Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Đề án nghiên cứu những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.86 KB, 40 trang )



 !"#$%&
'()*"+ 5
!,
2.1.1. Xuất khẩu nông sản 5
2.1.1.1 Xuất khẩu gạo 5
2.1.1.2 Xuất khẩu Café 7
2.1.2. Xuất khẩu thủy sản 10
2.1.3. Xuất khẩu dầu thô 14
!-
2.2.1. Nhập khẩu nguyên – phụ liệu phục vụ sản xuất 16
2.2.1.1. Nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày 16
2.2.1.2. Chất dẻo 17
2.2.2. Nhập khẩu xăng dầu 18
2.2.3. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng 19
2.2.4. Nhập khẩu máy tính, điện tử, linh kiện 20
2.2.5. Nhập khẩu sắt thép 21
2.2.6. Nhập khẩu phân bón 22
2.2.7. Nhập khẩu ô tô 24
2.2.8. Nhập khẩu hàng tiêu dùng 24
&!./0123 40"5
2.3.1. Nhân viên hải quan nhũng nhiễu gây khó khăn cho xuất khẩu 28
2.3.2. Quy định, thủ tục rườm rà, không rõ ràng 29
2.3.3. Kẽ hở trong nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu nông sản 30
&/"/6"0"/&
789$&:
';&5
<==>;?7;@AB

Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam


1
Từ chủ ý nhập khẩu các trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại để cải tiến kỷ thuật
công nghệ và đuổi kịp các nước trên thế giới. Việt Nam đã làm cho kim ngạch nhập khẩu
tăng lên nhanh chóng, và dù cho kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng gia tăng nhưng
không thể nào bắt kịp với các con số nhập khẩu. Chính vì vậy, mà Việt Nam rơi vào tình
trạng nhập siêu. Có thể nói nhập siêu không hẳn là xấu, nhập siêu giúp Việt Nam tiến bộ
hơn, hiện đại hơn và gia tăng xuất khẩu nhiều hơn. Thế nhưng, khi các con số nhập siêu
không ngừng gia tăng qua các năm, và tăng đến mức báo động, thì cũng là lúc xuất hiện
lời cảnh báo về nhập siêu. Đã có những câu hỏi đặt ra: Nhập siêu gia tăng vì đâu? Nếu chỉ
từ nhập khẩu các máy móc, công nghệ, dây chuyền hiện đại thì con số về nhập siêu có
đáng báo động đến vậy không? Làm thế nào để hạn chế nhập siêu trong những giai đoạn
tiếp theo?
Bài viết “Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam trong 6 tháng cuối năm 2010”
sẽ góp phần trả lời cho hai câu hỏi đầu tiên. Nội sung bài viết sẽ xoay quanh các vấn đề về
thực trạng nhập siêu của Việt Nam hiện nay và nguyên nhân nhập siêu. Bài viết cũng sẽ
góp một phần trả lời cho câu hỏi thứ ba, đó là những giải pháp hạn chế nhập siêu. Tuy
nhiên, những giải pháp này sẽ chỉ gói gọn cho những tháng cuối năm 2010.
  !"#$%
Nhập siêu hàng hóa tháng 7/2010 ước tính đạt 1,15 tỷ USD, bằng 19,8% kim ngạch
xuất khẩu. Tính chung bảy tháng, nhập siêu hàng hóa đạt 7,4 tỷ USD, bằng 19,4% kim
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
2
ngạch xuất khẩu. Trong đó, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7/2010 ước tính đạt 5,8
tỷ USD, giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2009. Tính
chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 38,3 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng
kỳ năm 2009. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 7/2010 ước tính đạt trên 6,9 tỷ USD,
giảm 1,5% so với tháng trước và tăng 9% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung bảy
tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 45,7 tỷ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm
trước
Mặc dù tổng giá trị xuất khẩu tăng nhưng nhìn chung, những con số trên vẫn thấp hơn

so với tốc độ tăng của nhập khẩu. Hầu hết các mặt hàng đều có sự tăng trưởng, tuy nhiên,
một số mặt hàng chủ lực (gạo,dầu thô, cao su ) lại có tốc độ tăng chậm, hoặc thậm chí
giảm, chẳng hạn như lúa gạo, cà phê, nông sản, dầu thô Đây cũng là một phần lí do dẫn
đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam trong những quý đầu năm 2010.
Nói về nhập khẩu, sở dĩ lại liên tục tăng gây ra tình trạng nhập siêu của nước ta từ trước
đến nay là vì:
_ Về sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu các doanh nghiệp
vẫn còn quá đơn lẻ, thiếu tính gắn kết giữa các doanh nghiệp, gắn kết ngành. Một khi nhu
cầu của ngành nào không được đáp ứng bằng nguồn nguyênliệu đầu vào trong nước, tất
yếu sẽ phát sinh nhu cầu nhập khẩu. Cái vòng quay nhu cầu nhập khẩu chắc chắn gia tăng.
Mỗi năm, phần lớn nguyên, nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, máy móc
thiết bị (thường chiếm trên 80%) đều phải nhập khẩu. Ngay đến mặt hàng thế mạnh xuất
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
3
khẩu của Việt Nam là dệt may, để xuất khẩu được khoảng 3 tỷ USD trong 4 tháng qua,
chúng ta phải nhập nguyên phụ liệu (bông, sợi dệt, vải, nguyên phụ liệu) khoảng 2,6 tỷ
USD.
_ Đóng góp đáng kể cho con số tăng trưởng về kim ngạch nhập khẩu là khu vực doanh
nghiệp vốn đầu tư nước ngoài (FDI)( có mức tăng 4 tháng đầu năm 2010 là 55,6% với
con số 10,2 tỷ USD). Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu (tăng 44%, đạt giá trị 9,5 tỷ USD)
thấp hơn so với nhập khẩu của khu vực FDI là nguyên nhân khiến nhập siêu từ khối doanh
nghiệp này 4 tháng qua là 700 triệu USD. Từ nhiều năm trở lại đây, kim ngạch nhập khẩu
của khối doanh nghiệp FDI thường chiếm trên 30% so với kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của khối này khoảng 6 năm gần đây trung bình trên
25%/năm (ngoại trừ năm 2009 giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới). Nguyên nhân của tình trạng này do Việt Nam là nước có trình độ kỹ thuật kém phát
triển, sản xuất trong nước phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị nên việc nhập khẩu
hàng năm của doanh nghiệp, nhất là ở khu vực FDI đều tăng mạnh. Bên cạnh đó, các nhà
đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam thường lấy mục tiêu tiêu thụ sản phẩm sản xuất tại
Việt Nam, sau đó mới tính đến xuất khẩu, do đó hiệu quả kinh tế đem lại cho Việt Nam từ

hoạt động xuất, nhập khẩu của doanh nghiệp FDI là không cao.
Ngoài hai nguyên nhân chính là từ xuất khẩu và nhập khẩu gây nên tình trạng nhập siêu
liện tục của nước ta trong thời gian qua thì những vấn đề “nhũng nhiễu” từ hải quan cũng
góp phần không nhỏ gây ra tình trạng nhập siêu này.Những nguyên nhân này sẽ được phân
tích kĩ ở phần sau .
 '()*"+
2.1 Về xuất khẩu
2.1.1 Xuất khẩu nông sản
2.1.1.1 Xuất khẩu gạo
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
4
Gạo vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm góp phần không nhỏ vào
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2010 được dự báo là “ năm vàng” của lúa
gạo xuất khẩu khi có rất nhiều những điều kiện thuận lợi từ bên ngoài . Tình hình sản xuất
lúa gạo trên thế giới gặp nhiều khó khăn, thiên tai và dịch bệnh xảy ra thường xuyên tác
động rất lớn đến sản lượng lúa gạo của các nước như Thái Lan, Philippin, Indonesia, ngay
cả Ấn Độ, thị trường cung cấp lúa gạo thuộc tốp đầu của thế giới nhưng được dự báo cũng
sẽ phải nhập gạo trong năm 2010. Thêm vào đó, kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn
phục hồi, nên nhu cầu về gạo có thể sẽ tăng.
Nhưng trên thực tế, ước tính lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo tháng 7 đạt 650 nghìn
tấn và 282 triệu USD. Ước tính trong 7 tháng năm 2010, lượng gạo xuất khẩu đạt 4,107
triệu tấn, giảm 2,5% với mức kim ngạch đạt 2,012 tỷ USD, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm
2009.
Hai quý đầu năm 2010, Philippin tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu gạo của
nước ta đạt 1,28 triệu tấn. Ăngola: 103 nghìn tấn, tăng 45,1%; Ghana: 76,8 nghìn tấn, tăng
gần gấp 2 lần; Hồng Kông đạt 71 nghìn tấn, tăng gấp 2,5 lần; Trung Quốc: 64,7 nghìn tấn,
tăng gấp 34 lần so với cùng kỳ năm trước.
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục sụt giảm từ đầu năm 2010. Nếu như giá gạo
loại 5% tấm tại thời điểm tháng 12/2009 là 517 USD thì đến tháng 5 đã giảm xuống còn
358 USD/tấn (giảm 30,75%); giá gạo loại 25% tấm tại thời điểm tháng 12/2009 là 466

USD đã giảm xuống còn 335 USD/tấn tại thời điểm tháng 5 (giảm 28,11%). Giá gạo trong
tháng 6 tuy có nhích lên đôi chút, song vẫn thấp hơn rất nhiều so với thời điểm đầu năm
(gạo 5% tấm: 373 USD/tấn; gạo 25% tấm 340 USD/tấn).
Một số nguyên nhân khiến kim ngạch xuất khẩu mặt gạo, được xem là mặt hàng chủ lực
của nước ta vẫn còn khá “khiêm tốn”.
• Trong quý 2, do đồng Euro sụt giảm mạnh đã làm giá hàng hóa nhập khẩu tăng cao,
dẫn tới sức mua gạo bị hạn chế.
• Tại các nước Châu Phi ( thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam):lượng gạo tồn kho
vẫn khá lớn đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu gạo tại khu vực này.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
5
• Hợp đồng Chính phủ đang gặp khó khăn do phía đối tác trì hoãn giao nhận hàng và
tạm ngừng triển khai đấu thầu, đặc biệt là trong hợp đồng xuất khẩu gạo sang Philippin từ
quý I.
• Hợp đồng thương mại cũng khó tìm được, nhất là từ châu Phi _thị trường tiềm năng
của Việt Nam.Sở dĩ như vậy là do năm nay ngoài đối thủ cạnh tranh truyền thống về gạo
chất lượng cao là Thái Lan , các doanh nghiệp từ Bangladesh, Myanmar cũng đang gây
khó khăn cho gạo cấp thấp của Việt Nam khi đưa ra giá thấp hơn so với giá của doanh
nghiệp xuất khẩu gạo nước ta. Thương nhân của các nước này chào bán gạo xuất khẩu chỉ
320-330 USD/tấn, mức giá này thậm chí thấp hơn giá thành sản xuất của doanh nghiệp
Việt Nam.
• Các nhận định về thị trường gạo thế giới hồi đầu năm đều có sai số lớn, nhất là nhận
định Ấn Độ - nước sản xuất và tiêu thụ gạo lớn thứ hai thế giới - sẽ sụt giảm sản lượng 16
triệu tấn vì hạn hán trong năm 2009. Điều này dẫn đến sự tích trữ và tồn đọng một lượng
gạo khá lớn ở không chỉ Việt Nam mà cả Thái Lan. Trong khi mới đây, Tổ chức Lương
thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) thậm chí còn dự báo sản lượng gạo của Ấn
Độ sẽ tăng 15% lên mức 151 triệu tấn trong năm nay.
• Rất nhiều môi giới, trung gian đang trả giá gạo của Việt Nam với mức 320-350
USD/tấn đối với gạo 3% (loại gạo có phẩm chất cao của Việt Nam ) với mục đích chính là
thăm dò.

Trong bài báo “Trung Quốc đang “vét” gạo Việt Nam” đăng trên báo Thanh Niên ngày
7/8 vừa qua, cho thấy giá gạo xuất khẩu đang tăng với tốc độ khá nhanh.Không chỉ tăng
giá, nhu cầu gạo thế giới đang có dấu hiệu sôi động trở lại. Ngoài Trung Quốc đang thể
hiện rõ sự thiếu hụt lương thực, nhiều nước khác ở khu vực châu Phi, Trung Đông cũng
bắt đầu đẩy mạnh nhập gạo. Nguyên nhân là do giá nhiều mặt hàng nông sản hiện nay
đang có dấu hiệu tăng mạnh, nhất là lúa mì đã tăng 70-80 USD/tấn. Nếu so sánh lúa mì
với gạo, thì trong các tháng tới, các nước nghèo như châu Phi sẽ chuyển sang mua gạo để
tiết kiệm hơn.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
6
Tuy nhiên, hiện nay một số nông dân ở các tỉnh ĐBSCL đang “nhìn” gạo tăng giá, mà
không còn gạo lưu trữ để bán. Như vậy, có nguy cơ từ nay đến cuối năm, xuất khẩu gạo
của VN sẽ gặp khó khăn, do không đủ lượng gạo để bán. Điều kiện xuất khẩu thuận lợi,
nhu cầu tăng, giá tăng mà lượng gạo trong nước không đủ để đáp ứng.
2.1.1.2 Xuất khẩu Café
Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy quý I/2010, cả nước mới xuất khẩu được
khoảng 345.000 tấn cà phê với kim ngạch khoảng 483 triệu USD3giảm tới 22,3% về
lượng và giảm 27,8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009; trong đó, phần trị giá giảm
do lượng giảm là 147 triệu USD và phần trị giá giảm do giá giảm là 39 triệu USD.Đơn
giá xuất khẩu bình quân cũng giảm 7,4% xuốngchỉ còn 1.398 USD/tấn, đưa cà phê trở
thành mặt hàng duy nhất trong các nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu có đơn giá xuất
khẩu bình quân giảm so với cùng kỳ năm 2009. Như vậy có thể nói rằng năm 2010 vẫn
thực sự là một năm khó khăn cho ngành cà phê Việt Nam.
Cà phê xuất khẩu tháng 7 ước đạt 95 ngàn tấn với trị giá 140 triệu USD, nâng tổng sản
lượng xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2010 đạt 754 ngàn tấn với tổng giá trị 1,06 tỷ
USD, giảm 4,3% về lượng và tới 9,22% về giá trị, theo tổng hợp của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.

C"DEFG H+H"1IJK+ !"#$%""ELMNN:6
/&ONN

Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
7
Nguyên nhân chính giảm lượng cà phê:
• Vào quý I, tại các địa phương trồng cà phê trọng điểm tại khu vực Tây Nguyên, vụ
trồng cà phê gặp vấn đề khô hạn trầm trọng, nhiều hecta cà phê thiếu nước tưới và chết
hạn. Vì vậy, sản lượng cà phê sụt giảm trong năm 2010 là điều có thể xảy ra.
• Thêm vào đó, nếu giá vật tư đầu vào tiếp tục tăng cao trong khi giá bán cà phê ở mức
thấp như đã diễn ra trong năm 2009, sẽ tạo ra tâm lý cắt giảm đầu tư cho cây trồng của
người nông dân (giảm lượng phân bón, số lần tưới nước, không trồng mới cà phê già
cỗi…). Chất lượng và sản lượng cà phê của cả nước trong năm 2010 này do đó khó có thể
tăng như dự kiến, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu cà phê.
P"/QR
Trong quý I/2010, cà phê là mặt hàng duy nhất trong các nhóm hàng nông sản xuất
khẩu chủ yếu có đơn giá xuất khẩu bình quân giảm so với cùng kỳ năm 2009
Trong khi hầu hết giá xuất khẩu bình quân của các nhóm hàng nông sản quý I/2010 đều
tăng thì chỉ có riêng giá xuất khẩu bình quân mặt hàng cà phê lại giảm tới 7,4% so với
cùng kỳ năm 2009, tương ứng giảm 113 USD/tấn.
Đặc biệt giá bình quân xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 3 năm 2010 chỉ đạt
trung bình khoảng 1370 USD/tấn, đây là mức thấp nhất kể từ tháng 11 năm 2006
Quý I/2010, giá cà phê robusta trên thị trường thế giới liên tục xuống thấp kỷ lục đẩy
người nông dân tại các nước xuất khẩu cà phê rơi vào tình cảnh khó khăn.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
8
C"D  EFG  H  +  H"  1IJ3  ES  "/ K  TU  "/  K  +       
!"#$%RL2TL""ELMNN:V2=ONN
$W+(K+TX"/G
• Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam luôn bị các nhà đầu cơ quốc tế thao túng,
ép giá xuống.Trong khi cà phê rớt giá, thì giá cả của các nguyên, vật liệu đầu vào như
xăng dầu, phân bón, …phục vụ sản xuất cà phê lại tăng khiến người trồng cà phê càng
điêu đứng.

• Hơn nữa, sở dĩ giá cà phê robusta trong quý I/2010 trên thị trường thế giới giảm mạnh
vì đây là thời điểm thu hoạch chính vụ của cà phê robusta. Nguồn cung ra thị trường quá
lớn trong một thời gian ngắn tạo cơ hội cho các nhà đầu cơ ép giá xuống
• Bên cạnh yếu tố cung - cầu, diễn biến tăng giảm của đồng USD cũng sẽ gây ảnh
hưởng lớn tới thị trường cà phê thế giới. Vào thời điểm cuối tháng 3/2010, cuộc khủng
hoảng nợ công tại các nước thuộc khu vực đồng euro mà điển hình là tại Hy Lạp, Bồ Đào
Nha đã khiến đồng USD tăng giá mạnh mẽ so với đồng euro. Hậu quả là các nhà đầu cơ
đã ồ ạt bán tháo, đẩy giá cà phê xuống mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
UTIY"+4K+G
Đức là thị trường dẫn đầu về lượng và trị giá nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 4
tháng đầu năm 2010, đạt 63,26 nghìn tấn với trị giá 88,52 triệu USD chiếm 13,75 tổng trị
giá xuất khẩu cà phê, tăng 4,74% về lượng nhưng lại giảm 3,54% về trị giá so với cùng kỳ
năm trước.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
9
Thứ hai là Hoa Kỳ đạt 53,62 nghìn tấn với trị giá 80,64 triệu USD giảm 5,15% về lượng
và giảm 6,65% về trị giá;
Indonesia là nước đứng thứ 10 về kim ngạch nhập khẩu cà phê Việt Nam trong 4 tháng
nhưng có tốc độ tăng trưởng vượt bậc cả về lượng và trị giá so với 4 tháng năm 2009 đạt
9,99 nghìn tấn với kim ngạch 13,94 triệu USD tăng +655,75% về lượng và tăng +584,87%
về trị giá.
Tiếp đến là Ấn Độ đạt 9,13 nghìn tấn với trị giá 12,09 triệu USD tăng +128,24% về
lượng và tăng +114,98% về trị giá.
Trong 4 tháng đầu năm 2010 một số thị trường có độ suy giảm mạnh cả về lượng và trị
giá nhập khẩu cà phê của Việt Nam so với 4 tháng năm 2009 như: Bỉ giảm -81,15% về
lượng ở mức 18,76 nghìn tấn và giảm -81,99% về trị giá ở mức 26 triệu USD; Hà Lan
giảm 59,66% về lượng đạt 9,53 nghìn tấn, giảm 60,49% về trị giá đạt 13,44 triệu USD;
Pháp giảm -71,81% về lượng và giảm -74,11% về trị giá.
Hiện nay, Cà phê Việt Nam đứng thứ hai thế giới về lượng xuất khẩu và đang có mặt ở
tất cả các châu lục. Việt Nam còn là thành viên quan trọng của Tổ chức Cà phê thế giới

(ICO), nhưng lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là ở dạng nguyên liệu, chưa
qua chế biến sâu. Vì vậy, mà người tiêu dùng trên thế giới vẫn chưa biết nhiều đến sản
phẩm cà phê qua chế biến của Việt Nam.
2.1.2 Xuất khẩu thủy sản
Trong giai đoạn 2006-2008, tốc độ tăng xuất khẩu hàng thuỷ sản đạt trung bình
19%/năm. Sau mức giảm 5,5% của năm 2009, xuất khẩu thuỷ sản trong 7 tháng đầu năm
2010 ước đạt 2,442 tỷ USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2009.
H  +  "%  M       W  *0     !"#$% ""  ELM  NN,V-
/ONN
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
10
Mặc dù trở thành nước xuất khẩu thủy sản nhiều năm nhưng các mặt hàng thuỷ sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn còn khá đơn điệu, chủ yếu là cá, tôm, nhuyễn thể, các loại
thuỷ sản đông lạnh và thuỷ sản khô. Công nghệ chế biến của ngành thủy sản Việt Nam vẫn
chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của thế giới.
SK W*0 !"#$%TL-/EZ[%NN
Tính đến 7 tháng đầu năm
2010, EU vẫn là khối thị trường dẫn đầu về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam, chiếm 25%
tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản, với giá trị trên 512 triệu USD. Nhật Bản đứng vị trí
thứ hai, chiếm 18%, đạt 371,6 triệu USD, với mức tăng trưởng 34,4% về lượng và 22,39%
về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Mỹ đứng thứ 3 với 17,1%.
Trong xu hướng tăng trưởng chung của xuất khẩu thủy sản như vậy, có thể nhận thấy
rằng chỉ có mặt hàng tôm (tôm đông lạnh và chế biến) là có đóng góp đáng kể khi giữ vị
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
11
trí hàng đầu trong tổng giá trị đóng góp từ xuất khẩu thủy sản. Cụ thể mặt hàng này mang
về 716,9 triệu USD (chiếm 35,45% giá trịxuất khẩu thuỷ sản), tăng 22,01%.
Tiếp theo sau mặt hàng tôm là mặt hàng cá tra với sản lượng xuất khẩu đạt 306,4 ngàn
tấn với kim ngạch 656,07 triệu USD, tăng 14,33% về lượng và 7,63% giá trị.
Kim ngạch xuất khẩu do mặt hàng này mang lại vẫn chưa cao, chúng ta đang đối mặt

với những khó khăn nhất định.
o '0""W+1"#\IXLK"
Nếu chỉ nhìn vào những con số tăng trưởng tích cực, ít ai có thể thấy rằng sự tăng
trưởng của mặt hàng cá tra là do thu nhập từ việc giải phóng lượng hàng tồn của các doanh
nghiệp. Hàng được bán với giá thấp hơn giá thành. Vì vậy, dù lượng hàng tồn có giảm
nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa chỉ thu về được mức lợi nhuận ít ỏi.
Ngay từ quý 1 năm 2010, hàng loạt doanh nghiệp xuất khẩu tôm, cá tra kêu thiếu
nguyên liệu nên chỉ duy trì công suất nhà máy 30 – 60%. Thực tế, nhiều tỉnh thống kê diện
tích nuôi cá tra giảm tới 60% do người nuôi thua lỗ vì giá cá xoay quanh 15.500 – 16.000
đồng/kg, thấp hơn giá thành. Những doanh nghiệp lớn như Hùng Vương, Vĩnh Hoàn, Nam
Việt, Agifish, Minh Phú… buộc phải bỏ vốn đầu tư vào vùng nuôi nhằm tìm kiếm thêm
nguồn nguyên liệu, số khác thì cầu viện vào nhập khẩu. Bộ Công thương thống kê, sáu
tháng, doanh nghiệp nhập 178 triệu USD nguyên liệu, tăng 8,8% so với cùng kỳ.
Từ thực tế đó cho thấy, bên cạnh những con số tích cực mà xuất khẩu thủy sản mang
lại, tình trạng nhập khẩu quá nhiều các nguyên liệu liên quan cũng là một vấn đề cần cân
nhắc. Bởi lẽ một khi quá phụ thuộc vào lượng nguyên liệu nhập khẩu, các doanh nghiệp
thủy sản Việt Nam sẽ phải chia sẻ một phần lợi nhuận vốn đã ít ỏi của mình cho phía nước
ngoài. Vì vậy, vấn đề cấp bách trước mắt để giúp gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản là cần hạn chế việc nhập khẩu các nguyên liệu từ nước ngoài.
o 7][^LWEU=_
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
12
Một số doanh nghiệp xuất khẩu nhuyễn thể như nghêu vào thị trường châu Âu cũng
đang bị ngưng trệ do nhà nhập khẩu yêu cầu giấy chứng nhận với nghêu nuôi và khai thác
bằng tay của Việt Nam. Ngay cả đối với giấy chứng nhận, do chưa có sự thống nhất của
các nước trong cộng đồng châu Âu nên mỗi nơi một kiểu; một số nước như Pháp yêu cầu
sử dụng tiếng Pháp trong giấy chứng nhận khi xuất vào thị trường này. Theo quy định,
giấy chứng nhận (C/C) phải là bản gốc gửi kèm theo lô hàng khi đến cảng. Tuy nhiên, do
các doanh nghiệp chia hàng từ một giấy chứng nhận để xuất cho nhiều nhà nhập khẩu nên
không thể có C/C gốc. Điều này đã làm một số lô hàng và doanh nghiệp gặp khó khăn khi

xuất khẩu.
Việc ghi nhật ký khai thác thủy sản đã được triển khai cùng với công tác cấp chứng
nhận thủy sản khai thác. “Nhưng đến nay do ý thức, thói quen của bà con ngư dân nên việc
thực hiện vẫn chưa tốt, cũng đã ảnh hưởng đến việc chứng nhận thủy sản khai thác cho
doanh nghiệp”
việc ghi nhật ký khai thác mới được tổ chức thực hiện nên ngư dân chưa hình thành
được thói quen này. Đại diện các Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản của các
tỉnh thành phía Nam cũng thừa nhận, những cơ quan này đang thiếu hụt nghiêm trọng
nguồn nhân lực để thực hiện việc chứng nhận thủy sản khai thác. Một số doanh nghiệp
mua sản phẩm qua nhiều nậu vựa, từ các tàu đã bị xóa đăng ký và giấy phép khai thác đã
hết hạn, nên không xin được chứng nhận thủy sản khai thác gây khó khăn cho các cơ quan
thẩm quyền.
Việc chứng nhận thủy sản khai thác theo quy định của Ủy ban châu Âu hiện vẫn chưa
có được sự thống nhất về nhận thức giữa các nước thành viên của cộng đồng châu Âu
cũng như giữa châu Âu với các nước thứ ba
o 7][^L`WEU/
Ở thị trường Nga, nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với những khó khăn mới. Các
nhà nhập khẩu ở Nga đang áp dụng chính sách giảm tỷ lệ mạ băng (lớp đá lạnh dùng để
ướp cá) trong thủy sản nhập khẩu từ 20% xuống còn 10%. Do trọng lượng giảm, doanh
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
13
nghiệp buộc phải tăng giá bán sản phẩm nhưng không được những nhà nhập khẩu chấp
nhận. “Với tỷ lệ mạ băng như cũ, giá bán sản phẩm cá tra tại Nga trung bình là 1,65 đô la
Mỹ/tấn, nếu bỏ mạ băng đi bắt buộc phải bán giá 2,05 đô la/kg, chúng tôi mới có lời.
Nhưng các đối tác yêu cầu giữ nguyên giá cũ”, giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu sang
Nga than thở.
Đối với thị trường Nhật, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang tạm dừng xuất khẩu do
mức thuế quá cao. Theo Vasep, xuất khẩu cá ngừ sang Nhật Bản của các nước láng giềng
đã được hưởng mức thuế suất ưu đãi khiến sản phẩm của ta bị cạnh tranh mạnh hơn. Kể từ
tháng 4/2010, Thái Lan đã được hưởng mức thuế suất ưu đãi là 3,2%, tiếp đó giảm xuống

còn 1,6% kể từ tháng 4/2011; giảm xuống còn 0% từ tháng 4/2012. Mức thuế tương tự
được giảm theo lộ trình đối với Philippines là 3,6% giảm xuống còn 2,4% từ tháng 4/2011
ở mức 0% từ tháng 4/2013. Trong khi đó, doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ Việt Nam vẫn
đang phải chịu mức thuế cao hơn 40% so với các nước này, tương đương 7,2% sang thị
trường Nhật
2.1.3 Xuất khẩu dầu thô
Theo số liệu thống kê, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam tháng 7/2010 đạt 560 nghìn tấn
với kim ngạch 325 triệu USD. Tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam 7 tháng đầu
năm 2010 đạt 4,966 triệu tấn với kim ngạch 3,004 tỉ USD, giảm 44,8% về lượng và giảm
18,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2009
Trong đó, tính trong 6 tháng đầu năm 2010, chỉ có duy nhất 2 thị trường có tốc độ tăng
trưởng về kim ngạch: Ôxtrâylia và Trung Quốc đạt 341 nghìn tấn với kim ngạch 210 triệu
USD, giảm 35,3% về lượng nhưng tăng 11,5% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 7,9% trong
tổng kim ngạch.
Ngược lại, những thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010 có
tốc độ suy giảm mạnh cả về lượng và trị giá là: Thái Lan đạt 86 nghìn tấn với kim ngạch
52 triệu USD, giảm 81,1% về lượng và giảm 71,1% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 2%
trong tổng kim ngạch; tiếp theo đó là Nhật Bản đạt 169 nghìn tấn với kim ngạch 102,7
triệu USD, giảm 66% về lượng và giảm 45,7% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 3,8% trong
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
14
tổng kim ngạch; Indonesia đạt 104 nghìn tấn với kim ngạch 60,6 triệu USD, giảm 55,2%
về lượng và giảm 40,3% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 2,3% trong tổng kim ngạch; sau
cùng là Malaysia đạt 485 nghìn tấn với kim ngạch 299 triệu USD, giảm 59,6% về lượng
và giảm 31,7% về trị giá so với cùng kỳ, chiếm 11,2% trong tổng kim ngạch.
Trong kim ngạch xuất khẩu hiện nay, các mặt hàng nhiên liệu và năng lượng gồm dầu
thô chiếm tỷ trọng không nhỏ, như vậy việc giảm kim ngạch xuất khẩu ở mặt hàng dầu thô
là một vấn đề ảnh hưởng khá lớn đến cán cân thanh toán của nước ta. Nguyên nhân của
tình trạng giảm đó là do phải dành cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất, phần nữa là do việc
giá dầu thô giảm mạnh cũng góp phần ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu của mặt hàng này.

Ông Trụ nhận định, khi mấy năm tới ta có thêm vài nhà máy lọc dầu nữa thì dầu thô sẽ
không còn đóng vai trò lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nữa.
Tuy sản lượng dầu thô xuất khẩu giảm như vậy, nhưng thật ra có khi đây lại là một điều
đáng mừng, vì dầu thô là nguyên liệu cần thiết khi đó chính là nguồn gốc của xăng dầu các
loại phục vụ cho tiêu dùng và sản xuất, và giá dầu thô thực sự cũng rẻ hơn rất nhiều so với
xăng dầu đã chế biến các loại. Và việc chúng ta hình thành được các khu công nghiệp lọc
dầu cũng cho ta thấy được rằng công nghệ chúng ta đang tiến bộ. Khi ta giảm một lượng
dầu thô xuất khẩu như thế chúng ta có thể cung cấp cho các ngành khác lượng nguyên liệu
cần thiết cho sản xuất, việc này cũng đồng nghĩa với việc chúng ta giảm bớt được gánh
nặng nhập siêu ở các ngành nguyên phụ liệu sản xuất cũng như tiêu dùng.
2.2 Về nhập khẩu
2.2.1 Nhập khẩu nguyên - phụ liệu phục vụ sản xuất
2.2.1.1 Nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
15
Nhập khẩu nguyên liệu dệt may tăng mạnh như những tháng đầu năm 2010. Số liệu tạm
tính từ Bộ Công thương cho thấy, đến thời điểm tháng 7/2010, ngành dệt may đã chi hơn 5
tỷ USD để nhập khẩu nguyên liệu và phụ liệu phục vụ sản xuất, trong đó, vải nhập khẩu
lên tới 2,8 tỷ USD, tăng hơn 27%; nhập khẩu bông trên 350 triệu USD, tăng 75%, nhập
khẩu nguyên phụ liệu (tính cả da giày) trên 1,4 tỷ USD so với cùng kỳ năm ngoái
Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu của ngành dệt may tăng vọt xuất phát từ nhiều
nguyên nhân được cho là hợp lý. Trước hết, ngành này cần đẩy mạnh nhập khẩu để đáp
ứng nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu tăng mạnh từ đầu năm, do hầu hết doanh nghiệp đã
ký được đơn hàng xuất khẩu. Khoảng 70% nguyên phụ liệu cho ngành sản xuất dệt may
của Việt Nam vẫn dựa vào nhập khẩu. Lượng sản xuất tăng lên, buộc phải nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất.
Thứ hai, từ đầu năm 2010, giá các loại nguyên liệu biến động mạnh. Theo phản ánh của
nhiều doanh nghiệp, bông là nguyên liệu có mức tăng giá cao nhất trong 7 tháng qua (tăng
trên 40%), tiếp đến là sợi (tăng 30%) Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may
Việt Nam (Vitas) cho rằng, với mặt bằng giá nguyên liệu tăng nhanh, để đảm bảo mức

tăng xuất khẩu 15-17%, trong những tháng qua, các doanh nghiệp phải tăng tốc nhập khẩu
bông, vải, sợi để dự trữ, chủ động thực hiện các đơn hàng đã ký và sắp ký. Trong thời gian
tới, việc nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may sẽ không tăng cao như những tháng
qua do nhiều doanh nghiệp đã nhập đủ bông, vải… để dùng đến hết năm.
Các thị trường cung cấp chính cho Việt Nam trong năm qua là:
Thị
trường
Tổng
giá
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
16
trị
Trung
Quốc
1,4
tỷ
USD
Đài
Loan
844
triệu
USD
Hàn
Quốc
797
triệu
USD
Hồng
Kông
250

triệu
USD
2.2.1.2 Chất dẻo
Ngành nhựa vẫn đang phát triển tốt, nhu cầu nguyên liệu cao cấp cho sản xuất. Nhập
khẩu các mặt hàng chất dẻo vào nước ta liên tục tăng
Trong tháng 6/2010 nhập khẩu hơn 198 nghìn tấn, giảm nhẹ 2,9% so với tháng trước và
đạt trị giá là 320 triệu USD. Hết tháng 6/2010, tổng lượng chất dẻo nguyên liệu nhập khẩu
của cả nước là 1,1 triệu tấn, kim ngạch là 1,73 tỷ USD, tăng 7,9% về lượng và 47,7% về
trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Trên thực tế, lượng chất dẻo nguyên liệu nhập khẩu chỉ là tăng nhẹ, nguyên nhân chủ
yếu của việc giá trị nhập khẩu tăng vọt đến 47,7% như vậy là do giá nhập khẩu chất dẻo
nguyên liệu tăng mạnh do thị trường thế giới phục hồi, nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu cho
sản xuất tăng trở lại cùng với giá dầu tăng. Điều này cũng là một điểm báo động đáng chú
ý cho ngành chất dẻo cũng như ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam, nếu chúng ta
không cố gắng hơn nữa về mặt công nghệ, hóa chất, sinh học, rất có nguy cơ chúng ta
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
17
không chạy theo kịp sự phục hồi của nền kinh tế thế giới, khi mà chúng ta cứ phải lệ thuộc
quá nhiều vào nguồn nguyên liệu ngoài nước như vậy.
Tính đến hết 6 tháng/2010, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu
có xuất xứ từ: Hàn quốc : 204 nghìn tấn, tăng 4% so với cùng kỳ 2009; A rập Xêút: 174
nghìn tấn, tăng 45%; Đài Loan: 170 nghìn tấn, tăng 9%; Thái Lan: 116nghìn tấn, giảm
18,3%…
2.2.2 Nhập khẩu xăng dầu
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 7 ước đạt
900 triệu tấn, với trị giá khoảng 550 triệu USD; tính cả 7 tháng đầu năm 2010, ước đạt
6.154 triệu tấn, trị giá khoảng 3.822 triệu USD, giảm 21,9% về lượng so với cùng kỳ năm
ngoái và đạt xấp xỉ 53,1% kế hoạch năm 2010.
Nhập khẩu xăng dầu các loại của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2010 giảm về lượng nhưng
tăng về trị giá Tháng 4/2010, giá nhập khẩu tiếp tục tăng 5,6% so với tháng 3/2010 và

tăng 57,8% so với cùng kỳ năm 2009. Nhưng đến tháng 6/ 2010 thì giá cả xăng dầu có xu
hướng ổn định và bình ổn đến cuối năm.
Xăng dầu là một mặt hàng quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện trữ lượng dầu
khí của Việt Nam thuộc vào loại trung bình của thế giới nhưng chúng ta đã có tên trong
bản đồ các nước sản xuất và xuất khẩu dầu khí thế giới. Còn trong khu vực ASEAN3
chúng ta xếp hàng thứ 3. Hàng năm khai thác hơn 10 triệu tấn dầu thô, và do công nghệ
lọc dầu của VN vẫn còn nhiều hạn chế. Chúng ta chủ yếu xuất khẩu dầu thô, và nhập xăng
dầu về phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng
này khá lớn, góp phần đẩy cán cân thương mại nghiên về phía nhập.
Nhập khẩu xăng dầu với giá cao, nhưng nhà nước còn có chính sách cắt giảm thuế với
mặt hàng này nhằm góp phần hổ trợ doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu trong nước.
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được nhà máy lọc dầu Dung Quốc có công suất 6,5
triệu tấn/năm, đáp ứng khoảng 30% nhu cầu sử dụng xăng dầu trong nước. Việc nâng cấp,
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
18
mở rộng của nhà máy sẽ góp phần gia tăng lượng cung các sản phẩm xăng dầu phục vụ
nhu cầu sử dụng trong cả nước những năm tới.
Từ đầu tháng 8-2010, người tiêu dùng sẽ có thêm lựa chọn mới khi thị trường xuất hiện
loại xăng pha cồn E5 do Tổng công ty Dầu (PV Oil) tung ra. Chuẩn bị cho chiến lược tung
ra thị trường sản phẩm xăng E5, PV Oil đã triển khai xây dựng ba nhà máy sản xuất
ethanol (cồn) với công suất mỗi nhà máy 100 triệu lít/năm.
2.2.3 Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng 7, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là
1,15 tỷ USD, Nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 7 tháng năm 2010 lên 7,356 tỷ USD, tăng
14% so với cùng kỳ 2009.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam trong 7
tháng qua có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với khoảng 2,1 tỷ USD, tăng 16,5%; Nhật
Bản: 1,18 tỷ USD, tăng 13%; Hàn Quốc: 418 triệu USD; tăng 8,4%; Đức: 381 triệu USD,
tăng 33,2%;…
Kể từ khi quan hệ hợp tác thương mại nội khối ASEAN+3 bắt đầu được triển khai từ

năm 2000 đến nay, các doanh nghiệp Trung Quốc đã đặc biệt quan tâm khai thác thị
trường nước ta.
Theo thống kê, kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các loại máy móc, nguyên liệu phục
vụ sản xuất đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Trong số các ngành công nghiệp, khối
công nghiệp nặng với các ngành như hóa chất, đóng tàu, cơ khí gặp nhiều khó khăn trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, nhất là những tháng đầu năm. Chính vì thế nhập khẩu máy
móc, phụ tùng sản xuất để phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu giảm. Trong khi đó nhập
khẩu máy móc, phụ tùng khối ngành công nghiệp nhẹ đạt kim ngạch nhập khẩu cao. Đóng
góp vào tổng kim ngạch này là 12 ngành khác nhau như điện tử, điện lạnh, nhựa, cao su,
dệt may, giấy, thực phẩm… Cũng trong số các ngành công nghiệp nhẹ thì máy móc, phụ
tùng ngành nhựa, cao su tiếp tục có kim ngạch nhập khẩu cao nhất, mà lý do chính là thị
trường xuất khẩu tốt. Theo các chuyên gia, do giá cao su thế giới tăng cao, trong khi
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
19
nguồn nguyên liệu khan hiếm đã đẩy nhu cầu nhập khẩu máy móc, phụ tùng sản xuất cho
ngành tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Ngoài ra phải kể đến lĩnh vực dệt
may,với số lượng đơn hàng tăng lên, rất có thể trong thời gian tới, các doanh nghiệp dệt
may trong nước sẽ tăng cường nhập khẩu máy móc, thiết bị cho ngành.
Nhập siêu triền miên nhưng lại phân bổ không đều cho các thị trường. Nhập siêu chỉ
dồn vào mấy thị trường ở châu Á, đặc biệt là nước láng giềng Trung Quốc, chiếm chủ yếu
trong tổng số nhập siêu của cả nước. Hậu quả là không nhập khẩu được công nghệ nguồn,
kỹ nghệ mới mà chỉ là công nghệ sao chép, lạc hậu.
Một trong các nguyên nhân là trong mấy năm qua, các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu
ở hàng loạt dự án lớn như dự án khai thác, luyện đồng Sin Quyền (Lào Cai), nhà máy nhiệt
điện Hải Phòng… và có thể khẳng định, hiện tại Trung Quốc là nước có số lượng nhà thầu
và số dự án trúng thầu nhiều nhất tại Việt Nam. Thực tế cho thấy, các nhà thầu Trung
Quốc mang theo hầu như tất cả những gì họ có (từ Trung Quốc) để phục vụ công trình, từ
máy móc, công nghệ đến nguyên, vật liệu (chưa kể công nhân)… vì vậy, trong giá trị nhập
siêu lớn từ Trung Quốc có phần đáng kể từ việc nhập khẩu cho các công trình, dự án mà
phía Trung Quốc trúng thầu.

Mặt khác việc thiếu các chính sách đầu tư thích đáng để sản xuất hàng cơ khí, máy móc,
thiết bị thay thế hàng nhập khẩu là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến nhập siêu
cao
2.2.4 Nhập khẩu máy tính, điện tử, linh kiện
Máy tính, điện tử, linh kiện: trong tháng 7, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 420 triệu
USD, Nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 7 tháng năm 2010 lên 2,585 tỷ USD, tăng 32,4% so
với cùng kỳ 2009.
Dù những quan điểm lạc quan cho rằng, nhập khẩu công nghệ, thiết bị là nhắm tới kỳ
vọng nâng cao giá trị gia tăng trong tương lai, thực tế cho thấy, nhập siêu từ nước láng
giềng đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhập siêu của Việt Nam, trong đó
phải kể đến hàng Trung Quốc giá rẻ.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
20
Theo Thông tư số 216/2009/TT-BTC ngày 12-11-2009, từ đầu năm 2010, thuế suất
nhiều mặt hàng linh kiện điện tử (dùng để lắp ráp máy tính trong nước) phải chịu thuế
nhập khẩu 3%, trong khi nếu nhập máy tính nguyên chiếc từ các nước ASEAN, được
hưởng thuế suất 0% và nhập từ các nước khác cũng chỉ chịu mức thuế suất 3%. Đó là một
bất hợp lý mà nhiều nhà sản xuất lắp ráp hàng điện tử trong nước kiến nghị vẫn chưa được
giải quyết.
Nhập nguyên chiếc thuế 0%, nhập linh kiện 3%
Hiện nay hầu hết các nhà sản xuất máy tính lớn đều có cơ sở sản xuất ở Trung Quốc và
với chính sách ưu đãi thuế suất 0%, họ sẽ dễ dàng có được giấy xuất xứ hàng hóa mẫu E
để nhập vào từ Trung Quốc và không phải đóng thuế.
Trong khi đó, DN lắp ráp máy tính trong nước phải nhập linh kiện với thuế suất đến
3%, khiến giá thành các mặt hàng lắp ráp trong nước tăng cao, không thể cạnh tranh về giá
của các mặt hàng nhập từ ASEAN, cũng như không cạnh tranh nổi với các mặt hàng
nguyên chiếc nhập khẩu từ các nước khác do tâm lý “sính ngoại” của người tiêu dùng.
2.2.5 Nhập khẩu sắt thép
Hiện nay ngành Thép Việt Nam vẫn nhập siêu. Tỷ lệ xuất khẩu không đáng kể so với
nhập khẩu. Sau sự tăng đột biến về xuất khẩu vào năm 2008 khi lượng thép xuất khẩu đạt

hơn 1,7 triệu tấn với kim ngạch hơn 1,7 tỷ USD (chủ yếu là tái xuất nguyên liệu phôi thép
và thép cán nóng) thì xuất khẩu thép của Việt Nam trong năm 2009 đã giảm sút đáng kể cả
về kim ngạch và số lượng.
Trong năm 2010, kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng cao so với
cùng kỳ năm trước, trong đó sắt thép đạt 3,3 tỷ USD, tăng 22,9%. Thị trường nhập khẩu
sắt thép chính của Việt Nam là Nhật Bản, Trung Quốc , Đài Loan, Hàn Quốc.
Theo thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam, năng lực sản xuất các sản phẩm trên đều
vượt xa nhu cầu trong nước. Nhưng do mới ở giai đoạn đầu của dự án nên các nhà máy
trong nước bị hạn chế do công suất máy và bị cạnh tranh gay gắt với sản phẩm thép nhập
khẩu (sản lượng phôi thép năm 2009 chỉ đạt khoảng 50% công suất, sản lượng thép xây
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
21
dựng chỉ đạt khoảng 67%). 3 tháng đầu năm 2010, đã có 57.000 tấn thép cuộn và 68.000
tấn thép mạ các loại được nhập về trong tổng số 1,7 triệu tấn thép thành phẩm nhập vào
Việt Nam.Điều này đã tạo sức ép rất lớn lên các doanh nghiệp khiến họ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất của nhà máy.
Một lí do lớn nữa là từ phía các nhà nhập khẩu, mỗi khi nguồn cung thép tăng thì lập
tức các nhà xuất khẩu tấn công thị trường Việt Nam bằng cách giảm giá thành xuống mức
hấp dẫn nhất để thu hút nhà nhập khẩu Việt Nam. Các doanh nghiệp nhập khẩu sau khi
nhập hàng ngoại về đầy kho, để tiêu thụ được hàng, giới buôn thép không ngần ngại hạ
thấp giá thành sản phẩm, vô hình trung đã đẩy thép nội vào bước đường cùng
Gía sắt thép phế tương đối cao, khi nhập về Việt Nam, cộng tất cả chi phí vận chuyển,
khấu hao máy móc, chi phí sản xuất ra phôi thép rất cao, doanh nghiệp trong nước không
thể cạnh tranh với phôi thép nhập khẩu giá rẻ hơn nên tình trạng nhập siêu lại tiếp tục.
Trong khi VN vẫn còn thả nổi việc nhập khẩu thép thì các nước trong khu vực lại rất
chặt chẽ trong việc kiểm soát nhập khẩu đối với mặt hàng này, đặc biệt là Indonesia,
Malaysia, cho nên việc xuất khẩu thép của ta lại càng khó khăn.
2.2.6 Nhập khẩu phân bón
Tính cả 7 tháng đầu năm 2010, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 1.601 nghìn tấn với
trị giá 505 triệu USD (trong đó phân urê ước đạt 403 nghìn tấn, trị giá 121 triệu USD),

giảm 35,3% so với cùng kỳ năm 2009 và đạt 44,5% kế hoạch năm 2010, theo báo cáo của
Bộ Kế hoạch và Đầu tưTrong tháng 7, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 200 nghìn tấn
với trị giá 68 triệu USD (trong đó phân urê là 40 nghìn tấn và trị giá 24 triệu USD), tăng
58,7% về lượng so với tháng 6/2010.
Giá phân bón các loại từ đầu năm đến nay hầu hết đều tăng, như urê tăng bình quân 20 -
25 USD/tấn, DAP tăng bình quân 90 - 120 USD/tấn, cao nhất là sulfur tăng 120 - 130
USD/tấn và amoniac 95 - 125 USD/tấn, chỉ có kali tăng nhẹ.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
22
Theo ước tính của Bộ NN&PTNT, tính chung 6 tháng đầu năm 2010, lượng phân bón
nhập khẩu các loại ước đạt 1,4 triệu tấn, trị giá 444 triệu USD, giảm 38% về kim ngạch và
37% về lượng so với cùng kỳ năm 2009.
Trong 2 quý đầu /2010, Việt Nam nhập khẩu phân bón chủ yếu có xuất xứ từ: Trung
Quốc: 532 nghìn tấn, giảm 26,8%; Nga: 197 nghìn tấn, giảm 26,8%; Nhật Bản: 117 nghìn
tấn, tăng 76%; Philippin: 80,4 nghìn tấn, giảm 58,3%;…
Theo ý kiến của ông Nguyễn Trí Ngọc - Cục trưởng Trồng trọt Việt Nam vẫn phải nhập
khẩu phân bón đến năm 2020, vẫn biết kim ngạch nhập khẩu phân bón cũng góp phần
không nhỏ vào tình trạng nhập siêu của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Theo Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn3nhu cầu phân bón các
loại của cả nước năm nay sẽ là khoảng 8,9 - 9,1 triệu tấn (tương đương năm 2009). Trong
khi, sản lượng phân bón sản xuất trong nước năm nay dự kiến đạt khoảng 5,6 triệu tấn.
Như vậy, để đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, Việt Nam cần nhập khẩu thêm khoảng 3,3
triệu tấn phân bón các loại (giảm 900 nghìn tấn so với năm 2009).
Trong khi các nước phát triển có chiều hướng giảm việc sử dụng phân bón thì tại các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, chiều hướng sử dụng phân bón lại tăng mạnh.
Theo ông Nguyễn Văn Bộ, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam: "Mỗi năm
Việt Nam sử dụng khoảng trên 2 triệu tấn phân urê, khoảng 600 nghìn tấn DAP và một
lượng gần tương đương như vậy với các loại phân bón khác. Tổng lượng phân bón các loại
sử dụng ở Việt Nam xấp xỉ 7,7 triệu tấn.
Theo ông Ngọc, mỗi năm sẽ phải nhập khoảng trên 500 nghìn tấn phân bón như: DAP,

lân, kali và việc nhập khẩu chỉ có khả năng chấm dứt vào năm 2020 khi các nhà máy trong
nước sản xuất đủ lượng phân bón theo nhu cầu của thị trường.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
23
2.2.7 Nhập khẩu ô tô
Lâu nay ôtô vẫn được coi là loại hàng hóa xa xỉ trong khi kim ngạch nhập khẩu thường
khá cao.
Tin từ Bộ Công Thương, trong năm 2010, Bộ này sẽ tiến hành áp dụng các hàng rào kỹ
thuật kết hợp với chính sách thuế nhằm hạn chế nhập siêu đối với một số mặt hàng, trong
đó có ôtô nguyên chiếc.
Theo số liêu tổng cục thống kê ngày 29/7/2010, Ước tính Ôtô nhập khẩu vào Việt Nam
trong 7 tháng đầu năm 2010 đạt 1,6 tỷ USD, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2009, trong
đó ôtô nguyên chiếc đạt 488 triệu USD, giảm 7,9%.
Trong đó, Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Hàn Quốc, Trung Quốc
Nhập khẩu ô tô của Việt Nam tăng chủ yếu là do thuế nhập khẩu ô tô giảm. Văn phòng
Bộ Tài chính ban hành Biểu thuế xuất, nhập khẩu ưu đãi và có hiệu lực từ ngày 1 – 1 -
2010. Quy định mới này nằm trong lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết của Việt Nam
trong WTO.
Đồng thời do giá trị của ô tô cao, nên chỉ cần lượng ô tô nhập vào tăng nhẹ thì cũng đã
làm cho kim ngạch nhập khẩu ô tô tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, nhìn theo khía cạnh khác ta thấy: nhập khẩu ô tô tăng chủ yếu là do nhập
khẩu các linh kiện, phụ tùng ô tô tăng. Còn lượng nhập khẩu ô tô nguyên chiếc thì tăng
không đáng kể. Do đó, việc nhập khẩu ô tô tăng cũng góp phần vào việc sản xuất cho ô tô
trong nước, và xuất khẩu trở lại các nước khác.
2.2.8 Nhập khẩu hàng tiêu dùng
Một nguyên nhân nữa cộng hưởng dẫn đến việc nhập siêu của nước ta trong thời gian
vừa qua, đó chính là việc nhập khẩu ồ ạt hàng tiêu dùng, nông sản…những mặt hàng mà
trong nước hoàn toàn có thể tự sản xuất.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam
24

Vừa qua trên báo Tuổi trẻ, đã có loạt bài về vấn đề nhập khẩu “hàng lạ” đã phần nào
đưa ra một cái nhìn sâu sắc về một góc khuất trong vấn đề nhập siêu của Việt Nam. Chúng
ta quan tâm nhiều đến các mặt hàng có giá trị nhập khẩu cao, và gần như là những mặt
hàng nhập khẩu “truyền thống” của Việt Nam như máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu,
phục vụ sản xuất. Về hàng tiêu dùng, trước nay, chúng ta cứ nghĩ tình trạng nhập siêu là
do nhiều người Việt Nam xài hàng quá xa xỉ như điện thoại iPhone, xe máy đời mới SH,
@ hay xế hộp, mỹ phẩm cao cấp Thế nhưng, thực chất qua con số thống kê của Bộ Công
thương cho thấy việc nhập khẩu hàng tiêu dùng trong nước, nhất là nông sản, vào một đất
nước nông nghiệp như Việt Nam đang tăng lên rất nhanh. Mấy ai nghĩ rằng tăm tre, mặt
hàng tưởng như chỉ có thế mạnh ở VN, thế nhưng từ đầu năm đến nay lượng hàng nhập về
chỉ riêng ở TP.HCM đã lên đến hàng trăm tấn. Giờ đây tăm ngoại đang được bán rộng rãi
tại siêu thị, chợ và các cửa hàng tạp hóa. Chỉ trong sáu tháng đầu năm nay, tăm tre nhập
khẩu từ Trung Quốc về TP.HCM khoảng 286 tấn, trị giá gần 40.000 USD. Lượng tăm
nhập khẩu về nhiều đã ảnh hưởng khá tiêu cực đến hoạt động sản xuất của các cơ sở làm
tăm tre trong nước. Các mặt hàng nông sản như nấm, cà rốt, hành tây, tỏi, gừng Trung
Quốc và nhiều mặt hàng trái cây ngoại nhập như đào, lựu, quýt, ổi, chuối nhập khẩu từ
Trung Quốc, Philippines cũng đã len lỏi vào mọi ngóc ngách và “làm mưa làm gió” trên
thị trường nông sản và trái cây Việt Nam.
Đọc bài viết “Miếng rửa chén triệu đô” – báo Tuổi trẻ, đã không ít người ngỡ ngàng.
Miếng rửa chén, miếng chùi xoong nồi dù là mặt hàng đơn giản, trong nước hoàn toàn
có thể sản xuất được nhưng cũng đang góp phần vào con số nhập siêu. Chỉ trong một thời
gian ngắn mặt hàng này đã được nhập khẩu ồ ạt và tiêu thụ rộng rãi tại thị trường trong
nước. Theo thống kê của Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 (nơi đang
chiếm 81% thị phần hàng hóa xuất nhập khẩu về khu vực TP.HCM), từ đầu năm 2010 đến
nay kim ngạch nhập khẩu miếng rửa chén, chùi xoong nồi thông quan qua cảng Cát Lái
(Q.2) đã lên tới 5,73 triệu USD. Với tốc độ nhập khẩu như hiện nay, ước tính mỗi năm VN
phải bỏ ra không dưới 10 triệu USD để mua miếng chùi xoong nồi. Một cán bộ lãnh đạo
Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 cho biết Trung Quốc và Nhật Bản là
hai thị trường nhập khẩu chủ yếu, trong đó hàng Trung Quốc chiếm đa số.
Đề án nghiên cứu Những giải pháp giảm nhập siêu cho Việt Nam

25

×