quan, tổ chức Việt Nam được thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm
cả cơ quan, tổ chức quốc tế được thành lập theo pháp luật quốc tế.
5. “Pháp nhân nước ngoài” là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước
ngoài.
6. “Giao kết hợp đồng dân sự vắng mặt” là việc giao kết hợp đồng dân sự
thông qua phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà các bên giao kết
hợp đồng khơng có mặt tại cùng một địa điểm để ký kết hợp đồng.
12

h


13

h



×