BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề Tài
VẤN ĐỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY NỀN
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tên Sinh Viên
: Nguyễn Hoài An
Mã số sinh viên
: 2051150075
GV Hướng Dẫn
: Ths. Đào Văn Minh
TP HỒ CHÍ MINH, Ngày 05 tháng 05 năm 2022
MỤC LỤC
Phần
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
1
GIA ĐÌNH ......................................................................................................... 2
1.1
Khái niệm, trị trí của gia đình............................................................ 2
1.1.1
Khái niệm và vị trí của gia đình .................................................. 2
1.1.2
Các hình thái hơn nhân và hình thái gia đình của các giai cấp ... 6
1.2
Chức năng cơ bản của gia đình ......................................................... 7
Những cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
1.3
xã hội ……………………………………………………………………...9
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
2
MÁC – LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................. 12
2.1
Thực trạng của gia đình Việt Nam hiện nay ................................... 12
2.2
Phương hướng, giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay ... 13
2.2.1
Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay ............. 13
2.2.2
Giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay ..................... 15
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 18
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Ngày nay, gia đình là một trong những lĩnh vực đang diễn ra những
biến động to lớn, do vậy, nó thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học xã hội, trong đó có triết học. Việc nghiên cứu gia đình dưới góc độ
triết học cho phép chúng ta có thể lý giải được những vấn đề mang tính lý luận,
như nguồn gốc, cơ sở của sự biến động trong gia đình hiện đại, hay những vấn
đề mang tính thời sự, như hơn nhân, tình yêu, tương lai của gia đình hoặc vấn
đề về sự bình đẳng giới …
Trong địa hạt những nghiên cứu về gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
có những đóng góp rất quan trọng. Những tư tưởng chủ đạo của Ph.Ăngghen
về vấn đề này được trình bày một cách căn bản và tập trung trong Nguồn gốc
gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước viết năm 1884. Trong đó, ông đã làm rõ
nhiều vấn đề quan trọng như nguồn gốc, vị trí và vai trị… của gia đình trên
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử
Nội dung chính của bài tiểu luận
- Nội dung gồm 4 phần gồm:
• Mở đầu
• Nội dung
• Kết luận
• Tài liệu tham khảo
1
NỘI DUNG
1 CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH
1.1 Khái niệm, trị trí của gia đình
1.1.1 Khái niệm và vị trí của gia đình
Vấn đề gia đình đã được nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái triết học
đề cập dưới các giác độ khác nhau.
Theo Triết học phương Đông cổ đại:
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của
xã hội, có vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định của xã hội, với
đạo đức và cuộc sống của con người. Nho giáo cho rằng: “Gốc của thiên hạ ở
nước; gốc của nước ở nhà; gốc của nhà ở mỗi người. Nho giáo đã chỉ ra những
quan hệ cơ bản giường cột gọi là tam cương gồm có: quan hệ quân - thần, quan
hệ phu - thê, quan hệ phụ - tử; năm quan hệ cơ bản gọi là ngũ luân: bao gồm ba
quan hệ trên cộng thêm quan hệ huynh - đệ, quan hệ bằng hữu. Như vậy, hơn
nửa các mối quan hệ ấy thuộc phạm vi quan hệ gia đình. Thực hiện tốt những
nghĩa vụ, trách nhiệm tương ứng với các quan hệ xã hội ấy là đi trên con đường
chính đạo. Trung - hiếu - nhân - nghĩa - lễ - trí - tín cũng từ ấy mà ra. Gia đình
là nơi tu dưỡng, rèn luyện những đức căn bản của con người. Trong gia đình
con người ứng xử, hành động tuân theo lễ. Qua lễ, con người mới có thể biết
được như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là kính với người trên, là từ đễ với anh
em thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân với người xung quanh, là tín
thực với thân thuộc. Như vậy, gia đình là nơi rèn luyện đạo làm người.
Nho giáo cũng nhấn mạnh việc mọi nhà ổn định, xây dựng gia đình
lành mạnh là cơ sở để củng cố đất nước. Nho giáo quan niệm, gia là cái nhà
2
nhỏ, nước là cái nhà to; gia đình là xã hội thu nhỏ, là gốc của quốc gia. Do đó,
một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hịa thuận.
Nho giáo là một học thuyết lấy căn cứ vào gia đình làm xuất phát điểm
để hình dung thế giới, với mục tiêu xây dựng mơ hình gia đình êm ấm để đạt
được xã hội lý tưởng. Gia đình trong quan niệm Nho giáo là gia đình phụ quyền,
Nho giáo khơng bàn tới gia đình có phụ nữ làm chủ
Theo Triết học phương Tây cổ đại
Platon cho rằng, để khắc phục tình trạng phân chia giàu nghèo thì cần
phải xóa bỏ gia đình và tư hữu. Ngược lại, Arixtốt lại đề cao vai trò của gia
đình đối với nhà nước, xã hội và con người. Ông cho rằng, nhà nước chỉ xuất
hiện khi có sự giao tiếp về lợi ích giữa nhiều gia đình và họ hàng về một cuộc
sống đầy đủ và hoàn thiện. Gia đình và cá nhân là “thiên chức tự nhiên” của
nhà nước, vì vậy con người về bản chất phải thuộc về nhà nước, vượt ra ngồi
khn khổ nhà nước thì con người khơng phải là con người phát triển về đạo
đức hoặc đó là động vật, hoặc đó là thượng đế. Ông cho rằng, nhà nước ra đời
trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp tục chính quyền trong gia
đình.
Xơcrát cũng đề cao vai trị của gia đình khi ơng so sánh việc quản lý
nhà nước cũng như quản lý gia đình. Theo ơng, “khi khơng biết cai quản một
gia đình thì làm sao có thể cai quản được cả vạn hộ”.
Nhà triết học cổ điển Đức, Hê-Ghen cũng gắn vai trị của gia đình với
nhà nước. Ơng cho rằng, gia đình và xã hội cơng dân chịu sự chỉ đạo của nhà
nước, chỉ có nhà nước là sự thực hiện tự do. Nhờ nó, gia đình và xã hội cơng
dân được bảo tồn, đời sống xã hội cũng như mâu thuẫn giai cấp mới được điều
hòa.
3
➔ Nhìn chung, các nhà triết học phương Tây ít chú ý đến vấn đề gia
đình, hoặc chỉ đề cập đến gia đình và vai trị của nó khi bàn đến nhà nước, hôn
nhân và chế độ sở hữu.
Từ thế kỷ XVIII cho đến thế kỷ XX, khi các phong trào nữ quyền, các
học thuyết triết học nữ quyền xuất hiện và lan rộng, quan niệm về bình đẳng
giới trong gia đình và xã hội. Các nhà nữ quyền đã dùng cách tiếp cận giới là
phương pháp then chốt để nghiên cứu gia đình. Gia đình được coi là thiết chế
trung tâm của sự áp bức giới và là cội nguồn của các hình thức áp bức khác đối
với phụ nữ trong xã hội. “Khác với phương pháp tiếp cận truyền thống coi gia
đình là một thiết chế phổ biến, một yếu tố tự nhiên mang tính sinh học, một đơn
vị thống nhất và cùng có chung một lợi ích trong đó sinh đẻ, ni con, làm việc
nhà, chăm sóc các thành viên là “thiên chức” của người phụ nữ, các nhà nữ
quyền đã đi sâu phân tích những mối quan hệ bên trong gia đình và những trải
nghiệm của phụ nữ trong phạm vi gia đình”. Do vậy, gia đình có vai trị to lớn
ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới và vai trị của người phụ nữ.
Theo triết học Mác – Lênin:
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình và vai trị của gia
đình là sự kế thừa có bổ sung những tư tưởng trước đó, vì vậy cái nhìn về vai
trị của gia đình ở đây trở nên khách quan, tồn diện hơn, phản ánh chân thực
về sự vận động, biến đổi cũng như vai trị của gia đình trong xã hội.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi gia đình là một trong ba mối
quan hệ của con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại:
• Quan hệ thứ nhất là giữa con người với tự nhiên;
• Quan hệ thứ hai là giữa con người với con người trong q trình sản xuất;
• Quan hệ thứ ba là gia đình.
4
Theo các ơng, quan hệ gia đình “tham dự ngay từ đầu vào quá trình
phát triển của lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con
người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nẩy nở - đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái”. Ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa
vào nhau, cùng tồn tại bên nhau.
Gia đình là một phạm trù lịch sử, mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi
chế độ xã hội đều sản sinh ra loại gia đình tương ứng, do đó, vai trị và chức
năng của gia đình ở mỗi thời đại cũng có sự thay đổi.
Ở thời tiền sử, gia đình “là quan hệ xã hội duy nhất”. Khi đó, gia đình
có vai trị vừa là cộng đồng lao động, vừa là cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ
tồn tại của xã hội; chức năng của gia đình cũng đồng thời là chức năng của xã
hội
Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới xuất hiện. Khi nhu cầu
của con người phát triển lại xuất hiện những quan hệ xã hội mới làm cho gia
đình từ chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành “quan hệ phụ thuộc”. Sự chuyển
biến này gắn liền với quá trình phân cơng lao động xã hội, với q trình phát
triển xã hội, dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm
chí có sự đối lập giữa gia đình và xã hội.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước, Ph.Ăngghen phân tích rõ vai trị “tế bào xã hội” của gia đình; mối
quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội. Ơng khẳng định, một mặt, những
điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết
định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. Mặt khác, gia đình và trình
độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con người,
bảo vệ nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho nền sản xuất xã hội.
5
1.1.2 Các hình thái hơn nhân và hình thái gia đình của các giai cấp
Về hơn nhân thời cổ: C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong suốt
thời cổ, các cuộc hôn nhân đều do cha mẹ quyết định thay cho con cái, và con
cái đều yên tâm vâng theo”.
- Hôn nhân thời trung cổ, hôn nhân của quý tộc, của thị dân các phường
hội: Các ông đã chỉ rõ: “... Đối với kị sĩ hoặc nam tước, cũng y như đối với bản
thân hồng tử, hơn nhân là một hành vi chính trị, là một cơ hội để tăng cường
thế lực của mình bằng những cuộc thơng gia mới; chính lợi ích của vương triều
quyết định, chứ không phải nguyện vọng cá nhân quyết định”
- Đối với người thị dân các phường hội ở các thành thị thời trung cổ
thì cũng như thế… hồn tồn khơng phải nguyện vọng cá nhân, mà chính lợi
ích gia đình quyết định xem người phụ nữ nào thích hợp với anh ta hơn hết…
Vậy là trong tuyệt đại đa số các trường hợp, cho đến tận cuối thời trung cổ, hơn
nhân vẫn giữ ngun tính chất mà nó đã có ngay từ đầu: một việc không phải
do bản thân những người kết hôn quyết định
Hôn nhân tư sản - gia đình tư sản: C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ ra một trong
những cơng trình chủ yếu nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra những
con người “tự do” và “bình đẳng” để ký kết hợp đồng “kết hơn”. Do đó, bản
chất xã hội của hơn nhân, gia đình là hơn nhân có tính giai cấp, hơn nhân có
“tính tốn” lợi hại và là những giao kèo, cũng như trước kia, nó vẫn là cuộc hơn
nhân có tính tốn. Các ơng viết: “Theo quan niệm tư sản, hôn nhân là một hợp
đồng, một giao kèo có tính chất pháp lý, hơn nữa lại là một giao kèo quan trọng
nhất trong tất cả mọi giao kèo, vì nó định đoạt cả thể xác lẫn tinh thần của hai
con người trong suốt cả đời họ
Hôn nhân của người vơ sản - gia đình vơ sản: C.Mác và Ph.Ăngghen
đã đưa ra những quan điểm của mình về gia đình trong xã hội tương lai: “…
Chỉ có trong giai cấp vơ sản, thì tình u nam nữ mới có thể trở thành một quy
6
tắc trong các quan hệ đối với người phụ nữ... Hơn nữa, từ ngày đại công nghiệp
đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị trường lao động và vào
công xưởng, và thường biến họ thành người ni dưỡng của gia đình, thì trong
gia đình người vơ sản những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của người
đàn ông đã mất mọi cơ sở”
C.Mác và Ph.Ăngghen có quan điểm tán thành giải quyết ly hơn khi
hạnh phúc gia đình thực sự khơng cịn nữa; đó là điều cần thiết cho cả người
đàn ông, người đàn bà và cho cả xã hội, là biểu hiện của đạo đức và là một quy
tắc trong quan hệ vợ chồng mới... Trong xã hội tương lai, đảm bảo cho con
người quyền tự do kết hôn và tự do ly hơn trên cơ sở bình đẳng giữa người đàn
ơng và người đàn bà, đây là bước tiến rõ rệt trong thời hiện đại.
➔ Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và tiến bộ đã làm thay đổi mối quan
hệ trong gia đình: địa vị của người phụ nữ được coi trọng, sự bình đẳng giữa
nam và nữ, giữa vợ và chồng được thiết lập, tình trạng áp đặt ép buộc đối với
con cái trong hơn nhân khơng cịn nữa, cha mẹ thương u tơn trọng những nhu
cầu chính đáng của con cái.
1.2 Chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng riêng có của gia đình, nhằm duy trì nịi giống, cung
cấp sức lao động cho xã hội, cung cấp công dân mới, người lao động mới, thế
hệ mới đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội lồi người.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình
sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành xã hội và khi xã hội
lồi người được hình thành thì những hoạt động của nó thường xun tác động
tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về cả hình thức, cấu trúc cũng như vai
trị của nó đối với xã hội. Dưới chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
chức năng quan trọng của gia đình là tích luỹ tài sản và sinh ra người thừa kế
7
tài sản của người chủ sở hữu (người chồng, người cha). Do vậy, nét nổi bật
trong quan hệ gia đình trong các chế độ xã hội ấy là sự bất bình đẳng giữa vợ
và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa anh em với nhau. Điều đó đã dẫn đến
sự rạn nứt những mối quan hệ trong gia đình. Cũng vì vậy mà nảy sinh mâu
thuẫn giữa gia đình và xã hội, làm hạn chế vai trò của gia đình đối với sự phát
triển của xã hội.
Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Đây là chức năng cơ bản của gia đình, bao gồm hoạt động sản xuất kinh
doanh và hoạt động tiêu dùng để thõa mãn các yêu cầu của mỗi thành viên của
gia đình. Sự tồn tại của kinh tế gia đình cịn phát huy một cách có hiệu quả mọi
tiềm năng về vốn, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia
đình và cho xã hội. Thực hiện chức năng kinh tế tốt sẽ tạo ra tiền đề và cuộc
sống vật chất cho tổ chức đời sống gia đình
Việc tổ chức đời sống gia đình chình là việc sử dụng hợp lý các khoản
thu nhập của các thành viên và thời gian nhàn rỗi để tạo ra môi trường văn hóa
lành mạnh trong gia đình, đời sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo
sẽ nâng cao sức khỏe của các thành viên đồng thời cũng duy trì sắc thái, sở
thích riêng của mỗi người.
C.Mác và Ph.Ăngghen khơng dừng lại ở chức năng tái sản sinh con
người, mà các ơng rất lưu tâm đến vai trị kinh tế trong gia đình, có khi ví như
một địn bẩy góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Chức năng kinh tế vốn là chức
năng khởi thủy của gia đình và nó giữ vai trị quan trọng lâu dài trong lịch sử.
Bên cạnh đó, chức năng văn hóa của gia đình có tác động đến việc bảo tồn và
phát triển các di sản văn hóa, các hệ giá trị và bản sắc dân tộc. Bản chất của gia
đình đã chứa đựng sẵn những nhân tố văn hóa nội sinh. Gia đình ln giữ vai
trị chuyển tải các giá trị văn hóa của xã hội. Và hơn nữa, bản thân sự tồn tại
của gia đình là một biểu hiện văn hóa…
8
Chức năng giáo dục
Nội dung của giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo
đức, lối sống, nhân cách, thẩm mỹ … phương pháp giáo dục gia đình cũng đa
dạng, song chủ yếu bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia
phong của gia đình truyền thống. Chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu là cha mẹ,
ông bà đối với con cháu, cho nên giáo dục gia dình con bao hàm cả tự giáo dục.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và sự quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho
giáo dục nhà và xã hội, trong đó giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng được
coi là thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Dù giáo dục xã hội đóng vai
trị ngày càng quan trọng, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục
gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế được.
Chức năng thõa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm
Đây là chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Chức năng này
kết hợp với cách chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng gia
đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính, tuổi tác, sự căng thẳng
mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác … thì mơi trường
gia đình là nơi giải quyết có hiệu quả nhất. Trong gia đình, mọi thành viên đều
có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng trên, trong đó người phụ nữ có
vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ đảm nhận một số thiên chức khơng thể thay
thế đươc. Vì vậy, việc giải phóng phụ nữ được coi là mục tiêu quan trọng của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải bắt đầu từ gia đình.
1.3 Những cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội
9
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của
lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan
hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất
từng bước hình thành và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình
dần dần bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong
gia đình và giải phóng phụ nữ trong trong xã hội.
➔ Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn
nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình u chứ khơng phải vì lý do kinh tế,
địa vị xã hội hay một sự tính tốn nào khác.
Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử,
nhân dân lao động được thực hiện quyền lực của mình khơng có sự phân biệt
giữa nam và nữ. Nhà nước cũng chính là cơng cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ,
lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ
nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền
xơ viết là chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu
tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện, những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào
tình trạng khơng bình đẳng với nam giới, đã dành đặc quyền cho nam giới…
Chính quyền xơ viết, một chính quyền của nhân dân lao động, chính quyền đầu
tiên và duy nhất trên thế giới đã hủy bỏ tất cả những đặc quyền gắn liền với chế
độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ơng trong gia đình…”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia
đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò
10
của hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hơn nhân và Gia đình cùng với hệ
thống chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của cơng dân, các thành viên trong gia
đình, đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã
hội… Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy
quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
➔Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hồn thiện
thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình cịn hạn chế.
Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn
bản trong đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng khơng
ngừng biến đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng
chính trị của giai cấp cơng nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò
chi phối nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố văn
hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại
bỏ.
Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và cơng nghệ góp
phần nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và cơng nghệ của xã hội,
đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức
mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh
các mối quan hệ gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
➔Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi liền với cơ sở
kinh tế, chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.
11
2 CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Thực trạng của gia đình Việt Nam hiện nay
Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến
chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm
mới, hiện đại và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và
giao lưu văn hóa làm xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hơn nhân và
gia đình Việt Nam.
Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc
sống, sau đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải trí,
địa vị, tín ngưỡng tơn giáo và chính trị. Khái niệm gia đình ở đây là mơ hình
gia đình truyền thống được xây dựng trên cơ sở hơn nhân.
Có thể thấy, gia đình và hơn nhân là một giá trị quan trọng ở Việt Nam
và là thiết chế xã hội phổ biến. Phần lớn những người được hỏi vẫn khẳng định
tầm quan trọng của hơn nhân, theo đó, thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất
thiết cần lập gia đình. Quan điểm của nhóm những người chưa kết hơn cho thấy
xu hướng hôn nhân vẫn là xu hướng chủ đạo trong tương lai (với 80,5% số
người chưa kết hôn cho biết sẽ “kết hơn, có gia đình”, 46,2% cho rằng “thanh
niên đến tuổi trưởng thành phải lập gia đình”; tỷ lệ người đồng ý với việc sống
độc thân thấp hơn nhiều so với số người không đồng ý).
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Thực tiễn xây dựng gia đình
Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận:
mức sống của đại bộ phận các gia đình đã được cải thiện đáng kể, cơng tác xoá
12
đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thốt nghèo
và nâng cao mức sống, chất lượng sống.
Mặt khác, gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang chịu sự tác động tiêu
cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, q trình đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Gia đình đang biến đổi sâu sắc từ quy mơ kết
cấu đến các mối quan hệ và giá trị. Gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với
nhiều thách thức to lớn: mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra lối sống thực
dụng; tuyệt đối hóa những giá trị vật chất; một số giá trị đạo đức gia đình truyền
thống bị đảo lộn. Đặc biệt, các sản phẩm văn hố độc hại từ bên ngồi du nhập
vào đã dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội, khiến lối sống gia đình Việt Nam truyền
thống có nguy cơ bị mai một. Trước thực trạng này, việc giữ gìn và phát huy
giá trị gia đình truyền thống càng trở nên quan trọng và cấp bách hiện nay.
2.2 Phương hướng, giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam
hiện nay
2.2.1 Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Kế thừa và phát triển những quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề gia đình và xây dựng gia
đình trong xã hội mới, coi gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố quan trọng
quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn,
hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
là phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Ở nước ta, vai trị của gia đình được khẳng định
ngay trong Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và trong Chiến
lược xây dựng gia đình Việt Nam.
Nhà nước cần thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội lấy gia đình là
trọng tâm và xây dựng gia đình đảm bảo sự gắn kết xã hội và vai trị chăm sóc
13
trong bối cảnh gia đình vẫn là một giá trị được người dân ưu tiên hàng đầu
trong cuộc sống và quy mơ, cơ cấu, chức năng gia đình đang thay đổi theo
hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa. Những chính sách và dịch vụ
xã hội đảm bảo sự tiếp cận cơng bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình
hiện nay như chung sống khơng kết hơn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính,
gia đình có hơn nhân với người nước ngồi, vốn ít có trong xã hội trong truyền
thống nhưng bắt đầu xuất hiện trong xã hội chuyển đổi từ nơng nghiệp sang
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tiếp tục đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế gia đình. Đời
sống kinh tế, phúc lợi gia đình Việt Nam trên các khía cạnh nhà ở, tiện nghi,
thu nhập, chi tiêu đã tăng khá mạnh mẽ trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, bất bình
đẳng về phúc lợi gia đình diễn ra giữa các nhóm thu nhập, giữa các vùng, giữa
thành thị và nông thôn cũng ngày càng tăng trong khi độ bao phủ và nguồn lực
của hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cịn hạn chế, địi hỏi xây dựng tầm
nhìn thúc đẩy kinh tế, khát vọng làm giàu của gia đình để tạo ra hệ thống an
sinh xã hội nhiều lớp, tăng khả năng chống chịu rủi ro, đảm bảo không gian an
tồn cho gia đình.
Cải thiện hệ thống an sinh xã hội thích ứng với già hóa dân số và biến
đổi xã hội. Việc giá trị an sinh của con cái tiếp tục được coi trọng đã khẳng
định vai trò quan trọng của gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi cũng
như sự hạn chế của hệ thống an sinh xã hội dành cho người cao tuổi. Mặt khác,
dưới góc độ văn hóa, giá trị xã hội của con trai có quan hệ chặt chẽ với giá trị
an sinh. Điều này phù hợp với truyền thống của gia đình Việt Nam trong đó
quy trách nhiệm chăm sóc chính cho cha mẹ lúc về già thuộc về con trai, nên
những người mong muốn có con chăm sóc khi về già sẽ là nhóm mong muốn
có con trai. Trong cuộc điều tra này, tỷ lệ người cho rằng trách nhiệm chăm sóc
chính cho cha mẹ lúc về già là của con trai vẫn chiếm 22,5%, cao gấp nhiều lần
so với con gái. Do đó, để cải thiện sự ưa thích con trai, ngoài việc thay đổi nhận
14
thức của người dân về giá trị an sinh xã hội của con cái, cải thiện điều kiện an
sinh xã hội cho người dân khi về già cũng có vai trò quan trọng.
Xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ
mới để có thể giáo dục, tuyên truyền, duy trì những giá trị hạnh phúc. Trên thực
tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng mà đời sống xã hội hay trong quan
niệm của nhân dân cịn có thể có những biểu hiện cụ thể hơn nữa: giá trị của
hơn nhân, gia đình, các biểu hiện bền vững của gia đình, giá trị con cái, tình
thương u, sự hiếu thảo, tính đồn kết của cộng đồng.
2.2.2 Giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh các giá trị gia đình vẫn là giá trị được người dân ưu tiên
hàng đầu trong cuộc sống cũng như quy mô, cơ cấu, chức năng gia đình đang
thay đổi theo hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa, cần đẩy mạnh
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường các hoạt động tun truyền, truyền thơng về bình
đẳng giới. Tiếp tục tun truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự thoát khỏi các
định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân về những khắt khe trong
hành vi hơn nhân và gia đình, hướng phụ nữ tới những giá trị được tơn trọng,
được bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, được tự
thể hiện bản thân, được hạnh phúc, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều cho xã
hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...
Hai là, xây dựng chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận
công bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình. Như chung sống khơng kết
hơn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hơn nhân với người nước
ngồi, gia đình ly hơn/ly thân...
Ba là, phổ biến kết quả nghiên cứu về các giá trị gia đình mà người
dân Việt Nam đang ủng hộ tới các nhà lập pháp, hoạch định chính sách, quản
lý nhà nước về gia đình để nắm rõ thực tế các giá trị của gia đình hiện nay.
15
Đặc biệt là những khác biệt xã hội về giá trị gia đình thuộc các mức
hiện đại hóa khác nhau, trong các bối cảnh văn hóa khác nhau. Quan tâm đến
các giá trị của nhóm thuộc khu vực kém phát triển, có mức hiện đại hóa thấp
để có thể giáo dục, tuyên truyền duy trì những giá trị truyền thống tốt đẹp đang
bảo lưu rõ nét ở khu vực này. Đồng thời, có những hỗ trợ về dịch vụ xã hội, tư
vấn xã hội cho các nhóm hiện đại, đang có xu hướng theo những giá trị hiện
đại của gia đình để phát huy sự tự do cá nhân, cởi mở trong quan niệm, đồng
thời hạn chế những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, lối sống hưởng
thụ, ích kỷ.
Bốn là, xem xét xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình
trong thời kỳ tới trên cơ sở những giá trị gia đình đã được định hình thơng suốt
và thống nhất về mặt nhà nước là “ấm no”, “bình đẳng”, “chung thủy”, “tiến
bộ” và “hạnh phúc”. Trên thực tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng mà đời
sống xã hội hay trong quan niệm của nhân dân có thể cịn những biểu hiện cụ
thể hơn nữa, như giá trị của hơn nhân, gia đình, các biểu hiện của bền vững gia
đình, giá trị con cái, tình thương u, hiếu thảo, đồn kết cộng đồng, đồng thời
bao hàm cả những biến đổi mạnh mẽ theo mức độ hiện đại hóa của các gia đình
hiện nay.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 nên xem
xét bổ sung nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình. Trong giai đoạn tới,
Việt Nam nên chuyển mục tiêu từ “xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” sang “xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh
phúc, phồn thịnh, là thiết chế quan trọng của các quá trình kinh tế - xã hội và
nguồn nhân lực ổn định, chất lượng” để tiếp tục khẳng định vai trị quan trọng
của gia đình trong sự phát triển của xã hội, đặt gia đình trong mối quan hệ
“động” hơn với các quá trình kinh tế - xã hội chung.
16
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy, vai trị đặc biệt quan trọng của gia đình khơng chỉ
đối với xã hội, đất nước, mà với mỗi bản thân con người. Phát huy vai trị tích
cực của gia đình, khắc phục những hạn chế cịn tồn tại trong mỗi gia đình hiện
nay, xây dựng gia đình văn hóa là góp phần quyết định xây dựng xã hội mới ổn
định, dân chủ, văn minh.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004, tr. 74.
2. Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, Nxb Chính trị quốc gia sự
thật, 2019, tr 128.
3. PGS,TS Nguyễn Thị Nga, ThS Ngơ Thị Nụ (2014), Vấn đề gia đình
trong tư tưởng triết học của C.Mác, Ph.Ăngghen,
/>ngày 10/05/2022.
4. ThS.Trần Văn Tồn (2020), Quan điểm của Ph.Ăngghen về gia đình và
vấn đề xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay,
ngày 10/05/2022.
5. PGS. TS. Trần Thị Minh Thi, Đặc điểm và định hướng giá trị cơ bản
của gia đình Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030,
ngày
10/05/22022.
18